Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục đặt ra yêu cầu nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để định hình một nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính quốc gia

Một là, xây dựng nền hành chính hợp hiến, hợp pháp

Chế độ dân chủ cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến là nhà nước của dân, do dân và vì dân; mang bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Do vậy, nền hành chính nhà nước phải phù hợp với bản chất của nhà nước, của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, gắn bó với quần chúng nhân dân, phục vụ nhân dân và lấy lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc làm cơ bản.

Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Điều này cho thấy vai trò, tầm quan trọng của hiến pháp trong xây dựng một nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền, trước hết là hiến định chủ quyền của quốc gia - dân tộc, ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.

Với tính chất quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, lập Chính phủ chính thức cũng như ban hành Hiến pháp. Cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 được tiến hành thắng lợi với chế độ phổ thông đầu phiếu. Qua bầu cử Quốc hội khóa I và các kỳ bầu cử Quốc hội sau đó, các quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của công dân từng bước được thực thi. Bản Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được Quốc hội thông qua với sự đồng thuận gần như tuyệt đối của các đại biểu (240/242 phiếu). Hiến pháp năm 1946 khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chế định bản chất cách mạng, tính dân chủ, nhân dân và pháp quyền thành những điều khoản cụ thể. Đây chính là quá trình hiện thực hóa, pháp chế hóa, thể hiện tính ưu việt của một chế độ mới luôn mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân.

Cùng với Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cao nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Trước đó, từ rất sớm, Người đã yêu cầu: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”. Pháp luật là tối thượng và phải có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, bất kể cá nhân hay tổ chức đều phải tuân theo. Việc xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp gắn với xây dựng một nền hành chính dân chủ, liêm chính, khoa học luôn là vấn đề thường trực trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm hướng tới xây dựng “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt” của nhân dân.

Hai là, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân

Lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất khi thiết kế nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “1- Làm cho dân có ăn; 2- Làm cho dân có mặc; 3- Làm cho dân có chỗ ở; 4- Làm cho dân có học hành”. Đây cũng chính là ham muốn tột bậc của Người, rằng: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Do vậy, nền hành chính nhà nước phải vì: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đây là cơ sở để hướng mọi nỗ lực của các cơ quan hành chính vào phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngày 3-6-1955, tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trước nhân dân: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Điều đó có nghĩa là Đảng và Chính phủ không chỉ lo những vấn đề lớn, mà còn cả những vấn đề thiết thực đối với nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền hành chính phục vụ, một nền hành chính của dân, do dân và vì dân; công chức hành chính là đầy tớ của dân, phục vụ nhân dân, chứ không phải “đè đầu cưỡi cổ” nhân dân như trong thời phong kiến, thực dân. Cá nhân hay tổ chức làm hại dân thì dân có quyền phê bình, thậm chí “đuổi cổ” họ. Với tư tưởng đó, nền hành chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự độc đáo, sáng tạo và mang tính dân chủ sâu sắc. Một nền hành chính mạnh mẽ, sáng suốt là nền tảng cho việc tổ chức nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, làm cho hiệu lực pháp luật được triển khai trong thực tế.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Ba là, xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả

Xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của đất nước.

Trong quá trình xây dựng nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại các tiêu cực nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, liêm chính, tinh gọn và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thể hiện bản chất nhà nước kiểu mới, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ra sức phục vụ nhân dân. Hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước phụ thuộc lớn vào hiệu quả hoạt động của các thành phần cấu thành nên nó. Do vậy, cần phải xây dựng một bộ máy hành chính đồng bộ, khoa học, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra một phương châm nhất quán: gọn nhẹ, có cơ cấu hợp lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Để có nền hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần có quy trình tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ phù hợp, đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng. Về số lượng, trước yêu cầu ngày càng lớn của cách mạng, Người rất quan tâm đến số lượng cán bộ, công chức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hình thức chọn cán bộ để bảo đảm về số lượng, như qua kỳ thi, qua xét học bạ hay văn bằng và đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Cùng với đó, Người đã ra thông lệnh Tìm người tài đức để tuyển chọn cán bộ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức... các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”Ngoài ra, Người còn chỉ ra các nguồn nhân tài từ các nhân sĩ, trí thức trong chế độ cũ có tinh thần yêu nước; từ các tổ chức đoàn thể cách mạng và rộng rãi trong nhân dân.

Về chất lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Thứ nhất, cán bộ phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, với Tổ quốc. Đây là phẩm chất đạo đức cao nhất đối với người cách mạng bởi trong các mối quan hệ thì mối quan hệ với Tổ quốc, với dân tộc là thiêng liêng và cao quý nhất. Cán bộ nhận thức đúng đắn được vấn đề này thì họ mới có thể toàn tâm, toàn ý phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cách mạng và đặt quyền lợi của Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, trước hết. Lòng trung thành của cán bộ phải được thể hiện qua công việc hằng ngày, trong mọi lĩnh vực và trong hiệu quả công tác. Trong lịch sử, rất phổ biến tâm lý làm quan để “cả họ được nhờ”, rồi nghiễm nhiên trở thành “dân chi phụ mẫu”. Còn trong xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “trả lại” cán bộ, công chức nhà nước về đúng vị trí là công bộc của nhân dân. Mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động trong sáng, vì lợi ích của nhân dân và dân tộc. Cán bộ phải hiểu rằng, quyền lực mình đang có trong tay là do dân uỷ thác chứ không phải tự nhiên mà có, phải dùng quyền lực đó để phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Nhân dân mới là người có quyền lực to nhất, do vậy, mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động theo phương châm: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.

Thứ hai, cán bộ phải có năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức, viên chức phải bảo đảm trình độ về chuyên môn, đạo đức. Ngày 20-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76-SL, ban hành Quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòà, Điều 17 của Sắc lệnh quy định rõ: “Tùy nhu cầu công việc, cấp quản trị công chức sẽ mở những kỳ thi tuyển dụng nhân viên. Kỳ thi phải công bố trước ngày thi ít nhất là 2 tháng. Thể lệ và chương trình thi vào mỗi ngạch sẽ do nghị định Bộ sở quản ấn định, sau khi thỏa thuận với Bộ Quốc gia Giáo dục và Bộ Nội vụ”. Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 10-NV2, quy định rõ các phần thi, gồm: “phần 1: một bài luận về văn chương, công dân, giáo dục và thường thức (làm bài trong 2 giờ, được tính hệ số 3); phần 2: một bài địa lý và sử ký (theo chương trung trung học phổ thông, 1 giờ 30 phút, hệ số 2); phần 3: một bài về tổ chức bộ máy chính quyền, Hội đồng nhân dân tỉnh, xã và ủy ban kháng chiến hành chính các cấp (3 giờ, hệ số 3); phần 4: một bài đánh máy chữ (30 phút, hệ số 2); phần 5: một bài tốc ký (Nếu thí sinh tình nguyện) và một giờ dịch ra tiếng Việt (hệ số 2); đồng thời, giới hạn nội dung cụ thể cho từng phần thi và quy định thang điểm là từ 0 đến 20 điểm. Thí sinh phải đạt 12/20 điểm mới trúng tuyển”. Thông qua hình thức thi tuyển công chức theo Sắc lệnh 76 và Hướng dẫn số 10 của Bộ Nội vụ, Nhà nước sẽ có được đội ngũ cán bộ nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, có tri thức cơ bản trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng với tinh thần xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên”.

Thứ ba, cán bộ phải là người dám phụ trách, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ phải luôn có tinh thần dám phụ trách, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn cán bộ, đảng viên “phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Thứ tư, cán bộ phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động vì sự trong sạch, vững mạnh của nhà nước, của nền công vụ. Việc thường xuyên tự phê bình và phê bình là nhằm giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng và nâng cao năng lực công tác, đồng thời để chăm lo xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục vụ. Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải thực sự liêm khiết. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ nghĩa cá nhân là thứ “giặc trong lòng”, “giặc nội xâm”, là căn bệnh gốc sinh ra thói “quan cách mạng”, quan liêu, tham ô, lãng phí, ăn cắp của công. Người cho rằng, nếu Đảng, Chính phủ, đồng bào và chiến sĩ “ra sức chống giặc ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm” là chưa làm tròn bổn phận của người cách mạng, người yêu nước.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nền hành chính nhà nước ở nước ta qua hơn 36 năm đổi mới.

Qua hơn 36 năm đổi mới, việc cải cách hành chính trên một số lĩnh vực có bước đột phá(12). Hệ thống thể chế hành chính nhà nước được cải cách, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, tinh thần dân chủ trong cải cách hành chính được đề cao. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính trong từng giai đoạn cụ thể, đồng thời tiến hành đánh giá, xếp loại công tác cải cách hành chính và công bố kết quả rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hệ thống tổ chức hành chính nhà nước từng bước được tinh gọn từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm, chính phủ số, nền hành chính số từng bước định hình hướng tới một nền hành chính hiện đại. Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Chính phủ đã tiến hành tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Các nguồn lực vật chất cần thiết được bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước; các cơ quan, đơn vị đã chủ động tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động...

Cán bộ, công chức Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn người dân nộp hồ sơ dịch vụ công trực tuyến_Nguồn: baoquangninh.com.vn

Mặc dù vậy, việc cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước, nhiều hạn chế chậm được khắc phục, như tính đồng bộ chưa cao giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chất lượng thể chế thấp, thủ tục hành chính còn rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh, chất lượng đội ngũ cán bộ còn hạn chế, việc tinh giản biên chế có nơi, có chỗ còn mang tính hình thức, chế độ, chính sách tiền lương chưa có đột phá. Chính phủ số và nền hành chính số còn phát triển chậm và chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương...

Trước tình hình đó, Đảng ta yêu cầu: “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”. Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng nền hành chính nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phải trên cơ sở giữ vững được bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ấy phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, chăm lo đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Pháp luật phải có tính nhân văn, hướng thiện, vì con người. Công tác xây dựng, cải cách nền hành chính phải gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, phát huy vai trò giám sát của nhân dân. Đây là giải pháp mang tính tất yếu, khách quan để khắc phục những bất cập, hạn chế của nền hành chính. Từ đó, nâng cao tính chuyên môn và đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức để việc cải cách hành chính hướng đến công khai, minh bạch và dân chủ ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Đây cũng là mục tiêu của cải cách hành chính ở nước ta hiện nay, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao khả năng phối hợp giữa các cấp, các ngành để đạt hiệu quả cao trong quá trình hoạt động.

Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước đòi hỏi hết sức chú trọng công tác cải cách, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho nhân dân. Cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước, như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, có lời nói, hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực với nhân dân, gây bức xúc trong xã hội. Đồng thời, phải lấy hiệu quả công việc và sự hài lòng, sự tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí đánh giá quan trọng đối với tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.

Bên cạnh đó, cần bảo đảm công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, chống các hiện tượng tiêu cực gây phiền hà, mất thời gian, công sức của nhân dân. Điều đó sẽ góp phần đổi mới, cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính nhà nước phải đề cao trách nhiệm cá nhân trong giải quyết khiếu kiện của công dân đúng quy định của pháp luật. Cải cách thủ tục hành chính phải được thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, với quyết tâm cao nhằm xóa bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.

Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng bước hoàn thiện các tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là chủ, làm chủ của nhân dân.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phải hướng tới giữ vững chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa vì thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Chỉ có phát huy dân chủ mới giúp cho cán bộ đề ra nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công tác. Hơn thế, việc phát huy dân chủ là để phát huy quyền là chủ và làm chủ của nhân dân theo luật định. Do đó, các mục tiêu, giải pháp xây dựng, cải cách và hoàn thiện nền hành chính phải vì lợi ích chính đáng của nhân dân và gắn bó chặt chẽ với quá trình đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ vững trật tự, kỷ cương, được bảo đảm bằng pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật, khác hoàn toàn với thứ dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Xây dựng Luật về đạo đức công vụ và thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức.

Khi đề cập đạo đức công vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến các chuẩn mực: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; phải có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao; có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc; chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, xây dựng Luật về đạo đức công vụ. Đây là công cụ để điều chỉnh hành vi đạo đức cho cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà nước hiện nay và từng bước tiến tới xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.

Đồng thời, trong quá trình cải cách hành chính cần thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức; từng bước hiện đại hóa nền công vụ nước nhà, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong nền hành chính, xây dựng bộ máy hành chính thành bộ máy phục vụ, kiến tạo, của dân, do dân, vì dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Từ những tư tưởng chỉ đạo của Người, nền hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cùng với dân tộc hoàn thành trách nhiệm lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cả dân tộc kháng chiến, kiến quốc và xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành người đặt nền móng cho việc xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Tư tưởng của Người mãi soi đường cho việc xây dựng nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân./.

ST.

“Nói đi đôi với làm” - Một chỉ dẫn quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và thực hành đạo đức

“Nói đi đôi với làm” là một trong những nguyên tắc căn bản của đạo đức cách mạng, là biểu hiện sinh động, cụ thể của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức mà mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc và thực hành thường xuyên, hằng ngày trong công việc và đời sống. Vì vậy, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về “Nói đi đôi với làm” là nhiệm vụ quan trọng và mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phấn đấu, thực hiện.

Để hiểu thấu lời dạy của Người - Giá trị và ý nghĩa

“Nói đi đôi với làm” được diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau, mọi cách diễn đạt có thể khác nhau về mức độ, sắc thái, cả hình thức biểu đạt bằng ngôn từ, nhưng tất cả đều có một điểm chung, một điểm nhấn quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự thống nhất, tính nhất quán về mục đích hành động, động cơ tranh đấu, biện pháp thực hành trong lối sống, lẽ sống ở đời và làm người của người cách mạng.

“Nói đi đôi với làm” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, sự gắn liền giữa nhận thức với hành động; lời nói và việc làm phải tương xứng với nhau, phải phù hợp với nhau, không được mâu thuẫn, trái ngược. Để xảy ra tình huống mâu thuẫn, trái ngược này là mắc vào một lỗi lớn, không chỉ là lỗi về tư duy, mà còn là lỗi lớn hơn, nặng hơn về đạo đức; do đó, nói đi đôi với làm là tiêu chí về đức tính trung thực. Ngược lại, nói không đi đôi với làm là bằng chứng của sự giả dối, dối trá, trước hết là thói vô trách nhiệm và thiếu vắng lòng tự trọng. Mệnh đề “nói đi đôi với làm”, quen thuộc, ngắn gọn, giản dị như chân lý của đời sống, hiển nhiên ai cũng hiểu như một lẽ phải thông thường, vậy mà trên thực tế, lại có biết bao nhiêu tình huống phức tạp vẫn xảy ra.

Suy ngẫm và trải nghiệm từ các sự kiện, việc làm, ứng xử với người, với việc, ngay cả với chính mình, chúng ta ngày càng tự ý thức rằng, hóa ra nói đi đôi với làm là chỗ khó nhất ở đời, để thực hiện được không chỉ cần sự hiểu biết, có lý trí, nghị lực và quyết tâm, mà còn cần có tình cảm, đạo đức trong sáng, hướng thiện. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đời thường ta gọi đó là sự tử tế, lương thiện. Nói đi đôi với làm đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên biết tự vấn lương tâm, biết tự trọng mình và tôn trọng người khác, cao nhất là trọng dân, vì dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội 
(ngày 16-7-1960)_Nguồn: hochiminh.vn

Đạo đức có vai trò rất quan trọng và nổi bật trong đánh giá về một con người đến mức, người mà “nói đi đôi với làm”, trong đánh giá của xã hội là người có đạo đức, chứ không nói đó là người có học vấn, học thức. Lẽ dĩ nhiên, học vấn, học thức rất cần thiết để sống ở đời, để vào đời, dấn thân, khởi nghiệp, lập nghiệp. Chính vì thế, nói đi đôi với làm, muốn thực hiện được ở mỗi người, thì đòi hỏi người đó phải có đạo đức; đồng thời, phải thực hành đạo đức thường xuyên, tự giác, bền bỉ và lâu dài.

Thống nhất giữa nói và làm sẽ làm cho con người trưởng thành về đạo đức, về nhân cách, làm cho người đó có đạo đức tốt hơn, để hoàn thiện nhân cách của mình. Đức là gốc, gốc của nhân cách, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh, nói đi đôi với làm không chỉ là yêu cầu nghiêm ngặt của đạo đức, mà nó còn phải trở thành văn hóa đạo đức, là thước đo văn hóa đạo đức, văn hóa nhân cách. Trên thực tế, không thiếu gì trường hợp, con người ta có thể có học vấn tốt, học thức cao, mà vẫn chưa đạt tới chuẩn mực “nói đi đôi với làm”. Những người đó, không chỉ tách rời giữa lời nói với việc làm, mà còn tệ hơn, xấu hơn khi “nói một đằng làm một nẻo”. Như thế, người tuy có học vấn, học thức, mà vẫn có thể giả dối về đạo đức và cơ hội về chính trị.

Trung thực và có bản lĩnh để giữ trọn vẹn lòng trung thực, tính trung thực, biến nó thành nhu cầu trong việc làm, trong lối sống và trong ứng xử, để “trí minh tâm sáng”; nhờ đó, nói đi đôi với làm trở thành đặc trưng trong lối sống, lẽ sống. Con người có đạo đức biết tự vấn lương tâm để hiểu điều phải và không phải, nên và không nên, tốt và xấu, đúng và sai,... cũng chưa đủ; mà phải hành động theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp (Chân - Thiện - Mỹ - những giá trị văn hóa) và tự vượt lên chính mình, đánh bại chủ nghĩa cá nhân, “giặc nội xâm” nguy hiểm nhất, vô hình, ẩn nấp ở ngay trong lòng mỗi người. Đó chính là biểu hiện của “nói đi đôi với làm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta rất tỉ mỉ, sâu sắc như thế; hơn nữa, Người còn suốt đời thực hành “nói đi đôi với làm”, nêu gương cho mọi người noi theo.

Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, viết từ năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu tác phẩm bằng cách nêu rõ: “Tư cách một người cách mệnh”. Một tác phẩm lý luận, viết trên lập trường, quan điểm mác-xít, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, đặt nền móng tư tưởng lý luận, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng vào năm 1930, nhưng lại nhấn mạnh trước hết vào đạo đức, vào “tư cách một người cách mệnh”; điều đó có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và những trù tính chiến lược của Người. Cách mạng là một sự nghiệp vĩ đại, phá cái cũ lỗi thời, lạc hậu đổi ra cái mới tiến bộ, phát triển. Người cách mạng, đảng cách mạng, muốn thực hiện được sự nghiệp vĩ đại đó, trước hết phải có đạo đức.

Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử của các đảng cộng sản đã từng lãnh đạo và cầm quyền, chỉ vì suy thoái về đạo đức, dẫn đến tự đánh mất vai trò lãnh đạo, địa vị cầm quyền của mình, tan rã và sụp đổ, như điều đã xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, đã xác nhận tính đúng đắn và sáng suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Người nêu lên từ rất sớm, ngay từ khi Đảng còn chưa ra đời những điều hệ trọng, như phải “Giữ chủ nghĩa cho vững”, đồng thời “Ít lòng tham muốn về vật chất”. Người nêu rõ trong “tư cách một người cách mệnh” ba mối quan hệ, với 23 tiêu chí, yêu cầu cần phải thực hiện. Đó là những chuẩn mực về đạo đức mà mỗi cá nhân phải thể hiện trong thái độ, trong ứng xử, trong việc làm và hành vi, với tự mình, với người khác, với công việc, mà tổ chức, đoàn thể giao cho. Trong 23 tiêu chí, yêu cầu nêu ra, Người dành tới 14 yêu cầu đối với bản thân mỗi người, mà Người gọi là “tự mình phải”, 5 yêu cầu đối với người khác và 4 yêu cầu đối với công việc.

Trong 14 yêu cầu “tự mình phải”, nổi bật yêu cầu nói đi đôi với làm, “nói thì phải làm”. Đủ thấy, theo Người, việc tự mình rèn luyện đạo đức quan trọng biết nhường nào. Tự mình có đạo đức, thì mới có thể biểu hiện thành ý thức và tình cảm đạo đức mà đối xử với người, với đồng chí, bạn bè, với dân chúng, đồng bào, nêu gương về tính trung thực, khiêm tốn, vị tha, khoan dung, nhân ái. Người đòi hỏi, với mình phải nghiêm, với người phải rộng lòng khoan thứ; phải tận tụy, trách nhiệm trong công việc, cương trực, thẳng thắn, tôn trọng tổ chức, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, không hiếu danh, không kiêu ngạo. Sau này, khi cách mạng đã thành công, Đảng đã cầm quyền, Người vẫn luôn nhấn mạnh, cán bộ, đảng viên phải ra sức tu dưỡng đạo đức, liên hệ mật thiết với dân chúng, phải dân chủ, chứ không biến thành “quan chủ”, phải là đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của nhân dân, chứ không lên mặt “quan cách mạng”, dẫn tới chỗ xa dân, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, cửa quyền. Phải sống và làm việc sao cho nhân dân tin tưởng, nhân dân yêu mến, nếu có lỗi với nhân dân phải thật thà xin lỗi và có quyết tâm sửa lỗi. Dân vận là việc rất quan trọng, có nhân dân giúp sức, thì việc khó mấy cũng làm được, không có nhân dân giúp đỡ, không được nhân dân ủng hộ, thì dù có tài giỏi mấy, cũng không làm nên việc gì. Bởi vậy, trong sáu điều dạy cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân tháng 3-1948, Người đặc biệt nhấn mạnh, tư cách người công an cách mạng là: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính./ Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ./ Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành./ Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép./ Đối với công việc, phải tận tụy”. Với chiến sĩ quân đội nhân dân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” phải “Trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”,... Những lời dạy quý báu đó của Người không chỉ dành riêng cho công an và quân đội, mà còn chung cho tất cả cán bộ, đảng viên, cho mỗi người cách mạng. Toát lên từ những lời dạy ấy là thước đo đạo đức “nói đi đôi với làm”, đã “nói thì phải làm”.

Để đạt được sự thống nhất giữa nói và làm, nói đi đôi với làm, nói thì phải làm, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập để nâng cao hiểu biết, gắn liền học với hành, “tri để hành”, lý luận gắn liền với thực tiễn; đồng thời, phải rèn luyện phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân, không vụ lợi, vị kỷ, để toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chống chủ nghĩa cá nhân, thì phải chống những thói hư tật xấu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là những chứng bệnh phải tẩy sạch trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, được Người viết năm 1947 với bút danh X.Y.Z. Ba căn bệnh mà Người chỉ rõ là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa, phải tự phê bình và phê bình nghiêm khắc khi mắc vào những bệnh rất có hại ấy và phải quyết tâm sửa chữa trong tư tưởng và trong hành động, trong các mối quan hệ.

Vào dịp kỷ niệm sinh nhật Đảng lần thứ 39, ngày 3-2-1969, Người đã có bài viết quan trọng đăng trên Báo Nhân Dân, với chủ đề: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Đây là tác phẩm Người viết vào cuối đời, vẫn chỉ xoay quanh chủ đề đạo đức cách mạng, với thiết tha mong muốn và đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải nói đi đôi với làm, phải đánh bại “giặc nội xâm”, “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nêu cao trách nhiệm, sự gương mẫu, đức hy sinh, suốt đời vì Nước vì Dân, Ái Quốc để Ái Dân, Ái Dân vì Ái Quốc, đúng như tên gọi của Người.

Tóm lại, để lời nói đi đôi với việc làm, thống nhất giữa nói và làm, nói thì phải làm, mỗi cá nhân phải có động cơ, mục đích sống đúng đắn, chân chính, có đức trung thực và khiêm tốn, đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc, của Đảng, của cách mạng lên trên hết, trước hết; có ý chí, nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, có dũng khí, bản lĩnh đứng ngoài vòng danh lợi, tuyệt đối không màng danh lợi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hành và nêu gương.

Giá trị và ý nghĩa sâu xa từ lời dạy của Người, thống nhất giữa nói và làm, nói thì phải làm, chính là bài học làm người, là thực hành đạo đức cách mạng, coi phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý cao nhất, làm đầy tớ, công bộc cho nhân dân, tận tụy và trung thành là lựa chọn lối sống, lẽ sống cao thượng nhất, như tấm gương đạo đức vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi sáng cho mọi người, cho muôn đời noi theo.

Trong Di chúc để lại cho toàn dân, toàn Đảng, Người đã viết những dòng thiết tha, cảm động, bởi Người là hiện thân cao cả nhất của đức hy sinh, dâng hiến trọn vẹn, toàn vẹn đời mình cho độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người viết: “Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(5). Đó là tiếng nói từ trái tim của Người, làm rung động muôn triệu trái tim đồng bào, đồng chí của Người, cũng như mọi tấm lòng bè bạn khắp năm châu. Cuộc đời và sự nghiệp của Người, với tư tưởng - đạo đức và phong cách của Người, là minh chứng sinh động và cảm động nhất về sự thống nhất giữa nói và làm.

Để học tập và làm theo những chỉ dẫn cao quý của Người

Sinh thời, Người căn dặn chúng ta không chỉ nói đi đôi với làm, nói thì phải làm - đó là nguyên tắc sống, mà còn chỉ dẫn cho chúng ta điều thiết thực; “nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động” - đó là phương châm sống, là thực hành lối sống. Thực hành nguyên tắc và phương châm sống như thế, xét đến cùng, cũng chỉ vì nhân dân, vì cuộc sống của nhân dân, vì lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân. Lo cho nhân dân thì phải hành động, phải bằng việc làm chứ không dừng lại ở lời nói. Ngay từ những ngày đầu đất nước mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm nhất quán là Chính phủ phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Vì thế, trong cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người nhấn mạnh, chúng ta phải thực hiện ngay 4 điều: Làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở; làm cho dân có học hành. Bởi, theo Người, dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc ấm. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, sau lễ tuyên bố độc lập, Người đã đề nghị Chính phủ phát động trong toàn dân, mỗi người cứ mười ngày nhịn ăn một bữa để có gạo giúp người dân bị đói và Người đã nghiêm khắc thực hiện điều đó như một tấm gương. Nghĩa cử cao đẹp đó của Người đã có sức thúc đẩy và lan tỏa rộng khắp, đó thực sự là Chính phủ của dân, vì dân. Lời nói đi đôi với việc làm của Người đã tạo dựng một Chính phủ liêm chính bằng sự gương mẫu của người đứng đầu. Để tỏ lòng biết ơn các liệt sĩ đã hy sinh vì Nước, Người chính thức thông báo với toàn thể quốc dân đồng bào để mọi người được biết, Người sẽ nhận tất cả các con liệt sĩ là con mình. Người chuyển tiền lương của Người cho bác sĩ Vũ Đình Tụng, Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh đầu tiên của Việt Nam để cứu tế xã hội, góp thêm phần quà cho các cháu như một niềm động viên an ủi, thấm đẫm tình thương yêu của Người.

Để có nhân tài giúp nước, Người gửi thư cho đồng bào trong cả nước, nhờ dân giúp đỡ Chính phủ tìm kiếm các bậc tài đức, mách bảo với Chính phủ để Chính phủ trọng dụng. Bản thân Người đã đích thân lựa chọn, thuyết phục, động viên các bậc nhân sĩ, trí thức đem tài năng, tâm huyết của mình ra giúp nước, giúp dân và sắp đặt họ vào những công việc xứng đáng, cảm hóa, thu phục họ với tất cả lòng thành, tin cậy và quý trọng.

Người đã thực hành lối sống tiết kiệm, tiết kiệm đến mức khắc khổ, dành cho dân chúng phần tối đa, dành cho mình phần tối thiểu, bởi Người hiểu rõ hơn ai hết, mỗi đồng tiền, bát gạo mà chúng ta tiêu dùng đều từ mồ hôi, nước mắt của dân làm ra. Theo Người, thương dân thì phải biết tiết kiệm, còn lãng phí tức là không thương dân; tham ô, tham nhũng là làm hại dân, có tội với dân, với nước. Người chỉ rõ, phải nghiêm trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai, bất kể chúng ở cương vị nào. Vì bảo vệ cái thiện, mà cái thiện lớn nhất là dân, nên phải nghiêm trị cái ác, trừng trị tham ô, tham nhũng như trừng trị một tội ác, bởi giặc nội xâm cũng nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm, thậm chí còn nguy hiểm hơn, vì nó phá từ trong phá ra, hại dân hại nước, làm ô uế, tổn thương tới uy tín, thanh danh của Đảng. Bản Quốc lệnh của Người và sự kiên quyết thi hành Quốc lệnh của Người từ năm 1946 là một minh chứng lịch sử cụ thể.

Người dạy, thanh niên phải ham học, ham làm, ham tiến bộ, chỉ có một điều ham muốn đó thôi, phải rèn chí khí, phải nuôi dưỡng hoài bão lớn sao cho ích quốc, lợi dân, phải tránh xa những cám dỗ, cạm bẫy của tiền bạc, địa vị, chức quyền, bởi những thứ đó dễ làm hư hỏng con người. Bản thân Người đã nêu gương sáng cho cán bộ, đảng viên, cho thế hệ trẻ và cho toàn dân từ những điều Người nói bằng những việc làm. Và Người đã chiêm nghiệm rằng “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(6), đã đúc kết “gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất”.

Cuộc đời và sự nghiệp của Người nổi bật ở thực hành với năm thực hành lớn, tiêu biểu nhất, đó là:

Thực hành lý luận gắn liền với thực tiễn. Người nhấn mạnh: Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận và lý luận lãnh đạo thực hành.

Thực hành dân chủ. Suốt đời, Người phấn đấu thực hành dân chủ, nước độc lập thì dân  chủ và dân làm chủ. Theo Người, từ Chủ tịch nước đến các nhân viên trong các công sở đều phải nêu cao trách nhiệm phục vụ nhân dân, là đầy tớ trung thành và công bộc tận tụy của dân, tiếp thu, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm gương cho nhân dân noi theo, trọng dân gắn liền với trọng pháp. Người suốt đời gần dân, tin dân và thương dân. Chỉ tính riêng 10 năm cuối đời, dù tuổi đã cao, sức đã yếu, mà Người vẫn vô số lần về với nhân dân ở cơ sở, đặc biệt là với nông dân ở nông thôn.

Thực hành dân chủ là một trong những thực hành rất tiêu biểu của Người, là tấm gương cho tất cả mọi người noi theo, nhất là với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có chức, có quyền. Phải làm đúng phận sự, quyền hành mà nhân dân ủy thác, giao phó để thực hiện các quyền của nhân dân, thực hành dân chủ để chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Thực hành dân chủ tập trung hay tập trung dân chủ để bảo đảm cho Đảng là một tổ chức mạnh, kỷ luật nghiêm, có sức chiến đấu, thống nhất ý chí và hành động để Đảng vì nhân dân và nhân dân tin Đảng, theo Đảng đến cùng.

Thực hành dân vận: Người là bậc thầy về dân vận và suốt đời chăm lo cho công tác dân vận. Người căn dặn và tự mình nêu gương cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm “Dân vận khéo”, “phải thật thà nhúng tay vào nhiệm vụ, không bỏ sót một người nào”, “phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, miệng nói, chân đi, tay làm” để nhân dân tin, nhân dân ủng hộ, nhân dân làm theo.

Thực hành đoàn kết, đại đoàn kết: Người chăm lo cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm hạt nhân; đồng thời, ra sức củng cố tinh thần đoàn kết, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới, với các đảng anh em trong phong trào cộng sản quốc tế. Suốt đời thực hành đoàn kết, Người là hiện thân, là linh hồn của đại đoàn kết toàn dân tộc, Người đã tổng kết thành nguyên lý:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công

Đặc biệt cảm động là những lời căn dặn của Người trong Di chúc, yêu cầu mỗi đảng viên và tổ chức đảng phải “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, mà ngày nay Đảng ta đang nỗ lực thực hiện trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

- Thực hành đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có thể nói, đó là “thực hành của mọi thực hành”, xuyên suốt và thấm nhuần trong mọi thực hành khác. Người là mẫu mực về đạo đức cách mạng, đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cá nhân. Người nêu cao bản lĩnh và dũng khí đánh bại chủ nghĩa cá nhân, lại hết lòng nâng niu giá trị con người, quan tâm tới nhu cầu, lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Từ những thực hành đó, Người suốt đời thực hiện nói đi đôi với làm, thống nhất giữa nói và làm. Từ việc nhỏ đến việc lớn, từ công việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, đến trù tính định liệu tương lai, lo việc đối nội và đối ngoại, gây dựng phong trào và lực lượng, ngày đêm suy nghĩ tìm tòi chăm lo việc Nước, việc Đảng, việc Dân... cho đến những việc làm đời thường trong sinh hoạt giản dị, tiết kiệm, thanh đạm hằng ngày, Người luôn nhất quán giữa nói và làm, nói ít làm nhiều, nhiều khi chỉ làm mà không nói, tự việc làm toát lên tư tưởng.

Bởi thế, trên tư cách một nhà tư tưởng, một triết gia, triết học của Người dường như là “triết học vô ngôn”. Người nói ngắn, viết ngắn, rõ ràng, khúc chiết, trong sáng, giản dị, không cao đạo, không hàn lâm, sách vở, xa lạ với những đại ngôn, phù phiếm, rỗng tuếch, mà luôn gần gũi với lời ăn tiếng nói, cách suy nghĩ, tâm trạng, ý nguyện của dân, bởi suốt đời Người tự coi mình là đầy tớ, công bộc của dân, gần dân, vì dân, nên luôn thấu hiểu dân tình, dân sinh, dân ý, dân nguyện. Cho đến phút cuối cùng, Người cũng chỉ nghĩ về dân. Người nói “không thể bỏ dân mà đi được”. Câu nói ấy của Người mãi mãi lắng đọng vào lịch sử, là kết tinh tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người...

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào lúc này, khi đất nước đã bước vào thời kỳ phát triển mới, hướng tới sự phát triển bền vững, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và tăng cường hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; đồng thời, khi Đảng ta đang ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, tạo nên sức mạnh tổng hợp từ sự gắn kết “Ý Đảng với lòng Dân” và trở thành phép Nước... thì một trong những điều thiết thực nhất là thống nhất giữa nói và làm, nói đi đôi với làm, nói thì phải làm, theo tấm gương của Người.

Đó là cách tốt nhất để dân tin Đảng thông qua tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đó cũng là điều cần nhất vào lúc này, để nâng cao trách nhiệm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, gắn liền “xây” với “chống”, “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng” đúng như dự kiến ban đầu của Người khi đặt tên cho bài báo lúc cuối đời. Thống nhất giữa nói và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đội ngũ hơn 5 triệu đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, với gần 100 triệu dân; khi có nhân dân hỗ trợ, thúc đẩy, giám sát, kiểm tra,... thì nhất định sẽ làm cho Đảng xứng đáng là Đảng chân chính cách mạng, là đạo đức, là văn minh./.

ST.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua nêu gương về đạo đức cách mạng

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, một trong những phương thức lãnh đạo trọng yếu của Đảng là nêu gương. Từ đó, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng cần không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo thông qua xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, tiên phong, có đạo đức cách mạng, nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc thôn Đăk Mút, xã Đăk Mar, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum_Ảnh: TTXVN

Nêu gương về đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nêu gương về đạo đức cách mạng trong Đảng, nhằm nâng cao hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.

Trong buổi nói chuyện tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương ngày 11 tháng 5 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề: “Vì sao ta phải chỉnh Đảng?”. Người huấn thị: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, tổ chức đảng các cấp phải luôn “tự giác nêu gương” về đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất nhiều lần đề cập đến vấn đề “gương mẫu” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người chỉ rõ: “người đảng viên ở bất kỳ đâu, bất kỳ làm việc gì, bất kỳ địa vị nào và hoàn cảnh nào, cũng phải luôn luôn: - Đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết./ - Phải ra sức tham gia công việc kháng chiến./ - Phải gần gũi dân chúng, thương yêu, giúp đỡ dân chúng, tổ chức và lãnh đạo dân chúng./- Phải giữ vững đạo đức cách mệnh, là chí công vô tư”; “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất./  Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng/... Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Đây là những chuẩn mực đạo đức cách mạng mà người cán bộ, đảng viên cần phải có, để quần chúng nhân dân nhìn nhận, học hỏi và noi theo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc, là “lõi” của văn hóa xã hội. Người cho rằng, có đạo đức cách mạng thì “khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc”; “khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện, bồi dưỡng về đạo đức cách mạng để thực sự là lực lượng tiên phong về trí tuệ, phẩm chất đạo đức, là những “hạt giống” tốt để nhân rộng trong xã hội.

Đảng ta là “Đảng cầm quyền”, “Đảng của toàn dân”, “Đảng của cả dân tộc”, đội tiền phong, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Chính vì vậy, để xứng đáng là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới; đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, tận tâm, tận lực, vì nước, vì nhân dân, giữ vững bản chất giai cấp, bản lĩnh chính trị, cách mạng, tiên phong; chống các biểu hiện tha hóa quyền lực, tha hóa con người, giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng; phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân”. Người cho rằng, muốn vận động, tập hợp, dẫn dắt, lãnh đạo quần chúng nhân dân tin theo Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải là tấm gương về đạo đức cách mạng. Người thường căn dặn, “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Cán bộ, đảng viên vừa là “đày tớ”, vừa là người lãnh đạo nhân dân. Họ phải là tấm gương mẫu mực để nhân dân tin theo, noi theo và làm theo. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao, trọng trách nêu gương càng phải lớn. Họ phải nêu gương trong tu dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng, trong tôi luyện, kiên trung lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, trung hiếu với nhân dân; nêu gương tận tụy, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; nêu gương trong tự phê bình và phê bình, trong thấm nhuần và thực hiện nghiêm đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Những nội dung này rất quan trọng, tạo nên hiệu quả tối ưu trong công tác lãnh đạo của Đảng, nhân lên sức mạnh nội sinh to lớn của dân tộc trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, một tấm gương sống có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền; lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng. “Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”. Bởi thực tế, “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, từ lời nói, việc làm đến cách ăn, ở đều phải để cho dân tin, dân phục, dân yêu. Cán bộ, đảng viên dù ở vị trí nào, nếu có tâm, có tầm, có tài, có đạo đức, “lời nói đi đôi với việc làm” thì sẽ tạo sự lan tỏa, tác động tích cực đến cộng đồng, giúp quần chúng tự soi, tự sửa, hoàn thiện bản thân. Thông qua công tác nêu gương của cán bộ, đảng viên, phương thức lãnh đạo của Đảng sẽ được phát huy, nhân lên sức mạnh, nâng cao năng lực để Đảng lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của cách mạng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương về đạo đức phải được thực hiện trên ba mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc. Với mình, phải cần, kiệm, liêm, chính; “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”; làm gương trong công việc từ nhỏ đến lớn, thường xuyên học tập, rèn luyện, không ngừng hoàn thiện bản thân. Với người, phải thật thà, chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó mật thiết với nhân dân. Với việc, phải tận tâm, tận lực, chí công vô tư, gương mẫu, đi đầu, trách nhiệm. Người cũng chỉ ra ba nguyên tắc để xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng là: 1- Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức; 2- Xây đi đôi với chống. Xây dựng đạo đức cách mạng phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân; 3- Tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Cán bộ, đảng viên xã Tung Chung Phố, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai hướng dẫn đồng bào kỹ thuật canh tác_Ảnh: TTXVN

Để việc nêu gương về đạo đức cách mạng trở thành phương thức lãnh đạo hiệu quả của Đảng trong giai đoạn phát triển mới

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 94 năm qua, Đảng ta luôn chú trọng thực hiện phương thức nêu gương về đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; quan tâm công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về xây dựng Đảng để không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả phương thức lãnh đạo, thực hiện tốt vai trò “lãnh đạo đất nước và xã hội”. Đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay là nhờ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự cống hiến tận tụy, hy sinh của lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, những tấm gương mẫu mực, trung với nước, với Đảng, hiếu với dân.

Dù vậy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “trong hàng chục vạn cán bộ và đảng viên xứng đáng, còn lẫn vào một số người thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng. Họ còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân trong mình”. Người căn dặn toàn Đảng: “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững phẩm chất đạo đức của người cách mạng; thiếu tu dưỡng đạo đức sẽ rất dễ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì “tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. 

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã nêu rõ quan điểm: Một trong 8 phương hướng để nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để bảo đảm được vai trò lãnh đạo của Đảng, cùng với sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phải tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Không đạt được mục tiêu này, Đảng sẽ suy yếu và không thể giữ được vai trò cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới.

Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 30-7-2007, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị” là một bước tiến quan trọng, đánh giá quá trình hơn 20 năm đổi mới tư duy, nhận thức và phương thức lãnh đạo của Đảng gắn liền với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986); đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó, ngày 17-11-2022, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW, “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”. Một trong 6 nhiệm vụ, giải pháp được Nghị quyết số 28-NQ/TW nhấn mạnh, đó là: Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; từ đó, dẫn đến những thay đổi tích cực về lề lối, phong cách làm việc, cách thức lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua việc tổ chức thực hiện cương lĩnh, chiến lược, định hướng về chính sách, chủ trương lớn; thông qua công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Thời gian qua, trên cả nước đã có rất nhiều tấm gương tiêu biểu, mô hình điển hình trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Từ việc học tập và làm theo Bác, nhiều cách làm hay, sáng tạo trong rèn luyện, nêu gương về đạo đức cách mạng được phát huy, nhân rộng, góp phần lan tỏa sâu rộng trong Đảng và trong nhân dân.

Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Nhờ có những chủ trương, quy định đúng đắn, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương, cho nên ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên từng bước được nâng lên, từ đó có những hành động thiết thực trong công tác và cuộc sống, tạo được sự chuyển biến tích cực về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ. Việc thực hiện các chủ trương, quy định về nêu gương của Đảng đã góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới đương đại đang chứng kiến tốc độ phát triển mạnh mẽ như vũ bão của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông, trí tuệ nhân tạo, nhiều diễn biến quan hệ quốc tế phức tạp, thời cơ đan xen thách thức, đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với Đảng cầm quyền, tác động trực tiếp đến phương thức lãnh đạo của Đảng.

Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Song, “Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; các mối đe dọa độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước... tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự chống, phá quyết liệt của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động”. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu, chưa phát huy hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, còn thụ động, né tránh trong công việc, trông chờ vào cấp trên; việc thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu, chưa tạo ra được hiệu quả lan tỏa thực sự tích cực.

Đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn cho thấy, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, đủ năng lực, góp phần tăng cường, nâng cao hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan điểm được Đại hội XIII của Đảng nêu lên là: Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng.

Bên cạnh đó, Đảng cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ... Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết.

Để việc nêu gương về đạo đức cách mạng trở thành phương thức lãnh đạo hiệu quả của Đảng, phát huy được vai trò, năng lực lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên về nêu gương và “tự giác nêu gương” theo phương châm “chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”. Cần nhận thức sâu sắc rằng, việc nêu gương là trách nhiệm, bổn phận và đạo lý của cán bộ, đảng viên trước Đảng và nhân dân. Trách nhiệm nêu gương đó phải được thể hiện từ trong tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, hoạt động tự phê bình và phê bình; đến trong quan hệ với nhân dân, trong công tác, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn đoàn kết nội bộ.

Nguồn gốc sức mạnh, quyền lực của Đảng là ở nhân dân. Đối với Đảng cầm quyền, nguy cơ nguy hại nhất, đáng sợ nhất là tự cắt đứt mối liên hệ với nhân dân; do vậy, cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức vụ càng cao càng phải rèn luyện, tu dưỡng, nêu gương về đạo đức cách mạng; kiên quyết đấu tranh với “lợi ích nhóm”, với những tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu suy thoái về phẩm chất đạo đức, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Hai là, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ và hiệu quả các quy định của Đảng về nêu gương(19) gắn với thực hiện các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các quy định khác của Trung ương, nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Thấm nhuần quan điểm coi công tác cán bộ là công tác “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ, mỗi cán bộ, đảng viên phải có ý thức “gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.

Ba là, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””; trong đó, tập trung làm tốt ba vấn đề: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên.

“Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, kiên quyết, kiên trì, tích cực phòng ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành việc làm thường xuyên, nhu cầu văn hóa tinh thần trong Đảng, tạo dấu ấn rõ rệt về xây dựng văn hóa Đảng, để Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”.

Bốn là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, kết hợp với phát huy vai trò giám sát của các cơ quan báo chí, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương sáng về đạo đức, lối sống; đấu tranh, ngăn chặn mạnh mẽ, hiệu quả các biểu hiện lệch lạc, sai trái, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.

Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, chiến lược; “chống” là quan trọng, cấp bách. Đề cao phương châm “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” để việc nêu gương về đạo đức cách mạng thực sự mang lại hiệu quả to lớn trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; qua đó, nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng như của các tổ chức đảng trước quần chúng nhân dân, đưa việc nêu gương thực sự trở thành nền nếp, tập quán đạo đức, văn hóa tốt đẹp trong Đảng và toàn xã hội./.

ST.