Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024

Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho thanh niên hiện nay

 

Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho thanh niên hiện nay

THS. TRẦN THỊ THÚY
Trường Chính trị tỉnh Nghệ An
12:31, ngày 25-05-2021

TCCS - Bản lĩnh chính trị của thanh niên được hình thành từ nền tảng giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội, qua quá trình rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành trong môi trường thực tiễn. Rèn luyện bản lĩnh chính trị là nhiệm vụ quan trọng của thanh niên, nhằm xây dựng một thế hệ thanh niên Việt Nam vừa “hồng”, vừa “chuyên”, là rường cột gánh vác nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Bản lĩnh chính trị của thanh niên thể hiện ở sự vững vàng trong quan điểm, lập trường chính trị để ứng xử một cách độc lập, sáng tạo trong đời sống chính trị - xã hội_Ảnh: Tư liệu

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”(1). Để thực hiện nhiệm vụ đó, bản thân thanh niên phải không ngừng phấn đấu trong học tập và rèn luyện, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, có sức khỏe, có tri thức, có kỹ năng, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và đặc biệt là phải có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi biến động của hoàn cảnh. Rèn luyện bản lĩnh chính trị là yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng của thanh niên trong bối cảnh Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang đẩy mạnh giáo dục bản lĩnh chính trị cho thế hệ trẻ và đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

Bản lĩnh chính trị của thanh niên thể hiện ở sự vững vàng trong quan điểm, lập trường chính trị; ở sự “nhạy bén chính trị”, sự tôn trọng chuẩn mực “chân, thiện, mỹ” để ứng xử một cách độc lập, sáng tạo trong đời sống chính trị - xã hội. Đó là sự kết tinh các phẩm chất tâm lý tích cực, tốt đẹp để từ đó thể hiện sự kiên định, ý chí trung thành với lý tưởng mà mình đã tin, đã yêu và đã chọn. Thanh niên có bản lĩnh chính trị vững vàng thể hiện ngay ở nhận thức, hành vi, lối sống, trong hoạt động xã hội và qua việc noi theo các tấm gương tiêu biểu. Ở khía cạnh khác, bản lĩnh chính trị chỉ đạt được khi cá nhân hoàn thành những yêu cầu mà xã hội đặt ra, được cộng đồng và xã hội thừa nhận.

Một số yếu tố tác động quá trình rèn luyện bản lĩnh chính trị của thanh niên

Gia đình là nơi có ảnh hưởng đầu tiên, trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến sự hình thành bản lĩnh chính trị của mỗi người thanh niên. Những năm tháng đầu tiên trong cuộc đời nếu được gieo “hạt giống” tốt thì sẽ “nảy mầm” những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mỗi con người.

Luật Thanh niên năm 2020 quy định, thanh niên Việt Nam là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu đến ba mươi tuổi. Đặc điểm này tạo nên tâm - sinh lý lứa tuổi rất riêng, có tác động sâu sắc đến quá trình rèn luyện bản lĩnh chính trị của thanh niên. Đặc điểm và cũng là ưu điểm nổi bật của thanh niên là tuổi trẻ, nhiều ước mơ, hoài bão, thích tìm tòi, khám phá, có khát vọng thành đạt, thích được trải nghiệm và dám đối mặt với thử thách. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này, sự trải nghiệm thực tiễn chưa nhiều nên sự hiểu biết về các vấn đề chính trị - xã hội chưa rộng, sâu, điều này có thể dẫn đến những hành động tự phát, bồng bột. 

Quá trình rèn luyện bản lĩnh chính trị của thanh niên là kết quả của quá trình được giáo dục và tự học, tự tu dưỡng của bản thân. Tự học hay tự giáo dục và học tập suốt đời là luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Người căn dặn: “Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”(2); “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học, học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân”(3). Sự nghiêm túc rèn luyện bản lĩnh chính trị không chỉ giúp thanh niên tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những tác động tiêu cực, mà còn rèn luyện khả năng kiên trì vượt qua khó khăn để đạt đến mục tiêu.  

Nhà trường là môi trường quan trọng để nuôi dưỡng và giáo dục bản lĩnh chính trị của thanh niên, có vai trò tác động một cách có mục đích, có kế hoạch để chuẩn bị cho học sinh, sinh viên bước vào cuộc sống tương lai với hành trang tri thức, trí tuệ, đạo đức, ý chí và niềm tin khoa học. Trong nhà trường, các mối quan hệ bạn bè, thầy cô cũng có tác động tích cực hay hạn chế đến quá trình rèn luyện bản lĩnh chính trị của học sinh, sinh viên.

Bên cạnh đó, Đoàn Thanh niên với vai trò “Trường học xã hội chủ nghĩa” thông qua các nội dung, phương thức hoạt động khác nhau, với nhiều loại hình giáo dục khác nhau để đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên. Trong nhiều năm qua, các phong trào thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã trở thành phong trào sâu, rộng, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân, giúp thanh niên hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của sự dấn thân, xung kích vì cộng đồng, đất nước.

Lễ thượng cờ trên Đảo Thanh niên Cù Lao Xanh (tỉnh Bình Định)_Ảnh: Ngọc Vũ

Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên luôn là lực lượng đi đầu, chủ yếu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, các thế lực thù địch luôn xem thanh niên là đối tượng “đặc biệt” để thực hiện âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, nhằm gieo rắc những thông tin, tư tưởng xấu, độc, âm mưu làm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng, đạo đức, gây nhiều khó khăn đối với công tác định hướng, giáo dục bản lĩnh chính trị của thanh niên. Hiện nay, việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, tự giác, thường xuyên đối với thanh niên.

Nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa tạo điều kiện cho thanh niên tự khẳng định, thể hiện vai trò, trách nhiệm cá nhân trong đời sống cộng đồng, trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân, nhưng mặt trái của nó cũng tác động làm phai nhạt về lý tưởng, giảm sút niềm tin, bản lĩnh chính trị trong một bộ phận thanh niên.

Một số giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị của thanh niên hiện nay

Để tăng cường giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị của thanh niên, cần có sự phối hợp, tham gia của các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị với nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó, tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách phù hợp, giúp từng bước hình thành ý thức chính trị, ý thức trách nhiệm của thanh niên đối với bản thân và xã hội, giúp bồi đắp dần và nâng cao bản lĩnh chính trị của thanh niên.

Hai là, chú trọng giáo dục truyền thống tốt đẹp của quê hương, của dân tộc, nhằm bồi dưỡng tình cảm đúng đắn cho thanh niên. Hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, văn hóa Việt Nam đã có những thay đổi ở các phương diện nhất định, nhưng những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc từ bao đời nay vẫn mang sức sống mạnh mẽ và trường tồn. Các chủ thể giáo dục cần khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và tự cường của con người Việt Nam; tinh thần vượt khó, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học; tinh thần xây dựng ý thức tập thể, ý thức cộng đồng và trách nhiệm xã hội; giáo dục truyền thống cần cù, tiết kiệm, rèn luyện tình yêu lao động, tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện, xã hội, rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho thanh niên, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức Đoàn Thanh niên nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị của thanh niên. Các cấp bộ đoàn cần tăng cường giáo dục bản lĩnh chính trị cho thanh niên bằng nhiều hình thức phong phú và đa dạng, gắn chặt với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, việc rèn luyện theo 5 tiêu chí của người đoàn viên. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Xây dựng hình mẫu thanh niên Việt Nam giai đoạn 2018 - 2022”, cụ thể hóa thành 12 tiêu chí dựa trên nền tảng các giá trị: “Tâm trong - Trí sáng - Hoài bão lớn”. Tổ chức các hoạt động thực tiễn cần đặc biệt chú ý công tác định hướng tư tưởng, phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt, để tạo sức lan tỏa trong cộng đồng; đồng thời cần quan tâm hơn nữa đến đặc thù tâm lý lứa tuổi, tránh cách giáo dục nặng nề, khô cứng, nhưng cũng không được hời hợt, thiếu chiều sâu.

Bốn là, phát huy vai trò cá nhân tự rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị. Để có tri thức, ý chí, niềm tin chính trị đòi hỏi quá trình tự rèn luyện không ngừng của bản thân mỗi người thanh niên theo định hướng của các chủ thể giáo dục. Sự tham gia tích cực của thanh niên trong các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học cũng như trong các hoạt động thực tiễn có ý nghĩa quyết định. Đồng thời khuyến khích sự tự học, kết hợp giữa “học” với “hành” trên cơ sở những kiến thức thanh niên tiếp thu được từ nhà trường, gia đình và xã hội.

Năm là, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên. Phát triển đảng viên trong thanh niên không những góp phần bổ sung lực lượng, bảo đảm sự kế thừa, phát triển vững chắc, liên tục cho Đảng, mà qua đó, còn tạo điều kiện, môi trường tốt để củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị của thanh niên khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Thông qua các phong trào, hành động cách mạng của tuổi trẻ góp phần giúp thanh niên học tập, rèn luyện, tu dưỡng bản thân, trở thành những đoàn viên ưu tú sớm được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò nòng cốt của Đoàn Thanh niên trong công tác phát hiện, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú cho Đảng.

Sáu là, các chủ thể giáo dục, đặc biệt là các trường đại học, trường nghề cần định hướng đào tạo ngành nghề cho thanh niên đáp ứng nhu cầu xã hội. Tăng cường sự kết nối giữa nhà trường với doanh nghiệp, sự phối hợp giữa các ngành, tổ chức nhằm giải quyết việc làm cho thanh niên và sinh viên sau khi tốt nghiệp, giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp, từ đó có điều kiện ổn định để trau dồi, học tập, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị.

Thanh niên chính là rường cột của nước nhà, có sứ mệnh kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc, gánh vác nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó chỉ được hoàn thành khi thế hệ thanh niên Việt Nam được chăm lo và tự rèn luyện để có trình độ, đạo đức và bản lĩnh chính trị. Đó là vấn đề mang tính sống còn của cách mạng Việt Nam./.

------------------------------

"...PHẢI CÓ CHÍNH TRỊ TRƯỚC RỒI CÓ CHUYÊN MÔN"

 “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn”. Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, đầu tháng 8-1959.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy, nhà giáo dục vĩ đại. Cả cuộc đời Người đã đào tạo biết bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ ưu tú cho cách mạng và dành nhiều tình cảm quan tâm đối với các thầy, cô giáo. Bác đặc biệt đề cao vai trò của người thầy, bởi người thầy không chỉ dạy chữ mà còn dạy người, không chỉ truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm, khơi nguồn sáng tạo mà còn là tấm gương mẫu mực về đạo đức cho học sinh noi theo; được xã hội tôn kính. Có thể nói, ở bất cứ xã hội nào, nghề dạy học luôn được coi là nghề cao quý; do vậy, người thầy phải có lập trường tư tưởng đúng, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có chuyên môn giỏi và không ngừng được phát triển, sáng tạo thì mới hoàn thành trọng trách mà xã hội tin tưởng trao gửi.
Thấm nhuần lời Bác dạy, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn khắc ghi tinh thần “chính trị là linh hồn” mà Bác đã huấn thị; và: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng quân đội nhân dân (QĐND) vững mạnh về chính trị, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; phù hợp với yêu cầu, nội dung của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cần tập trung giáo dục, rèn luyện bộ đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy; nói và làm đúng nghị quyết; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới./.
St

QUYẾT TÂM XÂY DỰNG ĐẢNG VỮNG MẠNH, NƯỚC VIỆT NAM GIÀU MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH

 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng, là bước ngoặt lớn trong lịch sử cách mạng nước ta.

Từ ngày có Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, các đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng qua các thời kỳ, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, liên tục tiến lên. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên nhiều kỳ tích, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa nước ta từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội và sánh vai với các cường quốc năm châu.
Với đường lối chính trị đúng đắn, trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, gắn bó máu thịt với nhân dân và tinh thần đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng đã quy tụ, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các phong trào đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc, cách mạng dân tộc dân chủ ở miền nam, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, thách thức, Đảng tiếp tục khẳng định trình độ trí tuệ, bản lĩnh, tính tiên phong, với bản chất khoa học và cách mạng; đã khởi xướng, không ngừng hoàn thiện, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, uy tín, vị thế trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Trên cơ sở đánh giá chính xác thế và lực của đất nước, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức, với quyết tâm chính trị cao hết lòng vì nước, vì dân, Đại hội XIII của Đảng đã hoạch định đường lối phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đặt ra các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đi được 2/3 chặng đường, đến nay việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả có tính bước ngoặt.
Diễn biến tình hình trong những năm gần đây cho thấy, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi mang tính thời đại. Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác định trật tự thế giới mới. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, trong đó châu Á-Thái Bình Dương là địa bàn cạnh tranh quyết liệt nhất.
Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ráo riết tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc; triệt để lợi dụng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để thâm nhập nội bộ, thúc đẩy các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ bên trong.
Các thách thức an ninh phi truyền thống gây ra nhiều tác động tiêu cực; sự xuất hiện, phát triển của không gian mạng cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ 4 với quy mô, tốc độ chưa từng có, đem đến thời đại mới mà quốc gia kém phát triển, đang phát triển có thể tận dụng thời cơ, đi tắt đón đầu, phát triển vượt bậc, vươn lên thành những quốc gia hùng mạnh hoặc bị rơi vào hố sâu tụt hậu nếu không tận dụng được thời cơ.
Để tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, tăng cường tiềm lực, sức mạnh thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lòng, kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tìm tòi, mở ra triển vọng mới to lớn để phát triển con người và xã hội.
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng. Kiên định phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Từ Trung ương đến chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[1]; Đảng phải huy động cho được toàn bộ trí tuệ, sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững độc lập, tự chủ; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tăng cường đóng góp thiết thực của Việt Nam trong duy trì hòa bình trong khu vực và trên thế giới. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc.
Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”.
Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; có nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng với phương châm “không ngừng”, “không nghỉ”, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “bất kể người đó là ai”, “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”.
Đồng thời tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công khai, minh bạch thông qua chuyển đổi số; mở rộng không gian phát triển; tạo thuận lợi cao nhất cho mọi hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, đóng góp xây dựng đất nước, nâng cao đời sống của Nhân dân của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, doanh nhân trong và ngoài nước. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát quyền lực với làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước, củng cố tiềm lực quốc gia. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập. Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư, sản xuất kinh doanh; huy động tối đa nguồn lực xã hội cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển con người toàn diện; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.
Tập trung cao độ các công việc để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng; tổ chức tốt việc tổng kết 40 năm đổi mới đất nước, kế thừa những thành tựu lý luận quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết, đề ra đường lối đúng đắn, đưa đất nước tiếp tục phát triển toàn diện trong thời gian tới.
Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh; kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với truyền thống tốt đẹp, khí phách và tinh hoa của dân tộc, không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; với bản lĩnh, kiên định lý tưởng cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên; được Nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, Đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cũng là ước vọng của toàn dân tộc “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”./.
St

Phát triển đội ngũ tri thức trẻ

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận giúp Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong bối cảnh tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0.

Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ:

Về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”[1]. Trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (tháng 1-1946), Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”[2]. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho thanh niên, nhất là thanh niên trí thức qua việc bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện.

Theo Người, trí thức trẻ là một bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam, là lực lượng tiên phong trong đội ngũ thanh niên. Họ là lực lượng có tinh thần yêu nước nồng nàn, có khát vọng ý chí vươn lên, có đạo đức cách mạng trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh; có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất dân tộc và kiến thiết nước nhà. Đồng thời, họ đang công tác, hoạt động và nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh,… quan trọng của đất nước.

Về trách nhiệm của đội ngũ trí thức trẻ, Người nhắc nhở: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”[3] và "Để thật xứng đáng là người chủ của một nước xã hội chủ nghĩa, thanh niên ta quyết tâm thực hiện mấy điều sau đây: Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, người tiên tiến thì giúp đỡ người kém, người kém phải cố gắng để tiến lên, ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà; phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường. Phải chống tham ô, lãng phí; phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[4].

Về mục tiêu và khát vọng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến: (1) Mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trẻ: Trí thức trẻ phải gắn với vận mệnh dân tộc, thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với đất nước; (2) Đội ngũ trí thức trẻ phải gắn bó thường xuyên, mật thiết với nhân dân, trên tinh thần khiêm tốn học hỏi những điều hay lẽ phải, vì tuổi trẻ đôi khi chưa có kinh nghiệm muốn khẳng định mình dễ dẫn đến vội vàng, nhất là đội ngũ trí thức trẻ thuần túy về khoa học, kỹ thuật. Nhận xét về thanh niên, trong đó có thanh niên trí thức, Người cho rằng: “Ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết điểm là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Rất mong toàn thể thanh niên ta ra sức phát triển những ưu điểm và tẩy sạch những khuyết điểm ấy. Huy hiệu của thanh niên ta là “tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”; (3) Đội ngũ trí thức trẻ nhiệt huyết, khao khát được cống hiến để khẳng định mình và phục vụ cho Tổ quốc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ trí thức trẻ là những người có học vấn, có năng lực sáng tạo, hoài bão lớn, dám làm những việc lớn, ích nước, lợi dân; (4) Đội ngũ trí thức trẻ năng động, chủ động kết bạn với các quốc gia trên thế giới; (5) Coi trọng giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng cho trí thức trẻ.

Về quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ trí thức cho cách mạng, đề ra phương châm vừa cải tạo và sử dụng những trí thức cũ, vừa xây dựng và phát triển lực lượng trí thức mới. Người đã rất đề cao, coi trọng người trí thức, các biện pháp, chính sách động viên, khuyến khích đội ngũ trí thức tham gia vào sự nghiệp cách mạng; đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, để xây dựng đội ngũ trí thức có phẩm chất khoa học, có đạo đức và năng lực thực tiễn cao. 

Bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

 

Bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

TRUNG TÁ NGUYỄN VĂN HOÀNG
Chính trị viên phó Ban Chỉ huy Quân sự thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
09:14, ngày 31-07-2024

TCCS - Trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định giá trị trường tồn, là một bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Do đó, việc bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Bác Hồ với nữ chiến sĩ thi đua miền Bắc_Ảnh: Tư liệu

1- Giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định qua các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi.

Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân”… Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người không chỉ luôn phấn đấu thực hiện, mà còn giáo dục, dìu dắt các thế hệ cách mạng và người dân Việt Nam về tư tưởng đó. Chính vì vậy, Người là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Người là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế, một chiến sĩ quả cảm không ngừng đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ xã hội... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới; là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển. Dù thế giới biến đổi không ngừng và có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, nhưng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh luôn trường tồn cùng với sự phát triển tiến bộ của nhân loại và dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh học tập, tiếp thu và vận dụng lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo trên nền của một nhân cách vĩ đại, với trí tuệ uyên bác và luôn lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã được Người luận giải trên cơ sở gắn lý luận với thực tiễn, xuất phát từ đòi hỏi của dân tộc với sự phát triển của thời đại. Người luôn nắm vững cái cốt lõi, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “phương pháp làm việc biện chứng”. Trên tinh thần và cách tiếp cận đó, hệ thống các quan điểm của Người về dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) của dân, do dân, vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), xây dựng văn hóa, đạo đức, con người mới, về quân sự, ngoại giao… đều phản ánh sự kế thừa, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin gắn với điều kiện lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.

Ngoài ra, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam còn là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và “quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân”. Điều đó cho thấy giá trị tư tưởng của Người thông qua các luận điểm về quyền sống tự do, độc lập - một trong những giá trị vĩnh hằng trong quyền tự nhiên của con người và cũng là quyền căn bản của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bên cạnh đó, các luận điểm mang dấu ấn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự lực cánh sinh, về phát huy sức mạnh toàn dân tộc, về xây dựng nền văn hóa mới, giáo dục mới, con người mới, gắn với thể chế chính trị mới; xây dựng quân đội nhân dân và nền ngoại giao nhân dân dựa trên nội lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… cũng là sự bổ sung, phát triển và làm phong phú lý luận Mác - Lê-nin gắn với thực tiễn Việt Nam.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách thực hiện các mục tiêu của cách mạng.

Quá trình cách mạng Việt Nam 94 năm qua đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Mặc dù đến Đại hội VII của Đảng, lần đầu tiên, Đảng ta trang trọng ghi vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, song trên thực tế, cùng với học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam” cho Đảng ta ngay từ khi Đảng mới ra đời vào mùa Xuân năm 1930, với những văn kiện đầu tiên của Đảng mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. Và trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển của Đảng, hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với lý luận Mác - Lê-nin đã trở thành kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.

Với vai trò, uy tín và tầm ảnh hưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ tiêu biểu cho khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do của toàn dân tộc. Tư tưởng của Người về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam không chỉ chứa đựng giá trị nhân văn cao đẹp, mà còn hàm chứa tư duy lý luận khoa học. Cùng với lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng cốt lõi của Đảng ta để xác định đường lối chiến lược, sách lược trong chỉ đạo cách mạng, nhằm đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Trong tình hình mới, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm thực hiện thành công tầm nhìn chiến lược của Đảng được xác định tại Đại hội XIII: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1).

Thực tế cho thấy, hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh trong cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 94 năm qua. Đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận, điều đó không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"(2).

Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh được hiện thực hóa đã cổ vũ, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Một trong những đóng góp nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc, là đã tìm ra con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam - con đường “cách mạng vô sản”. Tiếp theo đó là phương pháp để thức tỉnh nhân dân Việt Nam - những người bị áp bức tàn bạo dưới chế độ thực dân. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, gắn cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản. Thông qua các quan điểm và hoạt động thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nhờ sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh vào phong trào cách mạng Việt Nam, nhân dân ta đã được thức tỉnh, nâng cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(3). Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(4).

Trong 38 năm đổi mới đất nước dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ bản xóa được đói, giảm được nghèo theo định hướng phát triển bền vững. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự, an toàn và an sinh xã hội được bảo đảm. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(5).

Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

2- Để bảo vệ các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, cần triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cũng như của mọi chủ thể trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, cần tập trung quán triệt và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn dân về giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đây là định hướng quan trọng, là tiền đề tạo ra sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động của các chủ thể. Bởi vì, nhận thức hướng dẫn hành động, nhận thức đúng thì hành động đúng và nhận thức đúng sẽ không vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, thậm chí thất bại trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(6). Theo đó, cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền, làm cho cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về các nội dung khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại(7).

Ngoài ra, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn bộ hệ thống chính trị, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8). Để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là các nhà trường giảng dạy về lý luận chính trị cần thực hiện nghiêm Kết luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014, của Ban Bí thư, “Về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”; Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; các quan điểm trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận.

Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư chỉ rõ: Đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những học thuyết đương đại, vận dụng sáng tạo, tăng cường liên hệ thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn người học, tạo hứng thú tìm tòi, nghiên cứu. Đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả học tập lý luận chính trị theo hướng thực chất. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị.

Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Chương trình học tập theo hướng phân biệt rõ cấp học và đối tượng học; đồng thời tăng cường, bảo đảm tính liên thông trong đào tạo các trình độ lý luận chính trị, phân cấp rõ ràng, hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị để nâng cao hiệu quả việc học tập, đào tạo, bồi dưỡng và tránh lãng phí về thời gian, kinh phí. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với nhu cầu quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ.

Theo đó, cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các học viện, nhà trường; tập trung truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi, cũng như giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những nội dung, giá trị mới, phù hợp với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, làm cơ sở định hướng cho việc vận dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, cần chú trọng việc giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ trong các nhà trường, đổi mới, nâng cao tính hấp dẫn của việc dạy và học các bộ môn khoa học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho người học nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn và các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, tích cực, chủ động, nhạy bén trong đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để thực hiện tốt nội dung này, cần quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 17-4-2009, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”; Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành, nhất là cơ quan báo chí, tuyên truyền, học viện, nhà trường, viện nghiên cứu cần chủ động, tích cực đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc chủ nghĩa Mác - Lê-nin; thổi phồng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Các cấp, các ngành phải tích cực, chủ động thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời những bức xúc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, sự nhất trí trong nội bộ, củng cố và nâng cao niềm tin vào giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, đi đôi với tăng cường quản lý chặt chẽ báo chí, xuất bản, internet, mạng xã hội theo đúng quy định của pháp luật; tăng cường thông tin đối ngoại và thông tin nội bộ, nhằm nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác tư tưởng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.

Trong quá trình tìm đến chân lý cách mạng, ngay từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(9). Do vậy, để tiếp tục khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, phải tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển và tìm ra các giá trị mới của tư tưởng Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn. Vì thế, trước hết phải nghiên cứu, vận dụng và phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần mác-xít nhằm cải tạo thực tiễn; tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm, luận điểm toàn diện và sâu sắc của Người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước.

Để thực hiện tốt các nội dung trên, đòi hỏi phải phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt Quy định số 285-QĐ/TW, của Bộ Chính trị khóa XI, về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị ở trong các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu. Thông qua đó, bảo đảm nâng cao chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học, nhằm góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo, nâng tầm lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của lực lượng chuyên trách trong đấu tranh bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chất lượng và hiệu quả của công tác lý luận, của việc bảo vệ, vận dụng, phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ lý luận và lực lượng chuyên trách. Hơn ai hết, đội ngũ này phải là lực lượng thật sự kiên định về lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Theo đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong các học viện, nhà trường về nội dung, giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được chú trọng, đổi mới; đồng thời, làm tốt việc lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng những người có tâm huyết, có trình độ cao, năng lực, phong cách công tác tốt để làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận.

Ngoài ra, cần thường xuyên kiện toàn tổ chức lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ tuyên giáo và lực lượng đấu tranh trên không gian mạng, phát huy vai trò của ban chỉ đạo 35 các cấp, lực lượng chuyên sâu, lực lượng 47 trong quân đội... để nâng cao hiệu quả đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái trên internet và các phương tiện truyền thông xã hội. Thường xuyên quan tâm, động viên và phát huy hiệu quả các trang website, blog cá nhân, nhóm của lực lượng nòng cốt và ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật để kịp thời ngăn chặn, lọc thông tin, không để các thế lực thù địch lợi dụng internet, các phương tiện truyền thông xã hội để xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như nền tảng tư tưởng của Đảng ta./.

----------------------

KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU, PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

 Cán bộ, đảng viên, nhân dân Đà Nẵng bày tỏ niềm tin Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ kế thừa, phát huy những kinh nghiệm, thành tựu mà các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết, đề ra đường lối đúng đắn để đưa nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Ngày 3/8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bầu đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII.
Đảng viên Lê Thị Đào Liễu (thành phố Đà Nẵng) cho rằng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bầu Tổng Bí thư với số phiếu tuyệt đối 100% thể hiện tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thống nhất cao. Việc bầu Tổng Bí thư là kịp thời, đảm bảo các yêu cầu cấp bách của Đảng, đất nước hiện nay nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Đại hội lần thứ XIII của Đảng và các mục tiêu tiếp theo. “Tôi tin tưởng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ kế thừa, phát huy những kinh nghiệm, thành tựu đã đạt được với tinh thần, trách nhiệm cao nhất vì sự nghiệp chung của Đảng, của đất nước để đưa nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”, đảng viên Lê Thị Đào Liễu bày tỏ.
Theo đảng viên Tăng Thị Huyền Sâm, giáo viên ở quận Thanh Khê, sau khi được bầu, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã có phát biểu khẳng định sẽ cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta và những thành quả mà các kỳ Đại hội, trong đó có Đại hội lần thứ XIII đã đạt được; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; gắn kết tư tưởng và hành động, ý đảng và lòng dân; nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, trước hết là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Đảng viên Tăng Thị Huyền Sâm tin tưởng trên cương vị mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau./.
St

'XÂY DỰNG ĐẢNG VỮNG MẠNH, NƯỚC VIỆT NAM GIÀU MẠNH, CÔNG BẰNG, DÂN CHỦ, VĂN MINH'

 Thông tin Chính phủ trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh":

"Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng, là bước ngoặt lớn trong lịch sử cách mạng nước ta.
Từ ngày có Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, các đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng qua các thời kỳ, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, liên tục tiến lên.
Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên nhiều kỳ tích, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa nước ta từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội và sánh vai với các cường quốc năm châu.
Với đường lối chính trị đúng đắn, trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, gắn bó máu thịt với nhân dân và tinh thần đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng đã quy tụ, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các phong trào đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, thách thức, Đảng tiếp tục khẳng định trình độ trí tuệ, bản lĩnh, tính tiên phong, với bản chất khoa học và cách mạng; đã khởi xướng, không ngừng hoàn thiện, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, uy tín, vị thế trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Trên cơ sở đánh giá chính xác thế và lực của đất nước, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức, với quyết tâm chính trị cao hết lòng vì nước, vì dân, Đại hội XIII của Đảng đã hoạch định đường lối phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đặt ra các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đi được 2/3 chặng đường, đến nay việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả có tính bước ngoặt. Diễn biến tình hình trong những năm gần đây cho thấy, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi mang tính thời đại.
Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác định trật tự thế giới mới. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, trong đó châu Á-Thái Bình Dương là địa bàn cạnh tranh quyết liệt nhất.
Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ráo riết tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc; triệt để lợi dụng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để thâm nhập nội bộ, thúc đẩy các yếu tố “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ bên trong.
Các thách thức an ninh phi truyền thống gây ra nhiều tác động tiêu cực; sự xuất hiện, phát triển của không gian mạng cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ tư với quy mô, tốc độ chưa từng có, đem đến thời đại mới mà quốc gia kém phát triển, đang phát triển có thể tận dụng thời cơ, đi tắt đón đầu, phát triển vượt bậc, vươn lên thành những quốc gia hùng mạnh hoặc bị rơi vào hố sâu tụt hậu nếu không tận dụng được thời cơ.
Để tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, tăng cường tiềm lực, sức mạnh thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lòng, kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tìm tòi, mở ra triển vọng mới to lớn để phát triển con người và xã hội.
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng. Kiên định phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Từ Trung ương đến chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[1]; Đảng phải huy động cho được toàn bộ trí tuệ, sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững độc lập, tự chủ; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tăng cường đóng góp thiết thực của Việt Nam trong duy trì hòa bình trong khu vực và trên thế giới.
Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc. Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến, ứng vạn biến,” “hòa hiếu,” “lấy chí nhân thay cường bạo.”
Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “dân là gốc,” “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; có nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng với phương châm “không ngừng,” “không nghỉ,” “không có vùng cấm, không có ngoại lệ,” “bất kể người đó là ai,” “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực.”
Đồng thời tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công khai, minh bạch thông qua chuyển đổi số; mở rộng không gian phát triển; tạo thuận lợi cao nhất cho mọi hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, đóng góp xây dựng đất nước, nâng cao đời sống của Nhân dân của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, doanh nhân trong và ngoài nước.
Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát quyền lực với làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh.”
Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước, củng cố tiềm lực quốc gia. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập.
Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư, sản xuất kinh doanh; huy động tối đa nguồn lực xã hội cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển con người toàn diện; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.
Tập trung cao độ các công việc để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng; tổ chức tốt việc tổng kết 40 năm đổi mới đất nước, kế thừa những thành tựu lý luận quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết, đề ra đường lối đúng đắn, đưa đất nước tiếp tục phát triển toàn diện trong thời gian tới.
Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh; kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với truyền thống tốt đẹp, khí phách và tinh hoa của dân tộc, không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; với bản lĩnh, kiên định lý tưởng cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên; được Nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, Đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cũng là ước vọng của toàn dân tộc “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”./.
St