Thứ Năm, 20 tháng 3, 2025

BIỆN CHỨNG CỦA ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975

 

1. Sau khi ký Hiệp định Pari về Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, cuốn cờ về nước vào ngày 29-3-1973. Thế nhưng, đế quốc Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu, thủ đoạn xâm lược Việt Nam. Họ đã hà hơi tiếp sức cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, biến bè lũ tay sai làm “công cụ phục thù, rửa hận”, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và tiến hành chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam nước ta với chính sách “Dùng người Việt trị người Việt”, sử dụng ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn làm tay sai để biến miền Nam Việt Nam thành “sân sau” của Mỹ. Vì vậy, bằng mọi thủ đoạn dã man như lấn chiếm vùng giải phóng của ta và đánh phá miền Bắc, đế quốc Mỹ muốn đưa Việt Nam trở về “thời kỳ đồ đá”.

Đế quốc Mỹ đã ồ ạt đổ tiền của, vũ khí, trang bị quân sự, phương tiện chiến tranh hiện đại cho ngụy quyền Sài Gòn. Đồng thời, ráo riết bắt lính, tăng lực lượng vũ trang, khống chế nhân dân bằng cách dồn dân lập ấp, cắt đứt các mối quan hệ giữa nhân dân với du kích và bộ đội ta.

Với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo và tầm nhìn chiến lược sâu rộng, Đảng ta đã đánh giá đúng tình hình thế giới, trong nước, chỉ ra những thuận lợi, khó khăn và đánh giá đúng tương quan, so sánh lực lượng giữa ta và địch. Từ đó, xác định đúng đắn mục tiêu của cách mạng và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân phù hợp, nhờ đó quân và dân ta đã chủ động tiến công địch và từng bước giành thắng lợi.

Dấu ấn sâu đậm là thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968; cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1971, 1972 ở miền Nam, thắng lợi của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, đỉnh cao là đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược (chủ yếu bằng máy bay B.52) cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng...

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công, chúng ta càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn, lần lượt đánh bại các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968) và “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) của đế quốc Mỹ; hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với hai giai đoạn chiến lược cơ bản: “Đánh cho Mỹ cút” (năm 1973) và tiến tới “Đánh cho ngụy nhào”, giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân năm 1975.

Trước tình hình thay đổi từng ngày, thế và lực của ta không ngừng lớn mạnh, Đảng ta đã quyết định mở cuộc Tổng tiến công chiến lược từ ngày 4-3-1975, bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sự kiện diễn ra ngày 4-3-1975 đáng ghi nhớ, quân ta đã làm cả nước Mỹ và chế độ ngụy Sài Gòn bàng hoàng, sửng sốt: Ta đã nổ súng tấn công một số đồn địch trọng yếu ở Pleiku để nghi binh, tạo thế cho Chiến dịch Tây Nguyên. Rạng sáng 10-3, ta đánh Buôn Mê Thuột, mở cửa đột phá, khai màn cho cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1975 giành thắng lợi to lớn trên chiến trường Tây Nguyên. Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị họp, kịp thời bổ sung quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

Cùng khoảng thời gian đó, quân và dân ta bắt đầu tiến công ở Trị - Thiên và khu V. Đến ngày 21-3, quân và dân ta phát triển thành chiến lược tiến công Huế - Đà Nẵng và giải phóng Huế ngày 26-3. Với thắng lợi như “chẻ tre” trên chiến trường Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ, ngày 25-3, Bộ Chính trị kịp thời bổ sung chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Đến ngày 29-3, quân và dân ta giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng và 5 tỉnh Bắc Trung Bộ. Đến ngày 3-4, quân và dân ta đã quét sạch quân địch và giải phóng toàn bộ đồng bằng ven biển miền Trung. Ngày 1-4-1975, căn cứ vào sự tiến công dồn dập và thắng lớn của ta trên chiến trường, Bộ Chính trị lại tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, trước mùa mưa, không thể chậm chễ.

2. Biện chứng của chiến trường miền Nam là thu hẹp vùng kiểm soát của địch, đẩy quân địch vào thế phòng ngự bị động, tạo bước ngoặt quan trọng cả về thế và lực đối với chiến tranh cách mạng ở miền Nam. Sau khi xem xét kỹ tình hình chiến trường, kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Chính trị đã thống nhất nhận định: “Lúc này chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này”, cần phải kịp thời nắm lấy, không được để lỡ. Bộ Chính trị nêu quyết tâm chiến lược: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975-1976.

Từ đây, ra quyết tâm đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta. Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976. Trong kế hoạch năm 1975, có dự kiến phương án: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thực tế đã diễn ra đúng như Đảng ta dự kiến.

Tiến trình dẫn đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân và dân ta diễn ra rất mau lẹ, chỉ trong vòng gần hai tháng; khởi đầu từ ngày 4-3 đến ngày 2-5-1975, với tốc độ “một ngày bằng 20 năm”, gồm ba đòn tiến công chiến lược lớn là: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sau thắng lợi quyết định của Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị khẳng định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”, từ đó quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trận quyết chiến chiến lược diễn ra từ ngày 26-4 đến ngày 30-4-1975 đã giành toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm đầy hy sinh, gian khổ, nhưng rất đỗi vẻ vang của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

3. Nhìn lại chặng đường đi đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta càng thêm tự hào và tin yêu Đảng, nhất là nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Quân ủy Trung ương; nó kết tinh bản lĩnh và trí tuệ trong Nghị quyết Trung ương XXI. Đây là văn kiện lịch sử mang dấu ấn sâu sắc với tư cách là cột mốc trực tiếp chỉ đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong thời kỳ kết thúc chiến tranh, thực hiện giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam; là cơ sở lý luận - thực tiễn đặc biệt quan trọng để Hội nghị Quân ủy Trung ương, tháng 3-1974, Đảng đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến công địch, vận dụng linh hoạt trên cả ba vùng chiến lược; góp phần quyết định nhanh chóng và chính xác việc xoay chuyển hẳn tình thế, cục diện chiến trường miền Nam có lợi cho ta.

Đến giữa năm 1974, ta càng đánh, ngày càng mạnh; quân ngụy ra sức chống đỡ và ngày càng suy yếu rõ rệt; còn nước Mỹ thì lâm vào tình cảnh khủng hoảng trầm trọng. Lịch sử còn ghi nhân sự ứng phó mau lẹ, sáng suốt và hiệu quả của Đảng ta vào thời điểm sau năm 1974, khi mà cả Trung Quốc và Liên Xô đều chấm dứt viện trợ cho ta; Liên Xô chưa muốn ta đẩy mạnh ngay chiến tranh giải phóng miền Nam, còn Trung Quốc muốn giữ nguyên hiện trạng để có điều kiện mặc cả với Mỹ. Điều đó đã xuất hiện thêm một số khó khăn mới đối với cách mạng Việt Nam. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã họp nhiều lần, bàn rất kỹ và đã thống nhất quyết tâm chiến lược; sau đó, thông qua kế hoạch giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà Đảng và nhân dân giao phó.

Lịch sử cách mạng Việt Nam và lịch sử thế giới hiện đại ghi nhận sự kiện vĩ đại: Ngày 30-4-1975 là ngày đại thắng mùa Xuân của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng - ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thực hiện đúng lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.

Đó là phép biện chứng sinh động của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài đằng đẵng hơn 21 năm. Trong cuộc chiến tranh chính nghĩa này, cả dân tộc ta, quân và dân ta đã không tiếc máu xương, không sợ hy sinh, gian khổ, đã kiên trì, kiên định, kiên quyết và anh dũng chiến đấu, giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đưa giang sơn gấm vóc về một mối; đưa cả nước bước hẳn vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

4. Kể từ ngày đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến nay đã gần 50 năm, thế giới và đất nước ta đã có biết bao sự đổi thay và biến động. Quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đã đạt được những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử và nó đã bác bỏ mọi quan điểm sai trái, thù địch về đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Tất cả điều đó minh chứng và biểu hiện sinh động nhất về bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam. Biện chứng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước do nhân dân ta tiến hành biểu hiện ở chỗ: Có kiên quyết chiến đấu để giải phóng miền Nam mới bảo vệ được miền Bắc và có bảo vệ vững chắc miền Bắc mới có điều kiện để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối. Nhờ đó, chúng ta mới có điều kiện, tiền đề vững chắc để bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét