Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

Chiến thắng 30/4 mãi mãi đi vào lịch sử của dân tộc .

Chiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử, khẳng định tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Chiến thắng thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, từ cường và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Năm nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 46 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2021) trong bối cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vừa diễn ra thành công tốt đẹp; Cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV đang được chuẩn bị và cho đến hiện nay, chúng ta đang kiểm soát được dịch Covid-19. Đây là dịp để chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường xây dựng và phát triển đất nước từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới và nhận thức sâu sắc hơn những giá trị, những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí, quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Vào thời điểm này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc “Chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Ở trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Chiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử, khẳng định tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Nó thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, từ cường và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã trải qua 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thử thách, cam go, ác liệt nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đương đầu với tên đế quốc giàu mạnh nhất và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này phải trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch chiến lược của đế quốc Mỹ. Đó là 05 giai đoạn : 1. Từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960, ta tập trung đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ; 2. Từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965, ta giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ; 3. Từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968, Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc; 4. Từ năm 1969 đến 1973, quân và dân ta phát huy sức mạnh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán; 5. Từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975 là giai đoạn tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng 30/4 là chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc ta lại vận dụng một cách sáng tạo vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn. Một là, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu của Đại thắng mùa Xuân 1975, động viên toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước phát triển nhanh và bền vững theo mục tiêu cao cả của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, như: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập, xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục phát huy tinh thần tương thân, tương ái, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Hai là, phát huy cao độ tinh thần quyết chiến quyết thắng của Đại thắng mùa Xuân 1975 để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước ngày càng phát triển, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng chính đáng đó của dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là động lực chủ yếu, là nhân tố cực kỳ quan trọng bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp đổi mới. Trên tinh thần đó, toàn dân đoàn kết, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam ngày càng phồn thịnh. Bốn là, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy nội lực của đất nước với sự giúp đỡ, hợp tác với các nước, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Năm là, phát huy Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng sự nghiệp của các thế hệ đi trước trong điều kiện mới, xung kích tiến công vào khoa học và công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ con người, mà trước hết là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nâng tầm văn hóa trong cuộc sống, năng động, sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc vai trò xung kích trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, ngày nay là lực lược xung kích, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sáu là, phát huy tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào bảo vệ Tổ quốc thân yêu của chúng ta hiện nay. Quốc phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện những mục tiêu cốt lõi và chiến lược của đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng - an ninh, nêu cao ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi công dân nhằm khơi dậy, khích lệ, phát huy những giá trị truyền thống yêu nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Kỷ niệm 46 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc. Đồng thời phát huy tinh thần và hào khí của Đại thắng mùa Xuân 1975 để đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đi vào cuộc sống, phấn đấu xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, cường thịnh, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.

Phát huy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh .

Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là động lực cho sự phát triển trong giai đoạn phát triển mới. VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA Ý CHÍ, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG TOÀN DÂN TỘC Ý chí là khả năng vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích, là sức mạnh tinh thần to lớn, là động lực cổ vũ con người đứng lên, vượt qua những rào cản trên con đường phấn đấu để đạt được mục đích. Ý chí giúp con người phát huy được sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, đôi khi đến mức độ phi thường. Ý chí của một cộng đồng dân tộc dựa trên sự thống nhất về tư tưởng, có lợi ích chung, tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc trong giành, bảo vệ nền độc lập cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước. Khát vọng là những mong muốn tốt đẹp của con người với sự thôi thúc mạnh mẽ từ bên trong để đạt được những mong muốn ấy. Cũng như ý chí, khát vọng có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người, gắn với mục đích sống, nuôi dưỡng những hoài bão lớn lao trong họ… Khát vọng chung của nhiều cá nhân trong xã hội tạo thành khát vọng xã hội và đến lượt nó, khi đã hình thành, vận động và phát triển, khát vọng xã hội có tác dụng lôi cuốn mọi cá nhân, vượt qua những chần chừ, dao động, tính toán thiệt hơn…, để tham gia thực hiện thành công khát vọng chung của xã hội. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự hình thành và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc trước hết vào ý chí và khát vọng sống, tồn tại và phát triển của cộng đồng dân tộc, tự mình cố kết lại để bảo vệ mình trước sức mạnh của tự nhiên, của các thế lực bên ngoài muốn thôn tính, đô hộ, áp bức, đồng hóa dân tộc. Lịch sử đã chứng minh không hiếm dân tộc, nền văn minh trên thế giới bị đồng hóa, bị tiêu diệt trong quá trình biến thiên lâu dài của lịch sử, khi không có sự đoàn kết toàn dân tộc, thiếu ý chí, khát vọng độc lập, tự cường và phát triển. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí và khát vọng phát triển đất nước gắn liền với tấm gương và sự nêu gương về trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh rất rõ vai trò của ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển. Hòn đá thề trên đỉnh núi Hy Cương, Phú Thọ nói lên ý chí, khát vọng độc lập của Vua Hùng và Thục Phán, về sự đoàn kết, thống nhất để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đền nợ nước, trả thù nhà. Triệu Thị Trinh hùng hồn khẳng định: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người"… Ý chí khát vọng độc lập, hùng cường của dân tộc Việt Nam đã thể hiện rất rõ trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có…” Trong những khúc quanh của lịch sử, cộng đồng dân tộc đã sinh ra những vĩ nhân, nhìn xa, trông rộng, như Nguyễn Trường Tộ, Vũ Duy Thanh… với tư tưởng cải cách, đổi mới để phát triển, xây dựng đất nước độc lập, hùng cường trước hiểm họa xâm lược từ các nước tư bản phương Tây. Lịch sử lâu dài của dân tộc đã chứng tỏ, ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc là nguồn nội lực xã hội khổng lồ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu và bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 35 năm qua một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của ý chí, khát vọng phát triển đất nước trong toàn dân tộc. Bài học kinh nghiệm quý giá nhất của công cuộc đổi mới là dựa vào sức dân, phát huy tinh thần và ý chí khát vọng của nhân dân trong chiến tranh cách mạng vào xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường hòa bình. Kết quả của công cuộc đổi mới không chỉ thể hiện bằng những thành tựu về kinh tế, xã hội, mà còn là bài học về phát huy ý chí, khát vọng phát triển, xây dựng đất nước ta phồn vinh, hạnh phúc, để “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy ý chí, khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc gắn liền với tư tưởng của Người về cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, “trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới”; với tinh thần chủ động, tự lực cánh sinh, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Ngay sau khi giành được nền độc lập, Người đặt tên nước Việt Nam gắn với các cụm từ “dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc” và trong lời dặn trước lúc đi xa Người mong muốn “tột bậc” về một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Việc giữ vững độc lập, tự chủ, khơi dậy và phát huy ý chí tự cường, khát vọng phát triển của toàn dân tộc góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giải những thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc. Tháng 9/1945, ngay sau khi nước nhà được độc lập, Người viết thư cho học sinh, sinh viên trong ngày khai trường năm học đầu của nước Việt Nam mới, trong đó có đoạn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(1). Thể hiện ý chí và vai trò của tự lực, tự cường trong quan hệ quốc tế, Người dặn: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(2). Tháng 5/1965, khi tròn 75 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động viết bản Di chúc, để lại những lời dặn tâm huyết nhất cho Đảng và nhân dân ta. Về khát vọng phát triển của dân tộc, Người viết: “…Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!” và đến ngày thắng lợi, chúng ta sẽ xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí và khát vọng phát triển đất nước gắn liền với tấm gương và sự nêu gương về trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minhkhi đã trở thành người lãnh đạo cao nhất đã nhấn mạnh đầy đủ, thẳng thắn nhất về mong muốn của mình khi trả lời các nhà báo: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”(3). Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ ý chí và khát vọng của Người cho độc lập dân tộc và phát triển. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”(4). Trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phóng viên báo Granma (Cuba), vào ngày 14-7-1969, Người nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, hùng cường cho dân tộc và sự hy sinh, cống hiến trọn đời của Người cho niềm mong ước ấy là tấm gương mẫu mực về trách nhiệm của mỗi người Việt Nam trong bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là góp phần hiện thực hóa tư tưởng của Người trong công cuộc Đổi mới của Đảng và nhân dân ta hiện nay. ĐỘNG LỰC CHO SỰ PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI Bối cảnh quốc tế và những xu hướng phát triển của thời đại đặt yêu cầu phải phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí, khát vọng của toàn dân tộc cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Sự đồng lòng của nhân dân là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã dự báo tình hình thế giới sẽ “…tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường”. Đáng chú ý, Văn kiện đã chỉ rõ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt… Trong hoàn cảnh thế giới phát triển phụ thuộc lẫn nhau, lợi ích quốc gia, dân tộc là nhân tố quyết định để mỗi quốc gia dân tộc tham gia vào các mối quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế thành công. Ngoài tiềm lực kinh tế, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển của toàn dân tộc là chỗ dựa và điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế. Trong điều kiện cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt, phức tạp, tác động mạnh mẽ đến Việt Nam hiện nay, việc giữ vững độc lập, tự chủ, khơi dậy và phát huy ý chí tự cường, khát vọng phát triển của toàn dân tộc góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giải những thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc. Trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội và khoa học, công nghệ hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển rất mạnh mẽ, tạo nên đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Vai trò của nhân tố con người, đặc biệt là tri thức, trí tuệ, sáng tạo có ý nghĩa quyết định để có sự phát triển đột phá, làm thay đổi vị thế quốc gia trên bản đồ thế giới. Chúng ta có quyền tự hào về một dân tộc Việt Nam thông minh, sáng tạo, một đội ngũ người lao động có trình độ học vấn khá cao, một môi trường phát triển và hội nhập quốc tế có nhiều thuận lợi nhờ thắng lợi của công cuộc đổi mới và đường lối đối ngoại đúng đắn…, giúp nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Đúng như khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Và: “… Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(5). Hơn lúc nào hết, cần phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí, khát vọng phát triển trong toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh làm động lực cho sự phát triển trong giai đoạn phát triển mới. Phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí tự cường và khát vọng phát triển đất nước trong giai đoạn mới là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và mỗi người dân để xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng lần đầu tiên xác định 5 quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó, quan điểm về động lực phát triển nêu rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”. Để thực hiện quan điểm này, Nghị quyết yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam. Bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững. Để phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc trong thời kỳ mới, cần tập trung thực hiện hiệu quả một số giải pháp sau: Một là, khơi dậy, nhân lên, phát huy giá trị, sức mạnh nội sinh của ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ chính ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc khi được khơi dậy, nhân lên, phát huy phù hợp sẽ tạo ra sức mạnh muôn người như một. Trong giai đoạn hiện nay, làm cho ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc trở thành ý chí, khát vọng phát triển của mỗi người con đất Việt là trách nhiệm của Đảng, trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên phải thể hiện rõ ý chí, khát vọng của mình, gương mẫu, làm lan tỏa, nhân lên ý chí, khát vọng phát triển của toàn dân tộc. Hai là, để ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc trở thành nguồn nội lực phát triển của đất nước, cần tập trung tuyên truyền, khẳng định những thành tựu rất đáng tự hào, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã đạt được. Những thành tựu đó cũng là kết quả của sự phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của toàn dân tộc trước đây cũng như trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, chúng ta thêm tin tưởng, tự hào, quyết tâm; thêm cơ sở khẳng định sự đúng đắn của con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Ba là, tiếp tục tháo gỡ những nút thắt trong cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý văn hóa, quản lý con người,... Xóa bỏ triệt để cơ chế bao cấp, xin - cho, tạo điều kiện để tất cả các thành phần kinh tế, mỗi gia đình, cá nhân, địa phương… đều có cơ hội phát triển, làm giàu cho mình cho đất nước. Ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc chỉ có thể được phát huy trên nền tảng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân. Điều này phải được coi là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc. Muốn phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc trong bất kỳ thời đại nào cũng phải dựa vào dân; tin vào sức mạnh phi thường của quần chúng nhân dân Bốn là, muốn phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc trong bất kỳ thời đại nào cũng phải dựa vào dân; tin vào sức mạnh phi thường của quần chúng nhân dân. Sự đồng lòng của nhân dân là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc. Trong tình hình mới hiện nay, sự lãnh đạo đúng đắn, nhạy bén của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài là điều kiện để phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc Việt Nam

Thủ tướng yêu cầu thực hiện nghiêm các biện pháp phòng dịch COVID-19

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị và từng người dân tuyệt đối không được lơ là, chủ quan; tập trung thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19. Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 81/TB-VPCP thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về phòng, chống dịch COVID-19 diễn ra vào sáng 26/4. Thông báo kết luận nêu rõ dịch COVID-19 trên thế giới hiện đang rất phức tạp, tiếp tục gia tăng về lượng người mắc bệnh, số người vào bệnh viện, số người chết và dịch bùng phát trở lại tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có nước láng giềng có chung đường biên giới phía Tây Nam. Trong nước đang tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh bùng phát trở lại rất cao. Việc thực hiện “mục tiêu kép” vừa phát triển kinh tế, vừa bảo đảm yêu cầu phòng chống dịch là một nhiệm vụ rất khó khăn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo Quốc gia Phòng, chống dịch COVID-19 đã rất quan tâm, thường xuyên chỉ đạo quyết liệt. Tuy nhiên, thực tế gần đây cho thấy trong xã hội đang xuất hiện tâm lý chủ quan, lơ là, một số nơi chưa nghiêm túc thực hiện đúng các yêu cầu về phòng, chống dịch. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị và từng người dân tuyệt đối không được lơ là, chủ quan; nêu cao ý thức, trách nhiệm vì sức khỏe cộng đồng và cá nhân, tập trung thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch đã đề ra. Thủ tướng lưu ý thủ trưởng các bộ, ngành, cơ quan và người đứng đầu các cấp ở địa phương chỉ đạo chủ động phối hợp, cập nhật tình hình trong nước và thế giới, rà soát để không ngừng hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm các giải pháp phòng, chống dịch trong phạm vi quản lý cho phù hợp với tình hình dịch bệnh và yêu cầu thực tế; không để bị động trong các kịch bản bùng phát dịch có thể xảy ra; bảo đảm chặt chẽ, đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, dễ thực hiện, dễ giám sát, dễ kiểm tra và rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân. Các nhân phải thực hiện nghiêm Thông điệp 5K, đặc biệt là đeo khẩu trang. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức phải thực hiện nghiêm các yêu cầu về an toàn COVID-19; thường xuyên tự kiểm tra và cập nhật kết quả thực hiện trên bản đồ phòng, chống dịch COVID-19. Các cơ quan chức năng cần kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, các bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm tăng cường giám sát, kiểm tra việc tuân thủ các quy trình, thủ tục và quy định về cách ly bắt buộc tại các khu cách ly tập trung, các cơ sở lưu trú, doanh nghiệp và theo dõi y tế sau cách ly. Bộ trưởng các bộ, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chỉ đạo hạn chế các sự kiện tập trung đông người; trường hợp cần thiết phải tổ chức thì cơ quan, đơn vị chủ trì tổ chức sự kiện chịu trách nhiệm trước pháp luật về thực hiện nghiêm các yêu cầu, điều kiện quy định về bảo đảm an toàn phòng, chống dịch. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm báo cáo với cấp ủy cùng cấp để thống nhất chỉ đạo và huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống dịch trên địa bàn; bảo đảm việc tuân thủ các quy định về phòng, chống dịch đối với tổ chức, cá nhân, việc thực hiện yêu cầu về đeo khẩu trang nơi đông người, nhất là tại các lễ hội, các hoạt động hiếu, hỉ; trường hợp để xảy ra lây nhiễm dịch trong cộng đồng trên địa bàn thì tùy mức độ sẽ bị xem xét, xử lý trách nhiệm theo quy định. Các địa phương có đường biên giới, nhất là biên giới Tây Nam, cần chủ động phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng để tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát hoạt động nhập cảnh qua đường bộ và đường biển; kiên quyết kiểm soát, ngăn chặn và xử lý nghiêm theo pháp luật hoạt động nhập cảnh trái phép. Bộ Y tế cần chủ động hơn trong hợp tác quốc tế để mở rộng phạm vi tiếp cận các nguồn vaccine phòng dịch COVID-19, công nghệ xét nghiệm nhanh và tăng cường chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi nhất để sản xuất vaccine trong nước. Tổ công tác gồm các Bộ: Ngoại giao, Quốc phòng, Công an, Y tế, Giao thông Vận tải cần tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ đã được giao, tăng cường quản lý chặt chẽ hoạt động nhập cảnh của công dân Việt Nam, nhà ngoại giao, nhà đầu tư, chuyên gia, kỹ thuật... theo đúng chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Quốc gia Phòng, chống dịch COVID-19. Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Y tế, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan báo chí cần tiếp tục truyền thông về việc đề cao cảnh giác với dịch bệnh, thực hiện việc tiêm vaccine phòng COVID-19, tự giác thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định./.

Tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .

` Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước nhằm lựa chọn, bầu ra những đại biểu tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới, góp phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bầu cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân Cuộc bầu cử diễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới ở nước ra sau 35 năm thực hiện đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực nhưng cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh thương mại, chiến tranh công nghệ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhân tố gây bất ổn đến an ninh quốc gia của Việt Nam. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trước tình hình đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải ra sức phấn đấu, đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng tận dụng mọi thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thử thách để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đặt ra. Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam công tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết phục vụ cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đang được tiến hành rất khẩn trương. Tuy nhiên, trước thềm bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã và đang tiến hành nhiều hoạt động chống phá cuộc bầu cử với tính chất hết sức quyết liệt, manh động. Thông qua việc xuyên tạc thông tin, đưa ra những luận điệu sai trái, thiếu trung thực, phiến diện, quy chụp với mục đích hướng lái dư luận theo hướng tiêu cực, gieo rắc nhận thức lệch lạc, sai lầm liên quan đến hoạt động bầu cử ở nước ta. Trong đó, có quan điểm cho rằng: bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân chỉ là nghĩa vụ chứ không phải quyền lợi, dân chủ, đều là sự sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự. Đây là một quan điểm sai trái, xuyên tạc, thiếu chính xác của các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị đối với công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện mưu đồ chính trị của chúng. Ở VIỆT NAM, QUYỀN BẦU CỬ VÀ ỨNG CỬ LÀ MỘT TRONG NHỮNG QUYỀN CHÍNH TRỊ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN Bầu cử là việc đưa ra quyết định của công dân hoặc của thành viên một tổ chức để chọn ra các cá nhân nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền, thuộc ban lãnh đạo của một tổ chức, cơ quan đơn vị nào đó. Đây là cơ chế phổ biến được các nền dân chủ hiện áp dụng để phân bổ chức vụ trong bộ máy lập pháp, đôi khi cả ở bộ máy hành pháp, tư pháp và ở chính quyền địa phương. Bầu cử là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua bầu cử giúp người dân có điều kiện thể hiện quyền "làm chủ" của mình, nhất là trong việc lựa chọn ra những người đại diện cho tiếng nói, cho lợi ích của mình. Ở Việt Nam, quyền bầu cử và ứng cử là một trong những quyền chính trị cơ bản của công dân và được quy định cụ thể tại Điều 18 Hiến pháp năm 1946: "Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi, không phân biệt gái, trai, đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử", và tiếp tục được khẳng định xuyên suốt trong các bản Hiến pháp năm 1959 (Điều 23), Hiến pháp năm 1980 (Điều 57), Hiến pháp năm 1992 (Điều 54). Hiến pháp năm 2013 và quyền của công dân luôn gắn liền với nghĩa vụ của công dân. Trong đó, Điều 15, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân", Điều 21 cũng quy định: "Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân...". Theo Điều 2 Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp năm 2015 quy định: "Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Luật này". Đồng thời, Khoản 5, Điều 4 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp năm 2015 quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp; tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp". Thông báo Kết luận số 174-TB/TW ngày 08/6/2020 của Bộ Chính trị về phương hướng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 nêu rõ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải là những người trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ngoài tiêu chuẩn chung, Hướng dẫn số 36-HD/BCHTW, ngày 20/01/2021 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác nhân sự đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đã quy định chi tiết về tiêu chuẩn, điều kiện của đại biểu Quốc hội chuyên trách và đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách. Bên cạnh đó, tiếp thu tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 20/6/2020 về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Hướng dẫn số 36-HD/BCHTW ngày 20/01/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bổ sung, hoàn thiện thêm nội dung về quy trình nhân sự theo hướng việc giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định tại Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp năm 2015; quy trình thủ tục, hồ sơ cụ thể thực hiện theo quy định của Hội đồng Bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Như vậy có thể thấy, trong quy trình lựa chọn, sự tín nhiệm của cử tri là thước đo rất quan trọng về tiểu chuẩn của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Do đó, tại Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính phủ lần này, trong quá trình lựa chọn, sàng lọc, đặc biệt quan tâm đến yếu tố tín nhiệm. Nếu ở địa bàn, ở nơi công tác nếu cá nhân đó không được tín nhiệm thì bước đầu tiên sẽ không đưa vào giới thiệu nhân sự bầu cử. Ngoài ra, còn nhiều văn bản khác cũng quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân, cũng như tiêu chuẩn về nhân sự bầu của đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 là cuộc bầu cử được tiến hành dựa trên hệ thống thiết chế pháp luật rất vững chắc như: Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức quốc hội năm 2014, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015… Điều này có nghĩa là các quyền, nghĩa vụ của công dân, của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các quy trình tổ chức đều được xây dựng một cách chặt chẽ, khoa học, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân cũng như phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Việt Nam không hạn chế quyền ứng cử tự do của công dân, nếu họ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định và được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Bên cạnh đó, việc tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi công dân; bản thân mỗi cử tri có vai trò quyết định trong việc lựa chọn cho mình những người đại diện xứng đáng nhất để thay mặt mình quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, dân tộc. THAM GIA BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN LÀ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý CHÍ, NGUYỆN VỌNG, QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Trong quá trình lịch sử, các cuộc bầu cử dân chủ luôn là hoạt động tiêu biểu, quan trọng nhất trong các hoạt động dân chủ trực tiếp của người dân. Thông qua các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền công dân, quyền "làm chủ" của dân được thể hiện đúng với bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nói cách khác, tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp chính là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước nói chung và cơ quan đại diện - cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương tới địa phương ở nước ta nói riêng. Tham gia bầu cử chính là nơi để cử tri phát huy quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu, xứng đáng cho ý chí, nguyện vọng là quyền làm chủ của mình trong cơ quan quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử đất nước ta, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945), cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 06/01/1946 được tổ chức thành công là mốc son lịch sử của thể chế dân chủ ở Việt Nam trong điều kiện đất nước vô cùng khó khăn của "thù trong, giặc ngoài", tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hết sức khó khăn. Do đó, cuộc Tổng tuyển cử này không chỉ là một cuộc vận động chính trị thông thường mà thực chất là một cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp vô cùng gay go, phức tạp. Tuy nhiên, đại đa số người dân tham gia bầu cử luôn xúc động và tự hào vì "... ngày mai mà một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ra bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình..."[1]. Trong quá trình vận động và phát triển, tính dân chủ trong bầu cử và ứng cử ngày càng được mở rộng và quy trình bầu cử cũng như lựa chọn nhân sự ngày càng chặt chẽ và khoa học. Mặc dù, vẫn còn một số ít những tồn tại, hạn chế nhưng phải khẳng định một điều rằng chất lượng đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân ngày càng được nâng cao. Điều này được minh chứng trên diễn đàn của Quốc hội, của Hội đồng nhân dâncác cấp ngày càng xuất hiện nhiều hơn những tiếng nói đại diện cho quyền lực nhân dân trong hoạt động kiểm tra giám sát của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, trong các phát biểu, kiến nghị, góp ý và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, trong giải quyết những vấn đề mà cử tri, nhân dân cả nước quan tâm. Để đạt được những thành tựu trên, một trong những yếu tố quyết định và không thể không nói đến đó là tinh thần, trách nhiệm của mỗi người dân ngày càng được nâng cao thông qua việc lựa chọn những người đại diện xứng đáng nhất để thay mặt quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, dân tộc. Trải qua nhiều kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, người dân đã ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình nên đã tích cực thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua lá phiếu bầu, tích cực tham gia vào cuộc bầu cử từ giai đoạn giới thiệu người ứng cử, tham gia các Hội nghị cử tri để đóng góp ý kiến, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người ứng cử đến giai đoạn bỏ phiếu bầu để ngày bầu cử đã thực sự trở thành ngày hội, một dịp sinh hoạt chính trị của đồng bào, nhân dân cả nước. Những vấn đề chưa phù hợp trong quy chế, quy định bầu cử đã tiếp tục được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho quyền lực của người dân được thực hiện tốt hơn trên thực tế. Bên cạnh đó, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình bầu cử là một tất yếu nhằm lựa chọn được những người tiêu biểu, xứng đáng nhất, có đủ các tiêu chuẩn theo quy định, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng; có năng lực, có điều kiện thực thi nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Đồng thời bảo đảm cơ cấu và chất lượng, không vì cơ cấu mà giảm chất lượng. Đó là là cơ sở pháp lý giúp cho việc hình thành các cơ quan nhà nước trong nhiệm kỳ mới, bảo đảm tính liên thông, thống nhất với kết quả đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá công tác bầu cử, các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã xuyên tạc bản chất vấn đề, đưa ra những luận điệu sai trái, khi cho rằng bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đều là sự sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự. Những luận điệu xuyên tạc này của chúng nhằm hướng lái dư luận, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để hiện thực hóa mục đích "cài cắm mầm mống dân chủ" vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp với mưu đồ biến nghị trường thành diễn đàn để các đối tượng thực hiện hoạt động chống phá, hình thành lực lượng đối lập trong Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và thực hiện "chiến lược diễn biến hòa bình" làm nước ta tự suy yếu từ bên trong. Trong lịch sử, có thể thấy chiêu bài "đòi ghế" trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp của các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị không phải là vấn đề mới. Từ năm 1946, trong lần Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, sau khi không phá hoại được Tổng tuyển cử, Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội đã đòi 70 ghế trong Quốc hội. Mặc dù, một trong năm phương thức lãnh đạo của Đảng là thông qua công tác cán bộ và vai trò tiên phong gương mẫu của người đảng viên. Đối với những cơ quan dân cử, các cấp ủy đảng cần trực tiếp xem xét, tập thể quyết định việc lựa chọn, đánh giá, giới thiệu những cán bộ giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội. Trên thực tế, sau khi chỉ thị của Bộ Chính trị được ban hành, hội nghị toàn quốc triển khai công tác bầu cử được tổ chức để kịp thời quán triệt, xây dựng kế hoạch triển khai công tác bầu cử. Hội đồng Bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội... ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử từ Trung ương đến địa phương. Các cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ quốc, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở địa phương cũng tiến hành khẩn trương, nghiêm túc các công việc chuẩn bị bầu cử và lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử ở các cấp. Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập theo đúng quy trình và triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ theo quy định. Việc chuẩn bị nhân sự ứng cử đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì và tổ chức các hội nghị hiệp thương, hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi công tác, nơi cư trú đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thông qua công tác cán bộ nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Đảng sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự. Bởi vì, Đảng chỉ định hướng cơ cấu, số lượng nhân sự và xây dựng bộ tiêu chuẩn đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, yếu tố quyết định trong việc lựa chọn người đại diện cho tiếng nói của mình thuộc về nhân dân, ngay từ khâu chuẩn bị nhân sự thông qua việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác và nơi cư trú và trực tiếp thông qua những lá phiếu cử tri trong quá trình bầu cử. Quốc hội Việt Nam là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, có chức năng lập pháp, quyết định những chủ trương, chính sách quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước; Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Do đó, thực hiện thành công cuộc bầu cử sẽ thiết thực góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Những luận điệu của các thế lực thù địch, phản động cho rằng: "Việc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân chỉ là nghĩa vụ chứ không phải là quyền lợi, dân chủ, đều là sự sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự"... là hoàn toàn xuyên tạc, sai sự thật, nhằm xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam trước thềm bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026./.

Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng .

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc như một trong những trang sử chói lọi nhất, đi vào lịch sử nhân loại như một trong những chiến công thần kỳ của cuộc đấu tranh chống áp bức dân tộc của nhân dân toàn thế giới trong thế kỷ XX. Đặc biệt, đại thắng mùa Xuân 1975 đã để lại nhiều bài học có ý nghĩa lịch sử. Thắng lợi vĩ đại đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta đến tinh thần chiến đấu, hy sinh quả cảm, thông minh của toàn thể nhân dân ta mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta; tình đoàn kết chiến đấu liên minh bền vững của nhân dân 3 nước Đông Dương và sự ủng hộ mạnh mẽ, chân tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới… Trong đó, “nhân tố quyết định thắng lợi quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng”(1). Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị truyền thống dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn thế giới vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đây là những bài học quý báu về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong những giai đoạn quyết định của cách mạng. Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về bạo lực cách mạng và tư tưởng cách mạng tiến công, kiên quyết, khôn khéo dùng bạo lực cách mạng để kết thúc chiến tranh. Hiệp định Paris về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” ký ngày 27/1/1973 buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương rút quân khỏi nước ta. Nhưng với bản chất xâm lược, chúng tiếp tục tăng cường viện trợ cho nguỵ quyền nhằm kéo dài chiến tranh theo kiểu “Việt Nam hoá”. Với ý đồ thâm độc, đế quốc Mỹ đã ráo riết thực hiện chủ trương “hiện đại và tinh nhuệ hoá” nguỵ quân, tăng cường chi viện quân sự khối lượng lớn và xúi giục quân nguỵ vi phạm Hiệp định Paris một cách trắng trợn, gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn trong thực thi Hiệp định và bảo toàn vùng giải phóng. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, địa phương do biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, trông chờ “thiện chí” thi hành Hiệp định Paris của phía đối phương, dẫn tới thiếu cảnh giác, để địch mở rộng lấn chiếm nhiều vùng giải phóng. Để khắc phục tình hình, tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã kịp thời ban hành Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết 21). Nghị quyết khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”(2). Quán triệt quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương và các cấp uỷ Đảng ở miền Nam đã nhất quán phương châm: “Con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, tư tưởng chiến lược vẫn là tư tưởng tiến công, tuyệt đối không thể mơ hồ, ảo tưởng. Phương hướng hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải ra sức nhanh chóng tạo thế mới, quyết tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”(3). Với nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, với ý chí và khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, với quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương khóa III đã chỉ ra cho cách mạng miền Nam một hướng đi chính xác, tạo cơ sở lý luận, thực tiễn cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn. Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về đánh giá, so sánh lực lượng đúng đắn, hạ quyết tâm chiến lược chính xác, kịp thời. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 21, sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, quân và dân ta ở miền Nam đã có nhiều hoạt động quân sự, chính trị nhằm chống địch phá hoại Hiệp định Paris đã phát triển lên đỉnh cao và thu được nhiều thắng lợi. Mặc dù đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố “dính líu” về quân sự ở miền Nam, chỉ huy quân nguỵ Sài Gòn tiếp tục thực hiện các hoạt động phá hoại, xâm lấn các vùng giải phóng, nhưng không còn khả năng đưa quân trở lại Việt Nam. Mỹ rút, nội bộ chính quyền ngụy ngày càng rối ren, lực lượng ngụy quân ngày càng bộc lộ những điểm yếu. Từ năm 1974, quân nguỵ cơ bản phải lui về giữ các đô thị, các đường giao thông và những vùng có ý nghĩa chiến lược. Chúng không thể đương đầu nổi với lực lượng ta đã mạnh hẳn lên cả về chính trị và quân sự. Quân và dân ta đã đánh cho “Mỹ cút” thì cũng có đầy đủ cơ sở và điều kiện để đánh cho “nguỵ nhào”. Từ ngày 30/9 đến 8/10/1974, Hội nghị Bộ Chính trị khoá III và Quân uỷ Trung ương họp, đã đánh giá: bước ngoặt căn bản trong so sánh lực lượng giữa ta và địch đã hoàn toàn có lợi cho ta. Ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trên cơ sở đó Hội nghị “hạ quyết tâm lịch sử hoàn thành giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976… nhất trí duyệt kế hoạch chiến lược cơ bản dự thảo lần thứ VII do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị”(4) và nhấn mạnh: “thực hiện kế hoạch cơ bản năm 1975-1976 nhưng phải ra sức chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ lịch sử đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức tập trung lực lượng của cả nước giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975”(5). Trước diễn biến mau lẹ của tình hình chiến trường miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị cuối tháng 12/1974 đã bổ sung và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược, kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với quyết tâm chiến lược đúng đắn, chính xác, kịp thời, việc tổ chức thực hiện chiến lược của ta ngay từ đầu đã ở thế chủ động, nên có điều kiện đánh địch theo ý ta, làm xuất hiện thời cơ và nhanh chóng chớp thời cơ chiến lược, dấn lên đánh đòn quyết định để giành thắng lợi hoàn toàn. Ba là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về chủ động chuẩn bị lực lượng mạnh, xây dựng thế trận, tạo và chớp thời cơ, kiên quyết tiến lên giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất. Trên cơ sở nắm vững quy luật “mạnh được, yếu thua” của chiến tranh, với quyết tâm chiến lược đã xác định, Đảng đã lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chủ động chuẩn bị lực lượng mạnh, bí mật triển khai thế trận hiểm và bất ngờ, buộc địch mắc mưu, phải bị động đối phó. Từ sự bị động đối phó, chúng dẫn tới liên tiếp mắc sai lầm về chiến dịch, chiến lược, làm xuất hiện thời cơ có lợi cho ta. Ta nhanh chóng chớp thời cơ có lợi, tập trung sức đánh mạnh địch, đẩy chúng vào thế tuyệt vọng, buộc phải đầu hàng vô điều kiện, ta giành thắng lợi sớm hơn dự kiến. Để thực hiện chiến lược đã đề ra và sẵn sàng đón thời cơ, chuẩn bị cho các đòn tác chiến chiến dịch quy mô lớn, từ tháng 10/1973, Đảng ta đã có chủ trương cho thành lập các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh để tạo khả năng đánh các đòn quyết định chiến trường. Tháng 3/1975, ta đã thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) có sức cơ động mạnh để đánh địch trong các trận quyết chiến chiến lược. Song song với chuẩn bị lực lượng mạnh, Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu chủ động chuẩn bị thế trận và chiến trường theo hướng tạo thế hiểm và bí mật, bất ngờ để chủ động đánh địch. Theo đó, Bộ Chính trị chỉ đạo chọn Tây Nguyên là chiến trường mở màn trọng điểm với hướng tiến công chiến lược từ phía Nam đánh lên, miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Với cách đánh chiến lược, chiến dịch là kết hợp ba đòn mạnh (chủ lực, nông thôn, đô thị) và bằng 3 mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, trong đó các trận đánh của các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh là những đòn quyết định. Đúng như dự kiến của Đảng, trận mở màn ở Nam Tây Nguyên diễn ra từ ngày 4 đến ngày 24/3/1975 đã giành thắng lợi giòn giã, quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, lúng túng cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, tạo ra sự chấn động mạnh và phá vỡ một mảng lớn quân địch, buộc chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến dịch và chiến lược, tác động dây truyền đến toàn bộ chiến trường, đẩy chúng đến chỗ cùng quẫn, hoảng loạn. Chớp thời cơ chiến dịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kịp thời chỉ đạo quân và dân ta ở miền Nam mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chỉ đạo Quân khu 5 kết hợp với Bộ tư lệnh Hải quân mở chiến dịch giải phóng các đảo do quân nguỵ Sài Gòn đóng giữ. Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: “Thời cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết tâm lớn hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4/1975”. Trong bối cảnh ấy, đầu tháng 4/1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đảng luôn nắm chắc tình hình chiến trường, lãnh đạo chỉ đạo kịp thời, linh hoạt các lực lượng thừa thắng xông lên, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”, với ý chí và quyết tâm “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ thời gian, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến, quyết thắng”(6), bộ đội và nhân dân ta trên khắp các chiến trường đã dũng mãnh xông lên với tinh thần “tất cả cho thắng lợi”. Sau 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thần tốc truy đuổi quân địch đến tận sào huyệt cuối cùng, bằng trận quyết chiến chiến lược lịch sử - chiến dịch Hồ Chí Minh, Sài Gòn - Gia Định được hoàn toàn giải phóng, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ cách mạng của quân và dân ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của bè lũ bán nước và xâm lược. Bốn là, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi trọn vẹn. Thành công nổi bật khác về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta trong đại thắng mùa Xuân 1975 là đã tạo ra và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi trọn vẹn, không để xảy ra đổ vỡ nghiêm trọng. Đảng chỉ đạo lấy tiến công quân sự của các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh làm “đòn cân não”, kết hợp chặt chẽ với sự nổi dậy của quần chúng đấu tranh chính trị và binh vận, làm tan rã nhiều bộ phận quân địch, giải phóng từng địa bàn chiến lược rộng lớn, tiến tới tổng công kích, tổng nổi dậy để giành quyền làm chủ và giành thắng lợi hoàn toàn. Đảng ta nắm vững quy luật chiến tranh, quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp và quy luật “quyết định chiến trường là lực lượng vũ trang”, tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa vũ trang. Cùng với sử dụng sức mạnh quân sự của các binh đoàn chủ lực để làm tan rã hệ thống phòng thủ của địch và lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, Đảng đã chỉ đạo kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với phát động quần chúng nhân dân nổi dậy làm chủ địa bàn, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn và rộng khắp. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã thể hiện tinh thần quật khởi của cả dân tộc Việt Nam khi tiến hành một cuộc “trường chinh” vĩ đại với ý chí thép, chấp nhận hy sinh tất cả để đổi lấy hòa bình, non sông thu về một mối, hoàn thành khúc khải hoàn ca “to lớn nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất, trọn vẹn nhất”. Năm là, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo vận dụng sáng tạo, tài tình nghệ thuật quân sự Việt Nam. Vận dụng sáng tạo và tài tình nghệ thuật quân sự dân tộc đã là một tài sản và truyền thống quý báu của Đảng ta. Song, trong đại thắng mùa Xuân 1975, sự vận dụng đó đã phát triển thành một đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đảng đã xác định phương hướng và mục tiêu tiến công đúng đắn, lựa chọn thời cơ tiến công thích hợp, cơ động và tập trung lực lượng kịp thời, đề ra hình thức tác chiến có hiệu lực lớn nhất, tạo bất ngờ và triệt để lợi dụng và khoét sâu sai lầm của địch, buộc chúng phải bị động, bất ngờ đối phó. Ta chớp thời cơ thuận lợi, kiên quyết và thần tốc tấn công, chỉ huy chủ động, táo bạo, linh hoạt để liên tiếp tiêu diệt, phá tan hệ thống phòng ngự và các tập đoàn quân địch, làm tan rã nhiều lực lượng, tiến tới đập tan chế độ ngụy quyền được sự bảo trợ của Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên tầm cao mới trong thời đại mới, nên đã tạo được sức mạnh áp đảo quân địch, luôn đánh địch ở thế mạnh và đánh tiêu diệt gọn, khiến địch phải bất ngờ và liên tục thất bại, tan rã. Đồng thời, làm cho nhân tố chính trị, tinh thần của bộ đội và nhân dân càng được tăng lên; cán bộ, chiến sĩ ta càng xốc tới mãnh liệt hơn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam được tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh để đưa đất nước đến ngày toàn thắng. Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong “cuộc đụng đầu lịch sử” chống đế quốc Mỹ xâm lược. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(7)./.

Kích động hận thù-âm mưu đen tối của các thế lực thù địch về Chiến thắng 30-4-1975

Tháng Tư lịch sử, khi cả dân tộc Việt Nam hân hoan chào mừng kỷ niệm Chiến thắng 30-4-1975, là dịp ôn lại lịch sử truyền thống hào hùng của toàn dân tộc, ngày thống nhất non sông thì những kẻ có tư tưởng thù địch lại giở luận điệu lèo lái dư luận, bóp méo lịch sử nhằm kích động thù hận, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; một số người còn kêu gọi: “Việt Nam không nên kỷ niệm 30-4 nếu muốn hòa hợp dân tộc”(!). Song, tất cả những lời lẽ phản động và rất bông phèng đó chẳng có nghĩa gì trước một chân lý mà mỗi người Việt Nam yêu nước đều nằm lòng: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Điều đó không chỉ được minh chứng bằng lịch sử chung tay dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc mà còn là ý chí quyết tâm từ Bắc vào Nam xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, độc lập, hùng cường. Lịch sử đã chứng minh, sau khi không thực hiện được dã tâm xâm lược, biến cả nước Việt Nam thành thuộc địa, từ giữa thế kỷ 20, thực dân, đế quốc đã chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam-Bắc và thành lập bộ máy tay sai tại miền Nam để dễ bề cai trị. Song trước ý chí quật cường không để đất nước bị chia cắt của toàn dân tộc Việt Nam, âm mưu của chúng bị phá sản. Dấu mốc lớn nhất là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn vào ngày 30-4-1975, đập tan ngụy quân, ngụy quyền tay sai và âm mưu của quân xâm lược, non sông Việt Nam thu về một mối. Từ đó, cả nước Việt Nam ta đã coi ngày 30-4 là Ngày chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông. Nhân dân Việt Nam không kể người Kinh hay người dân tộc thiểu số, miền núi hay miền biển, trong Nam hay ngoài Bắc đều phấn khởi, đoàn kết, chung sức khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng đất nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, chung tay dựng xây đất nước, Việt Nam đã và đang có sự phát triển về mọi mặt; "đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay". Các nước trên thế giới cũng hướng về đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hữu nghị với sự nể phục và yêu mến. Việt Nam với tinh thần nhân văn cao cả, sẵn sàng gác lại quá khứ, hướng tới tương lai tươi sáng, ngay cả những quốc gia từng ở “bên kia chiến tuyến” cũng đã quay lại thiết lập mối quan hệ ngoại giao gắn bó, hợp tác với Việt Nam từ nhiều năm qua. Thực tế đó đã làm lu mờ “luận điệu tháng Tư” của các thế lực thù địch, năm nào cũng phát lại những "cuốn băng phản động" cũ rích, lỗi thời. Luận điệu của chúng sẽ không bao giờ làm lay chuyển được ý chí hòa bình, thống nhất đất nước của người dân đất Việt bởi đồng bào cả nước đều hiểu rõ giá trị của Chiến thắng 30-4-1975, hiểu rõ nỗi đau chiến tranh và sự chia cắt đất nước. Với dân tộc Việt Nam, kỷ niệm Ngày Chiến thắng 30-4 là dịp ôn lại lịch sử truyền thống hào hùng của toàn dân tộc, thấm hơn giá trị của đất nước thống nhất, hòa bình, từ đó phát huy tinh thần đại đoàn kết để nỗ lực phấn đấu, tiếp tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chứ không phải là dịp để kích động hận thù, chia rẽ đoàn kết. Cho nên, luận điệu đòi “Việt Nam không nên kỷ niệm 30-4 nếu muốn hòa hợp dân tộc” nêu trên chính là sự kích động hận thù-âm mưu đen tối của các thế lực thù địch mà mỗi người cần cảnh giác nhận diện để không mắc phải mưu hèn, kế bẩn của những kẻ muốn chia rẽ khối đại đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc Việt Nam.

Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021

Đại thắng 30-4-1975, thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc

Kỷ niệm 46 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta có quyền tự hào rằng, đây là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trang sử chói lọi của một thời hào hùng đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta biến thành khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời. Ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, chấm dứt 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn gian khổ và cam go, ác liệt. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc; đánh dấu bước ngoặt quyết định, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. Có được thắng lợi vĩ đại này, trước hết là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ trang đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ; lao động quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp, đánh Mỹ và thắng Mỹ. Năm là, phát huy tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và Campuchia; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước phe xã hội chủ nghĩa, của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đúc kết những kinh nghiệm quý báu. Đó là các bài học: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam; phát huy sức mạnh thời đại; vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam; chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo, nắm bắt thời cơ giành những thắng lợi quyết định. Đồng thời, phải luôn luôn chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy năng lực lãnh đạo của Đảng. 46 năm qua, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng tiếp tục được thể hiện sinh động trên tất cả các lĩnh vực, như: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị; lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập, tận dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; trợ giúp kịp thời người dân trong thiên tai, thảm họa, dịch bệnh; đoàn kết dân tộc, tương thân, tương ái; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đảng ta lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng đó của dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Phát huy tinh thần chiến thắng 30-4, chúng ta cũng phát huy chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trên tinh thần đó, giáo dục cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy nội lực của đất nước, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước, giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trên tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Năm nay, chúng ta kỷ niệm 46 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang chung sức, đồng lòng chống “giặc Covid-19”. Hiện, đại dịch này đã bùng phát trên toàn cầu, hơn 150,5 triệu người mắc bệnh và 3,1 triệu người tử vong. Đại dịch Covid-19 là kẻ thù chung của nhân loại. Ở Việt Nam, phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động đề ra phương châm “Chống dịch như chống giặc”, “coi trọng sức khỏe và tính mạng con người là trên hết”, “mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận chống dịch”, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc, cho đến nay vẫn kiểm soát có hiệu quả. Dư luận thế giới đánh giá cao kết quả phòng, chống dịch Covid-19 của Việt Nam. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, phát huy tinh thần của đại thắng 30-4-1975, đất nước ta sẽ đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa để hoàn thành mục đích xây dựng một nước Việt Nam hùng cường: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Chiến thắng để có hòa bình

46 năm đã trôi qua, sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam đã giành thêm nhiều thành tựu to lớn, nhưng Chiến thắng 30/4/1975 vẫn là một mốc son sáng chói, là niềm tự hào, kiêu hãnh của mỗi người dân Việt Nam. Chiến thắng đó sẽ mãi là động lực thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua mọi trở ngại, tiếp tục đưa dân tộc Việt Nam đến những thắng lợi huy hoàng. Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải chinh chiến với rất nhiều kẻ thù xâm lăng. Mỗi khi đất nước lâm nguy, tinh thần yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc lại được hun đúc, trở thành sức mạnh vô địch để chiến thắng mọi kẻ thù. Lòng yêu nước nồng nàn cũng chính là sợi dây gắn kết mọi tâm hồn Việt từ Bắc chí Nam, từ miền núi đến đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, người Kinh hay đồng bào dân tộc thiểu số, chung sức, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sức mạnh đánh bại kẻ thù. Cách đây 46 năm, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Ðảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, mà trực tiếp là Bộ Tư lệnh Chiến dịch, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3/1975 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế-Ðà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn-Gia Ðịnh. Ðặc biệt, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch quyết chiến chiến lược lịch sử, bằng sức mạnh "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", sau hơn bốn ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã giành thắng lợi vang dội. Sáng 30/4/1975, quân ta mở đợt tiến quân thần tốc vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ giải phóng tung bay trước tòa nhà chính của Dinh Ðộc Lập, kết thúc 21 năm trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất. Độc lập, tự do, thống nhất là quy luật phát triển và tồn tại của dân tộc Việt Nam. Đại thắng mùa Xuân 1975 là kết quả của cả chặng đường dài chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của mọi người Việt Nam yêu nước; của khối đại đoàn kết 54 dân tộc trên toàn cõi Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, phản ánh quy luật phát triển và tồn tại ấy. Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Việt Nam thấu hiểu giá trị của hòa bình và ổn định cho xây dựng và phát triển đất nước. Chúng ta không quên nhưng sẵn sàng gác lại quá khứ để hướng tới tương lai.

BỘ MẶT THẬT CỦA NHÓM TÀ ĐẠO "DƯƠNG VĂN MINH"

     Trong dịp chuẩn bị đón tết nhóm tà đạo "Dương Văn Minh" đã tụ tập họp bàn kế hoạch tổ chức lễ hội xuân Tân Sửu nhưng mụ đích là hội nhóm họp bàn kế hoạch chống phá Đảng, Nhà nước ta, thời gian gần đây số cốt cán của nhóm này đã thu thập chứng cứ vu cáo chính quyền vi phạm tự do tôn giáo, đàn áp người Mông, kêu gọi số cơ hội chính trị ủng hộ, gây sức ép đòi chính quyền cho phép tự do sinh hoạt đạo.

    Đặc biệt là số cốt cán các điểm nhóm tà đạo này chỉ đạo tín đồ không tham gia các hoạt động do chính quyền tổ chức "tẩy chay" bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (kiên quyết không bầu, gạch tên đảng viên) hoạt động này nhằm khuếch trương thanh thế, gây sức ép, đòi chính quyền công nhận tư cách pháp nhân, cho phép tự do hoạt động.

    Một số hoạt động trên đây của nhóm tà đạo "Dương Văn Minh" đã cho chúng ta thấy rõ bộ mặt thật đằng sau cái gọi là tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng. Mong mọi người nhậnm rõ đừng mắc mưu những kẻ đội lốt tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tiếp tay cho các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận những cố gắng của Đảng, Nhà nước ta trong việc thực hiện chủ trương về tự do, tín ngưỡng.

Kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về bầu cử

    Báo Quân đội nhân dân (QĐND) từ ngày 29 đến 31-3 đã đăng vệt bài “Vạch trần chiêu trò đòi “dân chủ” vô nguyên tắc trong bầu cử” ở chuyên mục “Làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”. Sau khi báo đăng, tòa soạn nhận được nhiều ý kiến phản hồi của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH), nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia, cán bộ quân đội và đông đảo bạn đọc. Các ý kiến đều bày tỏ sự đồng tình với những vấn đề đặt ra trong các bài viết và đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục đấu tranh với các mưu đồ, luận điệu sai trái để ngày bầu cử ĐBQH và đại biểu hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 sắp tới thực sự là ngày hội của toàn dân. Trong đó có một số bài viết tiêu biểu như của:
    TS Nghiêm Vũ Khải, nguyên Phó chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa XIV: Dân chủ phải trong khuôn khổ của pháp luật.
    Ông Phan Văn Quý, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thái Bình Dương, đại biểu Quốc hội khóa XIII: Cánh cửa của Quốc hội luôn rộng mở với những người tự ứng cử.
    Đại tá, Ths Hoàng Văn Chức, Phó chính ủy Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội: Nhận diện rõ ý đồ của các phần tử cơ hội, thù địch.
    Ông Nguyễn Văn Tuyên, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Đại Tân Hưng (Hải Dương): Cần xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để xuyên tạc, phá hoại cuộc bầu cử... 
    Các bài viết trên đã đấu tranh mạnh mẽ với các âm mưu, luận điệu sai trái để ngày bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Do đó, nhằm góp phần bảo đảm cho cuộc bầu cử ĐBQH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thành công tốt đẹp thì đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, và nhân dân cả nước phải hết sức cảnh giác, tỉnh táo cũng như chủ động đấu tranh với những chiêu trò phá hoại của các thế lực thù địch cả trước và sau bầu cử, đặc biệt là trên mạng xã hội.

Đột phá trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực tiêu biểu”

    

Đột phá trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực tiêu biểu”
Cán bộ Ban CHQS huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) kiểm tra mô hình học cụ, làm tốt công tác chuẩn bị cho năm huấn luyện 2021.

     Nhờ phát huy nội lực, lựa chọn khâu đột phá, thời gian qua, Ban Chỉ huy quân sự (CHQS) huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) đã triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ, tích cực với nhiều cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực tiêu biểu”. Qua đó, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương và xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện trong tình hình mới.

    Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trên, Đảng ủy Quân sự huyện đã ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Trong đó, trọng tâm là đi sâu khắc phục dứt điểm những khâu yếu, mặt yếu, thực hiện tốt 3 khâu đột phá gồm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu của cấp ủy và cơ quan quân sự các cấp; cải cách hành chính quân sự; nâng cao chất lượng xây dựng nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật và bảo đảm an toàn giao thông”. Cơ quan quân sự huyện đã tập trung quán triệt, triển khai, thực hiện nghiêm túc nghị quyết của các cấp ủy đảng, các chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Quan tâm xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ; hình thức, phương pháp, giáo dục chính trị cho các đối tượng luôn gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu trong thi đua xây dựng đơn vị. Nhờ vậy, đến nay, 100% cán bộ, chiến sĩ đơn vị luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có trường hợp vi phạm kỷ luật phải xử lý. Trong công tác huấn luyện lực lượng thường trực, dân quân tự vệ, dự bị động viên năm 2021, xác định phải tập trung đột phá, phấn đấu đạt kết quả cao hơn năm trước.

Đột phá trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực tiêu biểu”
 Huấn luyện cho lực lượng dân quân các xã, thị trấn tại Ban CHQS huyện Tứ Kỳ (Hải Dương).

    Ngoài ra, Ban CHQS huyện Tứ Kỳ còn đi sâu quán triệt các nghị quyết, mệnh lệnh, chỉ thị huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh Hải Dương, của Tư lệnh Quân khu 3; triển khai hiệu quả diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện, xã sát thực tế. Tập trung đổi mới tác phong quân nhân, lề lối làm việc, nền nếp sinh hoạt theo phương châm “hành động theo điều lệnh, làm việc theo chức trách”; duy trì nghiêm chế độ học tập, công tác, sinh hoạt trong cơ quan. Gắn huấn luyện với xây dựng chính quy, quản lý kỷ luật, đưa công tác quản lý quân số, quản lý trang bị, vật tư tài chính vào nền nếp. Qua kiểm tra đánh giá chất lượng tháng đầu huấn luyện năm 2021 của các lực lượng, 100% đạt yêu cầu, trong đó có 75-78,5% khá, giỏi, đơn vị đạt giỏi, an toàn tuyệt đối. Từ đầu năm đến nay, đơn vị không có cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật, vi phạm an toàn giao thông.

    Với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sự đoàn kết, nỗ lực của tập thể cán bộ, nhân viên, thời gian tới, Ban CHQS huyện Tứ Kỳ phấn đấu vươn lên trở thành đơn vị dẫn đầu Phong trào Thi đua Quyết thắng của lực lượng vũ trang tỉnh Hải Dương. 

Ca Covid-19 ở Hà Nam là ca "siêu lây nhiễm"

 Ca Covid-19 ở Hà Nam không chỉ lây cho 4 người trong gia đình, mà còn lây cho 4 bệnh nhân khác ở Hà Nội, Hồ Chí Minh và Hưng Yên. Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long đánh giá tốc độ lây nhiễm nhanh, mức độ tấn công nhanh nên rất nguy hiểm.Tất cả 4 người trong gia đình gồm: bố đẻ bệnh nhân; mẹ đẻ bệnh nhân; vợ bệnh nhân và con bệnh nhân đều bị lây nhiễm, là các bệnh nhân BN2901, BN2903, BN2908-BN2909. Ngoài ra, BN2899 cũng lây cho một trường hợp F1 ở Đông Anh, Hà Nội. Ca F1 này đã ăn liên hoan cùng BN2899 từ 20 giờ đến 22 giờ tại quán ăn ở thị trấn Vĩnh Trụ, Lý Nhân, Hà Nam. BN2899 cũng đã lây cho 2 mẹ con ở Hưng Yên, khi hai mẹ con này về Hà Nam thăm người nhà, có tiếp xúc với BN2899 - là hàng xóm. Tại TP. Hồ Chí Minh cũng xác định 1 ca F1 với BN ở Hà Nam dương tính với SARS-CoV-2.

Đã có thêm các ca lây nhiễm từ bệnh nhân Covid-19 ở Hà Nam

    Bộ Y tế sáng 30/4 ghi nhận 4 ca dương tính nCoV, trong đó 3 ca ghi nhận trong nước tại Hà Nội, Hưng Yên; một ca nhập cảnh cách ly ngay ở Quảng Trị. 

    Cụ thể: Ca 2911 ghi nhận tại Hà Nội, nam, 28 tuổi, địa chỉ tại xã Việt Hùng, huyện Đông Anh, là F1 của "bệnh nhân 2899". Ngày 22/4, anh đi ăn liên hoan cùng 2899 tại thị trấn Vĩnh Trụ, Lý Nhân, Hà Nam, ngày 29/4 kết quả xét nghiệm dương tính với nCoV. Bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương cơ sở 2.

    Tại Hưng Yên ghi nhận hai ca, là hai bà cháu ở xã Tiên Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, là F1 của ca 2899. Trong đó cháu gái 2 tuổi được ghi nhận là "bệnh nhân 2912", bà nội 58 tuổi là "bệnh nhân 2913". Ngày 29/4, hai bà cháu điều trị tại bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương cơ sở 2.

    Ca 2914 cách ly ngay sau nhập cảnh tại Quảng Trị, nữ, 34 tuổi, địa chỉ tại quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng. Ngày 27/4, cô từ nước ngoài nhập cảnh cửa khẩu Lao Bảo, kết quả xét nghiệm ngày 29/4 dương tính với nCoV. Hiện bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện các bệnh Phổi tỉnh Quảng Trị.

    Như vậy, 24 giờ qua thêm 49 ca nhiễm mới, gồm 9 ca lây nhiễm cộng đồng và 40 ca nhập cảnh được cách ly ngay. Sau hơn một tháng không ghi nhận ca nhiễm mới trong cộng đồng, Việt Nam ghi nhận chuỗi lây nhiễm nội địa mới.

    Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh, trong các ngày lễ người dân hết sức nâng cao cảnh giáo, thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng dịch để bảo đảm an toàn cho bản thân và cộng đồng.

Phát huy tinh thần Chiến thắng 30-4-1975 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới

Cách đây 46 năm, vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ của Quân Giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Chiến thắng 30-4-1975 là bản anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh; là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX do Đảng ta và Bác Hồ lãnh đạo, viết tiếp trang sử hào hùng trong tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Chiến thắng 30-4-1975 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc, khẳng định tầm vóc vĩ đại, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình của cả dân tộc, đánh dấu bước ngoặt quyết định đưa nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, đó là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành đấu tranh giải phóng khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho dân tộc ta nhiều bài học vô giá, có ý nghĩa quan trọng đối với hôm nay và các thế hệ mai sau. Thắng lợi đó là thành quả của nhiều nhân tố, trong đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một nhân tố cơ bản, quan trọng. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Dựa vững trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã đưa ra được những quyết định sáng suốt và chính xác, trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới và trong nước, tương quan lực lượng giữa ta và địch để xác định đúng thời cơ lịch sử, hạ quyết tâm chiến lược mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đánh bại hoàn toàn đội quân của chính quyền Sài Gòn, giành thắng lợi triệt để trong thời gian ngắn nhất. Chiến thắngthể hiện tài thao lược, thông minh, sáng tạo tuyệt vời của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Đường lối, chủ trương của Đảng phản ánh ý chí, khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử để nhân dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng dân tộc, thống nhất non sông. Thắng lợi còn xuất phát từ tinh thần khát khao độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất của toàn thể dân tộc, vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang tầm thời đại; thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ, ý chí “dòng máu Lạc Hồng”, không bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Đồng thời, khẳng định một chân lý: Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một quốc gia đất không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác-xít chân chính có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là đế quốc hùng mạnh nhất. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, song cũng còn không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động: Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định; các nước lớn tiếp tục gia tăng can dự, cạnh tranh ảnh hưởng, với mức độ, quy mô khác nhau ở khu vực; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra, gây mất ổn định ở khu vực và trên thế giới. Các thách thức an ninh phi truyền thống, như an ninh mạng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, ô nhiễm và suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, buôn lậu ma túy, di cư bất hợp pháp, tội phạm xuyên quốc gia,... đang là những thách thức của các quốc gia trên thế giới. Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng chống phá Đảng, Nhà nước ta, thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt... Tình hình nói trên đòi hỏi phải tăng cường đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là vận dụng hiệu quả bài học kinh nghiệm của Chiến thắng 30-4-1975; tận dụng, tranh thủ thời cơ, xây dựng, phát triển đất nước theo hướng hiện đại. Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Tình hình nói trên đòi hỏi phải tăng cường đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là vận dụng hiệu quả bài học kinh nghiệm của Chiến thắng 30-4-1975; tận dụng, tranh thủ thời cơ, xây dựng, phát triển đất nước theo hướng hiện đại. Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Không thể xuyên tạc bản chất chiến thắng lịch sử 30- 4

Kỷ niệm 46 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta bày tỏ tinh thần khoan dung, hòa hiếu của một dân tộc có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, anh hùng chống giặc ngoại xâm, nhưng không cho phép bất cứ ai, với danh nghĩa gì được phép xuyên tạc, bóp méo ý nghĩa lịch sử mà cả dân tộc đã hy sinh bao xương máu mới giành được. Thế nhưng trên một số trang mạng xã hội, những thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, những kẻ tự xưng là “người yêu nước”, “người bất đồng chính kiến” lại tìm cách xuyên tạc, bóp méo giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Có kẻ còn viết về thất bại của Hoa Kỳ rằng: “Đó là sự nhân nhượng của Chính phủ Mỹ” chứ không phải là chiến thắng của Việt Nam; Hoa Kỳ “đưa quân” vào Việt Nam không phải nhằm thống trị Việt Nam mà muốn “đưa Việt Nam về với thế giới tự do”. Thậm chí xuyên tạc thành “Cuộc chiến tranh xâm lược của miền Bắc với miền Nam”! Năm 2017, bộ phim “Chiến tranh Việt Nam” (The Vietnam War) được phát trên kênh truyền hình PBS và đưa lên Internet (có phụ đề tiếng Việt), trong đó, nhóm tác giả đưa nhiều hình ảnh tang thương, chết chóc trong chiến tranh mà bất cứ cuộc chiến tranh nào trên thế giới cũng không thể tránh khỏi, rồi bình luận, đổ tất cả lỗi lầm, những tổn thất về sinh mạng, của cải lên quân dân ta. Một số di tản ở nước ngoài còn nguỵ biện rằng, đó là: “Cuộc chiến tranh Việt Nam mang tính chất ủy nhiệm”; “cuộc chiến tranh mang tính ý thức hệ”,… Những bình luận đó hoàn toàn là những luận điệu xuyên tạc sự thật, đổi trắng thay đen, phủ nhận sự thật lịch sử một cách lố bịch với âm mưu, ý đồ chính trị đen tối. Về bản chất, chiến thắng 30/4 bắt nguồn từ đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, từ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành một chân lý của thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Về mặt lịch sử, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược là sự tiếp nối cuộc Cách mạng tháng Tám, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, ngoài ra không có bất cứ một lý do nào khác.

Cảnh giác với thủ đoạn lợi dụng quyền tự do ngôn luận xuyên tạc bản chất chiến thắng lịch sử 30- 4

Kinh tế - xã hội của Việt Nam đạt nhiều thành tựu. Xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thành lập mới doanh nghiệp cao hơn dự kiến. Khách du lịch đến Việt Nam lên đến 13 triệu lượt, tăng 29,1%. Khu vực nông nghiệp mặc dù chịu tác động nặng nề của thiên tai, bão lũ nhưng vẫn tăng 2,9%, kim ngạch xuất khẩu trên 36 tỷ USD. Với mức tăng trưởng GDP đạt 6,81%, cao nhất kể từ năm 2007, Việt Nam thuộc nhóm nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực và toàn cầu. Hoạt động đối ngoại với điểm nhấn là Năm APEC 2017 đã nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, hình thành 26 khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; có quan hệ kinh tế với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thế nhưng trên một số trang mạng xã hội, những thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, những kẻ tự xưng là “người yêu nước”, “người bất đồng chính kiến” lại tìm cách xuyên tạc, bóp méo giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Có kẻ còn viết về thất bại của Hoa Kỳ rằng: “Đó là sự nhân nhượng của Chính phủ Mỹ” chứ không phải là chiến thắng của Việt Nam; Hoa Kỳ “đưa quân” vào Việt Nam không phải nhằm thống trị Việt Nam mà muốn “đưa Việt Nam về với thế giới tự do”. Thậm chí xuyên tạc thành “Cuộc chiến tranh xâm lược của miền Bắc với miền Nam”! Năm 2017, bộ phim “Chiến tranh Việt Nam” (The Vietnam War) được phát trên kênh truyền hình PBS và đưa lên Internet (có phụ đề tiếng Việt), trong đó, nhóm tác giả đưa nhiều hình ảnh tang thương, chết chóc trong chiến tranh mà bất cứ cuộc chiến tranh nào trên thế giới cũng không thể tránh khỏi, rồi bình luận, đổ tất cả lỗi lầm, những tổn thất về sinh mạng, của cải lên quân dân ta. Một số di tản ở nước ngoài còn nguỵ biện rằng, đó là: “Cuộc chiến tranh Việt Nam mang tính chất ủy nhiệm”; “cuộc chiến tranh mang tính ý thức hệ”,… Những bình luận đó hoàn toàn là những luận điệu xuyên tạc sự thật, đổi trắng thay đen, phủ nhận sự thật lịch sử một cách lố bịch với âm mưu, ý đồ chính trị đen tối. Về bản chất, chiến thắng 30/4 bắt nguồn từ đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, từ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành một chân lý của thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Về mặt lịch sử, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược là sự tiếp nối cuộc Cách mạng tháng Tám, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, ngoài ra không có bất cứ một lý do nào khác. Với Hoa Kỳ, nguyên nhân thất bại của họ bắt nguồn từ giới cầm quyền hiếu chiến thời kỳ đó đã đánh giá sai nội dung của thời đại ngày nay. Đó là thời đại, các dân tộc đã nhận thức được quyền dân tộc tự quyết, về quyền lựa chế độ xã hội, lựa chọn con đường phát triển của mình mà không có bất cứ một thế lực nào có thể cản trở. Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy, cuộc chiến tranh Việt Nam (theo cách gọi của phương Tây) là một cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ khởi xướng, với sự tiếp tay của ngụy quyền Sài Gòn. Trong suốt 21 năm chiến tranh, với quyết tâm chiếm bằng được miền Nam Việt Nam, Mỹ đã thay đổi 5 chiến lược quân sự, huy động tới hơn nửa triệu quân, cùng hàng vạn quân Đồng minh làm xương sống cho hơn 1 triệu quân nguỵ. Trong thời kỳ này, Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần dùng thủ đoạn ngoại giao, hòa hoãn với nhiều nước lớn XHCN để rảnh tay xâm lược Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ đã sử dụng tất cả những vũ khí, kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất, kể cả hàng rào “điện tử”, pháo đài bay B52, vũ khí sinh học, hóa học, hòng đưa Việt Nam trở về “thời kỳ đồ đá”. Trong cuộc chiến tranh này, Hoa Kỳ đã ném xuống Việt Nam 7,8 triệu tấn (gấp hơn 3 lần số bom, đạn Mỹ sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai và gấp 12 lần so với chiến tranh Triều Tiên). Mỹ cũng đã rải xuống miền Nam Việt Nam 85 triệu lít chất độc hóa học điôxin. Hậu quả là hơn một nửa diện tích rừng của Việt Nam đã bị thiêu rụi và đến nay di chứng của chất độc trên con người và đồng ruộng vẫn còn tồn tại. Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ đã mất trên 58.000 binh sỹ (chết và mất tích), tiêu tốn 676 tỷ USD, đưa cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành một trong những cuộc chiến tranh tổn thất nhiều sinh mạng và tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ. Đối với dân tộc ta, để giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh khốc liệt đó, hơn 3 triệu đồng bào, chiến sĩ cả nước đã ngã xuống; hàng ngàn làng mạc, thành phố đã bị san phẳng, đến nay nhiều di chứng chất độc trên đã chuyển sang thế hệ thứ hai, thứ ba. Nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ chí tình, to lớn của nhân dân các nước XHCN, nhất là nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Song chiến thắng của dân tộc ta bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; bắt nguồn từ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc. Thực tế cho thấy hoàn toàn không có chuyện nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước để thực hiện vai trò “ủy nhiệm” của một lực lượng chính trị nào đó, cũng không có chuyện cuộc chiến tranh này “mang tính ý thức hệ”; càng không có chuyện cuộc chiến chống ngoại bang xâm lược là cuộc chiến “nồi da, nấu thịt”. Thất bại của Hoa Kỳ còn bắt nguồn từ đánh giá sai về bản chất chính trị của họ. Họ đã lẫn lộn mục tiêu cuộc đấu tranh bảo vệ giá trị dân tộc ta với vai trò của ý thức hệ. Điều này, chính Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là “kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ viết trong cuốn hồi ký mang tựa đề “Hồi tưởng” xuất bản năm 1995 thừa nhận. Ở phần tổng kết ông đã rút ra/thừa nhận 11 sai lầm mà Mỹ đã vấp phải. Theo ông, đó là những “sai lầm một cách tồi tệ”. Về chính trị, đáng chú ý có những sai lầm sau: “1. Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ là mở rộng làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ; 2. Chúng ta xem xét nhân dân và lãnh đạo của miền Nam Việt Nam chỉ bằng trải nghiệm của chúng ta... Chúng ta đánh giá sai hoàn toàn những lực lượng chính trị trong đất nước đó (có thể Hoa Kỳ đã đánh giá sai uy tín của chính quyền Sài Gòn); 3. Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của tinh thần của một dân tộc có thể huy động và sự hy sinh vì đức tin về giá trị của họ; 8. Chúng ta không chịu thừa nhận rằng, nhân dân lẫn lãnh đạo của chúng ta đều không thông suốt mọi sự… Chúng ta không được Thượng đế ban phát cho quyền được nhào nặn một dân tộc theo hình ảnh của chúng ta hay theo cách mà chúng ta lựa chọn” (“11 sai lầm của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam” Robert McNamara. Dân Trí, 22-4-2005). Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã làm thức tỉnh lương tri của nhân loại. Không ít cựu chiến binh tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã trở lại Việt Nam với những tâm trạng khác nhau. Ông Lawrence Colburn, là xạ thủ trên máy bay trực thăng thuộc Đại đội Charlie (Mỹ), người lính Hoa Kỳ đã cố gắng chống lại cuộc thảm sát 504 thường dân ở Mỹ Lai 16-3-1968. Năm 2008, tức 30 năm sau sự kiện Mỹ Lai, ông được Chính phủ Mỹ trao tặng Huân chương Người lính, phần thưởng cao quý nhất của nước Mỹ cho sự dũng cảm trong các nhiệm vụ không trực tiếp chiến đấu (vì ông đã cố cứu những nạn nhân ở Mỹ Lai). Sau 40 năm, lần này đến Việt Nam ông “gửi lại Bảo tàng Sơn Mỹ Huân chương anh hùng ấy” (“Người lính Mỹ ngăn chặn thảm sát Mỹ Lai qua đời”. Zing.Vn 10:55 18-12-2016). Tất nhiên vẫn còn không ít người lính trong đội quân xâm lược Việt Nam không được thanh thản như Lawrence Colburn, mà giờ đây với sự thức tỉnh lương tri của nhân loại tiến bộ, cũng như lòng ăn năn day dứt của chính họ, cùng với thời gian giúp họ gác lại quá khứ, hướng tới tương lai… Kỷ niệm 43 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta bày tỏ tinh thần khoan dung, hòa hiếu của một dân tộc có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, anh hùng chống giặc ngoại xâm, nhưng không cho phép bất cứ ai, với danh nghĩa gì được phép xuyên tạc, bóp méo ý nghĩa lịch sử mà cả dân tộc đã hy sinh bao xương máu mới giành được.