Lợi dụng việc một số cán bộ, công chức bị kỷ luật thời gian qua, các thế lực thù địch tiếp tục xuyên tạc rằng sai phạm, nhất là tham nhũng do “tha hóa quyền lực” là bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận diện, đấu tranh chống luận điệu sai trái trên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và cấp bách hiện nay.
Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024
THA HÓA QUYỀN LỰC KHÔNG PHẢI BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM: VỮNG VÀNG VIẾT TIẾP BẢN HÙNG CA BIỂN KHƠI
60 năm đã qua, nhưng bài học về trận đầu đánh thắng của Hải quân nhân dân Việt Nam, của quân và nhân dân miền Bắc vẫn còn nguyên giá trị và mang tính thời sự. Chiến công đó còn vang mãi và để lại nhiều bài học quý trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong tình hình mới.
HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ
Ngày 05 tháng 8
Phát huy tinh thần "dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng" trong chiến thắng trận đầu.
Ngày 5-8-1964, quân và dân miền Bắc, nòng cốt là Bộ đội Phòng không và Bộ đội Hải quân đã đánh bại sự hiếu chiến của không quân và hải quân Mỹ. Tinh thần "dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng" của chiến thắng trận đầu cách đây 60 năm là bài học kinh nghiệm quý để vận dụng vào xây dựng đơn vị tiến lên hiện đại trong giai đoạn hiện nay.
Nhằm cứu vãn nguy cơ phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” trên chiến trường miền Nam, ngày 5-8-1964, Mỹ dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, dùng không quân đánh phá ồ ạt ra miền Bắc nước ta. Bộ đội Phòng không cùng với quân, dân miền Bắc đã giáng đòn chí mạng vào cái gọi là "uy thế không lực Hoa Kỳ", bắn rơi 8 máy bay Mỹ (12,5% tổng số máy bay Mỹ huy động vào một trận đánh). Lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên, không quân Mỹ đã thất bại nặng nề.
Trong lễ tuyên dương công trạng các đơn vị phòng không và hải quân ngày 7-8-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi: “Bác rất vui mừng thay mặt Đảng và Chính phủ đến khen ngợi các chú đã lập được thành tích lớn trong các cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ vừa qua. Các chú đã chiến đấu rất dũng cảm, đã bắn rơi 8 chiếc máy bay Mỹ và bắn hỏng 3 chiếc, vừa rồi lại nghe tin 4 chiếc máy bay Mỹ đến Biên Hòa bị hỏng. Các chú đã bắt sống phi công Mỹ, đánh đuổi tàu chiến Mỹ ra khỏi vùng biển nước ta. Như vậy là rất tốt...”.
Chiến thắng ngày 5-8-1964 một lần nữa góp phần chứng minh đường lối chính trị, quân sự đúng đắn của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, ý chí kiên cường, dũng cảm chiến đấu của quân và dân miền Bắc; nòng cốt là Bộ đội Phòng không và Bộ đội Hải quân. Đó là chiến thắng của sức mạnh chính trị-tinh thần, trí thông minh, sáng tạo và tinh thần “dám đánh, biết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” của quân và dân miền Bắc. Chiến thắng mãi mãi là biểu tượng của ý chí kiên cường, bất khuất, trí tuệ và nghệ thuật quân sự Việt Nam được kế thừa và phát triển trong thời đại Hồ Chí Minh.
Phát huy tinh thần chiến thắng ngày 5-8-1964, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Quân chủng Phòng không-Không quân đã và đang nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, triển khai đồng bộ các giải pháp, tập trung xây dựng Quân chủng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, góp phần củng cố sức mạnh quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, trong đó trọng tâm:
Thứ nhất, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; xây dựng ý chí quyết tâm, niềm tin chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Trong trận chiến ngày 5-8-1964, sức mạnh chủ nghĩa yêu nước được phát triển lên một tầm cao mới bằng ý chí “dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng kẻ thù” của quân và dân miền Bắc, nòng cốt là Bộ đội Phòng không, Bộ đội Hải quân. Chỉ với súng phòng không 14,5mm, song chúng ta giăng “lưới lửa” bủa vây, vít cổ “chim ưng nhà trời” (A-4D) phơi xác trên biển Hạ Long, bắt sống phi công Alvarez. Đây là viên phi công Mỹ đầu tiên bị quân và dân ta bắt sống trên miền Bắc.
Việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí “dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng kẻ thù” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới, bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Thứ hai, tập trung xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh về chính trị, làm cơ sở vững chắc nâng cao chất lượng tổng hợp, xây dựng Quân chủng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ngày 27 và 28-3-1964, tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh đụng đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại. Người kêu gọi mỗi người phải làm việc bằng hai để đền đáp lại đồng bào miền Nam ruột thịt; đồng thời yêu cầu Quân đội và LLVT nhân dân phải luôn sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự trị an, kiên quyết đập tan mọi hành động của đế quốc Mỹ và tay sai. Sau hội nghị này, Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân chủng họp phiên đặc biệt, quyết định mở Cuộc vận động “Phát huy truyền thống quyết chiến quyết thắng, mỗi người làm việc bằng hai, quyết tâm bắn rơi máy bay địch, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ”.
Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác, Bộ đội Phòng không đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ động làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng ý chí, quyết tâm chiến thắng kẻ thù ngay từ những loạt đạn đầu. Chiến thắng ngày 5-8-1964 chính là chiến thắng của ý Đảng, lòng dân, bắt nguồn từ bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh, kết thành sức mạnh, niềm tin, động lực to lớn để quân và dân ta vượt qua thời khắc ác liệt, dũng cảm chiến đấu, giành chiến thắng vẻ vang.
Là lực lượng được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng tiến thẳng lên hiện đại, phát huy truyền thống vẻ vang, cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị luôn quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật tác chiến phòng không-không quân, trong bất luận hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, có niềm tin tất thắng vào cuộc chiến tranh chính nghĩa; ra sức củng cố, xây dựng lực lượng phòng không ba thứ quân, hình thành hệ thống phòng không-không quân liên hoàn vững chắc, có thể đánh địch từ xa, từ nhiều hướng, nhiều độ cao, tiêu diệt được nhiều phương tiện bay, bắt sống nhiều giặc lái, làm nhụt ý chí chiến đấu của địch ngay từ trận đầu.
Thứ ba, chăm lo xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp vững mạnh, tiến hành hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Tư cách của người chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội; người chính trị viên tốt thì bộ đội ấy tốt, người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ thì bộ đội ấy không tốt”. Hiện nay, nếu chiến tranh xảy ra thì đó là cuộc chiến tranh rất khốc liệt, không gian mở rộng gần như không hạn chế, thời gian chiến dịch rút ngắn. Do đó, cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị các cấp quan tâm xây dựng cho bộ đội-những người trực tiếp tham gia chiến đấu-có tâm thế vững vàng, tinh thần “dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng” mọi kẻ thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Nếu anh em tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ thuật khá, thân thể khỏe mạnh thì nhất định thắng...". Việc chăm lo củng cố, nâng cao chất lượng cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp là một trong những yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách trong xây dựng Quân chủng Phòng không-Không quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Thứ tư, nắm bắt tình hình, định hướng tư tưởng, hướng dẫn hành động cho bộ đội nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong mọi tình huống.
Việc định hướng tư tưởng, hướng dẫn hành động cho cán bộ, chiến sĩ nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Các cơ quan, đơn vị chủ động làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy xây làm phương thức hữu hiệu để chống, theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”; sử dụng khéo léo, linh hoạt các hình thức, biện pháp đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Năm là, chăm lo công tác chính sách, hậu phương Quân đội; bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, động viên bộ đội yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị.
Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác chính sách đối với Quân đội và hậu phương Quân đội; cụ thể hóa việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế công tác chính sách, hậu phương Quân đội phù hợp với đặc thù nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị, địa phương, quan tâm, chăm lo, thực hiện tốt chính sách đối với Quân đội, hậu phương Quân đội, bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, nhất là đối với cán bộ, chiến sĩ ở cơ sở, những người trực tiếp canh trực sẵn sàng chiến đấu; chuyên gia đầu ngành giỏi; người làm việc trong môi trường độc hại, nguy hiểm...
Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
TCCS - Với tư cách là đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2011 đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một di sản đồ sộ, quý báu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về các vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam; phòng, chống tham ô, tham nhũng,… đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Di sản của Tổng Bí thư không chỉ trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua, mà còn có giá trị dẫn dắt, định hướng, soi đường cho cách mạng Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những thập niên tiếp theo. Kế thừa và tiếp bước sự nghiệp mà Đồng chí đã vạch ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần học tập, noi theo phẩm chất đạo đức sáng ngời, tinh thần trách nhiệm, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để sự nghiệp của chúng ta đi đến thành công.

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: kiên định và sáng tạo qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (gọi tắt là Tác phẩm) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2022. Tác phẩm gồm 29 bài viết, đề cập một cách cô đọng những vấn đề trọng yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?... Tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng giai cấp công nhân, nông dân Việt Nam lớn mạnh… Tác phẩm đã chỉ rõ những thành công cũng như những bài học kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực, mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020(1).
Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, sự nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng(2).
Giáo dục và đào tạo, y tế có bước phát triển. Tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển(3).
Trong lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Tác phẩm đã chỉ rõ, trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của Đảng bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Thực tế từ ngày có Đảng, nhân dân ta đã có người lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nhờ thế chúng ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển đất nước.
Trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.
Tác phẩm đã chỉ rõ, trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động, nhạy bén, tích cực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao. Chất lượng điều tra, phá án được nâng lên. Cuộc sống bình yên của nhân dân được bảo vệ.
Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, trong hơn 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây, như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...(4). Đảng đã đưa ra một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo là quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà một đặc trưng căn bản, một thuộc tính căn bản là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)(5). Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nền kinh tế đó bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đặc điểm trong phân phối của mô hình kinh tế này, theo đồng chí Tổng Bí thư, là bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Cùng với việc đưa ra lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở thực tiễn, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu phát triển nền văn minh của nhân loại, Đảng ta đã xây dựng và hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bên cạnh đó, lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng được hoàn thiện. Từ việc coi văn hóa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, có giá trị tinh thần và yêu cầu thúc đẩy sự phát triển cân đối và kết hợp hài hòa kinh tế với văn hóa - xã hội (Đại hội VI và Đại hội VII) đến việc coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, mục tiêu của sự phát triển, vừa là động lực, sức mạnh nội sinh cho sự phát triển; văn hóa không chỉ có giá trị tinh thần, mà còn đem lại cả giá trị vật chất, kinh tế; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội (từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 cho đến nay); từ việc xác định mục tiêu xã hội mà chúng ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” (Đại hội VI năm 1986) đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đại hội XI năm 2011 và cho đến nay); từ việc xác định 8 mối quan hệ cần giải quyết trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đại hội XI) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, chúng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn; từ việc xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng (Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991), đến nay là 8 đặc trưng…
Đánh giá về những thành tựu trên, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam(6). Đồng thời, Tổng Bí thư cho rằng, đó là do chúng ta kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nghiên cứu Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong việc tiếp tục kiên định và sáng tạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Như chúng ta đều biết, trong nghiên cứu về sự vận động đi lên của xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định sự phát triển tất yếu của xã hội loài người là sẽ đi đến chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội, là chế độ thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong các nghiên cứu của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra mô hình của xã hội cộng sản và xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai cũng như con đường, biện pháp để đi đến các xã hội đó. Trải qua thời gian, quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn, lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như biện pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển có những thay đổi nhất định, thể hiện quan điểm phát triển, không giáo điều của các ông khi nghiên cứu về sự phát triển xã hội(7). Chính bản thân các ông cũng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(8).
Kế thừa các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, khi lãnh đạo nước Nga Xô viết thực hiện cách mạng, xây dựng đất nước, V.I.Lê-nin cũng đã bổ sung một số lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhận định về thời kỳ quá độ cũng như chính sách kinh tế nới (NEP) là một minh chứng cho sự kiên định, đồng thời là sự sáng tạo của V.I.Lê-nin. Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã từng nhắc nhở “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động”(9) và do đó, nếu quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó – tức là phép biện chứng, học thuyết về sự phát triển lịch sử toàn diện và đầy mâu thuẫn; như thế chúng ta sẽ phá hủy sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn nhất định của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của lịch sử”(10). Ông khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”(11). Theo ông, điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở “sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước ‐ dân tộc”(12).
Tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có xuất phát điểm là nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là “cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc”(13)...
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong Tác phẩm, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể”(14). Như vậy, có thế thấy, việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ cần phải đặt trong trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, trong đó bao hàm việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ. Với tư cách một chế độ, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công có, mà thất bại cũng đã gặp phải. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, quá trình hiện thực hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt, cần kiên định, giữ vững các nguyên tắc nền tảng; mặt khác, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn cụ thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi, lộ trình phù hợp.
Trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đòi hỏi chúng ta phải tránh căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Bởi bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Về văn hóa, xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Về chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam(15). Đồng chí Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh rằng, trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó là tình hình thế giới biến động khôn lường, cả về vấn đề sinh thái, vấn đề quan hệ giữa các nước và tác động của công nghệ thông tin tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội tới mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, cá nhân. Điều đó cho thấy, chúng ta cần tiếp tục kiên định và sáng tạo để chủ nghĩa xã hội ngày càng được hiện thực hóa ở Việt Nam.
Tại sao phải “kiên định” và “sáng tạo”, “kiên định” và “sáng tạo” có mối quan hệ với nhau như thế nào? Về vấn đề này, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước”(16). Bởi nếu chỉ “kiên định” một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, nhưng nếu không kiên định, mà “đổi mới”, “sáng tạo” một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Chúng ta cần kiên định trong nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Nguyên tắc của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược của chúng ta là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm và tuỳ theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”(17).
Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, như đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(18). Theo nghĩa đó, cần nắm vững những nguyên lý nền tảng, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người. Con đường phát triển của nước Việt Nam là không chịu sự chi phối, sự hướng lái của bất cứ thế lực bên ngoài nào và chỉ có con đường của chủ nghĩa xã hội thì mới đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, cho mỗi người dân. Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(19). Đồng thời, cần phải kiên định đường lối đổi mới, bởi chính đường lối đổi mới được thể hiện qua hơn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối này. Cần kiên định với nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi “sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(20), đặc biệt là các nguyên tắc: tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật… Các nguyên tắc này thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Coi nhẹ hoăc bỏ qua một nguyên tắc nào trong các nguyên tắc trên cũng làm cho Đảng suy yếu, mất vai trò lãnh đạo như sự sụp đổ vai trò lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX là một minh chứng.
Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tuân theo quy luật kế thừa và đổi mới trong phát triển. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam không phải bắt đầu từ hư vô, mà có sự kế thừa những thành quả của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của cha ông, là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, là ý chí vươn lên chống lại những hoàn cảnh khắc nghiệt. Đồng thời, chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam còn kế thừa thành tựu phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Song, đó không phải là sự kế thừa một cách nguyên xi, mà như đồng chí Tổng Bí thư nhắc nhở: “nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(21). Đó còn là kế thừa truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng; gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu; đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí; đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả(22).
Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng phải luôn nhận thức rõ “bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc, đầy đủ hơn”(23), chăm lo, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, bởi đây “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(24). Cùng với đó, cần chú trọng đến giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và đội ngũ thanh niên với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước.
Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Bởi đây là những tệ nạn ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nó cũng yêu cầu đấu tranh chống lại mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam yêu cầu Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cán bộ. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền khoa học trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược(25). Chỉ có như vậy, Đảng mới nâng mình lên, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước, của sự vận động không ngừng của những nhân tố khách quan và chủ quan.
Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về đổi mới. Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách. Tầm quan trọng đặc biệt của thực tiễn trong công tác lý luận của Đảng xuất phát từ chính vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; từ đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để phát triển lý luận. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của lý luận, bởi lý luận không chỉ nhằm giải thích thế giới, mà quan trọng hơn - còn nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.
Trong thời gian tới, nội dung hoàn thiện lý luận đổi mới rất rộng, bao gồm toàn bộ thể chế phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần chú ý đến một số nội dung cơ bản sau: trong lĩnh vực kinh tế, đó là tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, về kinh tế tập thể, về các hình thức sở hữu, về quản lý vốn nhà nước, về kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, đó là xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người Việt Nam; về biến đổi cơ cấu xã hội trong mối liên hệ với phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo gắn với sự phát triển, nâng cao năng lực của giai cấp công nhân, vị trí, vai trò của giai cấp nông dân; về ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong lĩnh vực chính trị, đó là tiếp tục hoàn thiện lý luận, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; bảo đảm tránh chồng chéo, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển. Đó còn là tiếp tục hoàn thiện lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và cầm quyền khoa học. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đó là vấn đề chiến lược trong điều kiện đối tượng, đối tác và phương thức chiến tranh thay đổi; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới; bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong bối cảnh mới.
Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là làm sao để chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên. Bởi, chỉ có hiểu biết, có nhận thức sâu sắc thì mới có thể thực hiện đúng, giữ vững nguyên tắc, không dao động, dân túy, “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Do đó, cần không ngừng tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý, đảng viên; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách, nhằm tránh trục lợi, sai lệch quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, cần lấy tiến bộ xã hội, hiệu quả kinh tế - xã hội, sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân, sự vững mạnh của đất nước, đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội làm mục tiêu để thực hiện./.
----------------
Công tác nhân sự
Một điều mà trong công tác nhân sự nhiều kỳ đại hội gần đây chúng ta đều quan tâm đó là phương hướng nhân sự đại hội phải dựa trên cơ cấu hài hòa, hợp lý về tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ thiểu số, nhà khoa học, văn nghệ sĩ, lãnh đạo một số tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nước đủ tiêu chuẩn, điều kiện… vừa bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, phát triển liên tục, có sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ, cân đối về số lượng và chất lượng, trong đó chất lượng là quan trọng. “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, phải thấu triệt quan điểm bảo đảm được tiêu chuẩn, tuyệt đối không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chí, tiêu chuẩn; làm tốt công tác nhân sự từ đại hội đảng bộ cấp dưới để chuẩn bị kỹ lưỡng nhân sự đại hội cho Trung ương; đặc biệt tránh tình trạng làm đúng quy trình, quy định những vẫn không chọn được đúng người, vì thế trong giai đoạn hiện nay nhất thiết phải bám sát Quy định số 214-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ theo một định lượng cụ thể; nghiên cứu, ứng dụng “phác đồ” căn cơ để điều trị dứt điểm căn bệnh mất dân chủ trong đảng, thiếu minh bạch, công tâm, khách quan trong lựa chọn, giới thiệu nhân sự đại hội.
Dưới có vững thì trên mới bền chắc, đại hội đảng các cấp có tốt thì đại hội toàn quốc mới thành công. Quá trình chuẩn bị nhân sự cho đại hội là quá trình lâu dài với nhiều khâu, nhiều bước, phải được tiến hành dày công, kỹ lưỡng, bài bản, chặt chẽ, nếu như sơ xuất, chúng ta sẽ phải trả giá thậm chí là giá rất đắt. Nhận thức chung rằng, lựa chọn đúng cán bộ, đặt họ vào đúng vị trí để phát huy tốt năng lực, sở trường của họ là trọng trách của những người “cầm lái”, vì vậy hơn lúc nào hết để lựa chọn, sàng lọc được từ trong đội ngũ tinh hoa những “anh hùng đứng giữa trần ai” đủ sức gánh vác, tô đẹp giang sơn, gấm vóc của ta thì công tác nhân sự đại hội đảng các cấp rất cần phải có một tư duy mới, cách nhìn mới và hành động mới.
Còn với mỗi cán bộ, đảng viên thiết nghĩ phải giữ đúng bổn phận, xứng đáng là công bộc của nhân dân. Muốn vậy, cần tu dưỡng “Đảng tính” thật tốt, làm việc gì cũng phải tính đến lợi ích chung của tập thể, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết; cần giữ cho mình “tâm chính”; phải làm kiểu mẫu về cần, kiệm, liêm, chính; tận tâm, tận tuỵ với công việc được giao. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn nhắc nhở bản thân dù ở địa vị cao hay thấp, dù đảm đương công việc, nhiệm vụ lớn hay nhỏ, cán bộ cấp trung ương hay cơ sở…thì đều là đày tớ, công bộc của nhân dân; không để mắc các bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, xa dân, kiêu ngạo, thờ ơ với nhân dân, nói suông, tự kiêu, tự đại, xa xỉ, vô cảm, thiếu và sợ trách nhiệm…phải tự học tập nâng cao trình độ mọi mặt, luôn giữ được phẩm giá, nhân cách của người cộng sản trước nhân dân, có vậy mới lãnh đạo được cơ quan, đơn vị, mới phục vụ được nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên tự suy ngẫm, rút ra cho mình bài học kinh nghiệm, để không đi vào “vết xe đổ”, đồng thời cần đấu tranh mạnh mẽ với những hành vi sai trái như “lợi ích nhóm”, tạo “uy tín giả”, “làm xiếc”, bệnh sĩ diện, thích sống sang, ăn sang, tiêu sang, chơi sang…
Suy cho cùng, mọi thành công hay thất bại đều do yếu tố con người và tất nhiên sự thành bại của cách mạng cũng chủ yếu do cán bộ, đảng viên của Đảng tốt hay xấu. Hiện nay, Đảng rất cần những cán bộ, đảng viên thực sự trung thành, trong sạch, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc; luôn nói đi đôi với làm, chí công vô tư, hết lòng, hết sực phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng có thành công được hay không tuỳ thuộc rất lớn vào những cống hiến, hy sinh của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Do vậy, công tác lựa chọn nhân sự của Đảng thời gian tới cần tiếp tục đổi mới, phải thực sự soi sao cho kỹ, chọn sao cho đúng để tìm được những người có “mắt sáng”, “lòng trong”, “tay sạch” đứng ra gánh vác việc non sông./.
Nhân dân biết cả
Không ai gần cán bộ bằng nhân dân, không ai hiểu cán bộ bằng nhân dân và cũng không ai ngoài nhân dân có thể phân biệt, nhận biết rõ hơn trong đội ngũ cán bộ ai là người thật, người giả, ai tốt, ai xấu, ai là người tận tâm, tận tụy với nước với dân và ai là người rao giảng vì dân nhưng lại thực chất là vì mình. Rất nhiều vụ án nhờ dân phát hiện, vì vậy muốn biết nhà quan chức có bao nhiêu xe, bao nhiêu nhà, đất, có giàu nhanh hay không thì nào cần đâu xa, hỏi dân là biết tường tận. Những ý kiến, phản ánh của nhân dân, của cử tri, người dân nơi công tác, cư trú, cũng như từ các tổ chức chính trị - xã hội mới thực sự là lá phiếu chuẩn xác, đáng tin cậy nhất trong lựa chọn nhân sự cho đại hội các cấp.
Cán bộ giữ vị trí, trọng trách càng cao thì càng phải lựa chọn cẩn trọng, chặt chẽ; làm đúng, làm đủ, làm hiệu quả thực sự các quy trình, các khâu, các bước; không vì vị trí hiện tại mà xuề xòa, khỏa lấp đi những “tì vết” trước đó; theo đó, rất cần tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc bước thẩm tra, xác minh; rà soát kỹ càng hiệu quả thực tế công việc mà cán bộ, đảng viên dự bầu đã từng được phân công đảm nhiệm trước đó; tránh giản đơn, nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn, duy ý chí trong giới thiệu, lựa chọn nhân sự cho đại hội để khỏi hối tiếc và rơi vào tình trạng “tá hỏa” về những chuyện đã rồi, những hệ lụy mà họ đã “dính chàm”, gây ra trước đó. Đồng thời cũng có biện pháp để cảnh báo với những người “có vết” nên xin rút, dẹp ngay những trường hợp ngồi nhầm ghế, loại bỏ những cán bộ có tư tưởng luồn sâu, trèo cao để trục lợi. Chúng ta tin tưởng nhưng không tuyệt đối hóa, đặt trọn niềm tin vào những người đã được tôi luyện, thử thách, đi lên từ gian khó mà cần phải kiểm tra, giám sát, theo dõi thường xuyên, liên tục để họ luôn giữ vững được danh dự, thấm sâu tư cách, đạo đức cách mạng, thực sự có sức đề kháng, hệ miễn dịch tuyệt đối, không vướng vào các “tử huyệt”, tránh bị cám dỗ, lôi kéo, sa chân khi được giao những cương vị, chức trách, nhiệm vụ lớn hơn.
Khen cho con mắt tinh đời
Chưa bao giờ công tác lựa chọn nhân sự cho đại hội đảng các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương lại được mọi tầng lớp nhân dân quan tâm như hiện nay. Một phần vì nhân dân rất hy vọng, trông đợi vào những đột phá của bộ máy lãnh đạo mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến nhanh chóng tiềm ần nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo; phần khác vì không khỏi xốt ruột, lo lắng bởi trong nhiệm kỳ đại hội vừa qua không ít cán bộ, thậm chí cả lãnh đạo chủ chốt được dân mến, dân tin bầu vào các vị trí lãnh đạo của đảng, có cả vị trí chủ chốt nhưng đã không hoàn thành nhiệm vụ, thoái hóa biến chất, phản bội Tổ quốc, trở mặt nhân dân; có tội với dân, với nước. Vì thế sau mỗi nhiệm kỳ đại hội đảng, nhất là khóa XIII vừa rồi để chúng ta thêm một lần rút ra những kinh nghiệm máu xương, chuẩn bị chu toàn hơn, cặn kẽ hơn, hiệu quả hơn cho tiến hành công tác nhân sự đại hội đảng nhiệm kỳ tới.
Hiền tài của đất nước chưa bao giờ thiếu, song ở thời nào thì cũng có sâu mọt nảy nở, sinh sôi; vì vậy, rất cần có một kỳ đại hội đảng các cấp thực sự sáng suốt, tỉnh táo, tinh tường trong công tác lựa chọn nhân sự cán bộ các cấp. Muốn làm được điều đó, thiết nghĩ trước hết những người làm công tác tham mưu cho đại hội về vấn đề nhân sự phải thực sự là những người tiêu biểu, lòng dạ sáng trong, kiểu mẫu về tính trung thực, công tâm, khách quan, bám sát và giữ vững nguyên tắc, quy chế, quy trình, quy định, đề cao trách nhiệm, phát huy dân chủ, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong tham mưu, lựa chọn nhân sự; phải chịu trách nhiệm trước đảng, nhà nước và nhân dân về chất lượng tham mưu, giới thiệu; chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng cán bộ ngay trong những người làm nhân sự đại hội.
Muốn tìm được cán bộ có đức, có tài thì rất cần đại hội phải nối dài tầm mắt thông qua nắm bắt dư luận, lắng nghe ý kiến phản hồi, lấy phiếu tín nhiệm của quần chúng nhân dân. Nhân dân là lưới lọc cán bộ tốt nhất cho đảng; song việc lấy ý kiến của nhân dân cũng cần phải có cơ chế phù hợp thì mới hòng mang đến dân chủ và đạt hiệu quả thực sự, thực chất như mong muốn. Cần coi trọng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm, hướng dẫn để phát huy tốt vai trò của người dân; thậm chí mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân được lựa chọn, giới thiệu nhân sự, nghiên cứu phương án minh bạch, công khai danh sách nhân sự giới thiệu vào các cơ quan đảng, nhà nước thậm chí là công khai quy hoạch nhân sự Ủy viên Trung ương để nhân dân nắm, kiểm tra, giám sát và cho ý kiến