Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

 Tư duy mới, cách làm mới

Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 10 BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII (20-9-2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chỉ rõ: Trong các nhóm giải pháp xây dựng Đảng cần tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là "bộ tổng tham mưu", đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ trong điều kiện mới. Tinh gọn bộ máy, tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ không phải việc làm mới. Nhưng điều kiện mới là gì? Giải pháp nào trong điều kiện ấy?

Điều kiện mới xuất hiện trong kỷ nguyên mới. Đất nước ta đã trải qua kỷ nguyên độc lập, kỷ nguyên đổi mới và giờ đây đứng trước thời điểm chuyển sang kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là dòng chảy lịch sử không ngơi nghỉ, kế thừa, phát triển đi lên khi đội ngũ cán bộ, đảng viên biết “đứng trên vai những người khổng lồ" viết tiếp những trang sử vàng của dân tộc. Đó là khi cả dân tộc là một khối thống nhất vươn lên với Đảng tiên phong dẫn dắt bằng nhiều quyết sách quyết liệt, mạnh mẽ, phù hợp với xu thế thời đại biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, biến nguy cơ thành cơ hội. Đó là xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…). Trong đó chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về nền tảng tư duy hướng tới một hình thái tổ chức xã hội mới. Công nghệ là động lực, xã hội số là nền tảng dẫn động và được dẫn đạo bởi sự chuyển đổi của nền tảng từ vốn tài chính (capital) sang vốn dữ liệu (data-capital). Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - phương thức sản xuất số, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo. Dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng. Đồng thời, quan hệ sản xuất có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số. Cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất.

Những điều kiện mới xuất hiện cần có những giải pháp phù hợp. Chẳng hạn, liệu có thể thực hiện thành công cuộc cách chuyển đổi số không nếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành chưa thực sự hiểu sâu sắc về cuộc cách mạng này, chưa nhận thức và hành động đúng vai trò, trách nhiệm của mình trong tiến trình thực hiện trong cấp, ngành mình phụ trách? Nếu trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không có nội dung bắt buộc về cuộc cách mạng này liệu đông đảo cán bộ có thể cập nhật những kiến thức cần thiết để tiến cùng thời đại sử dụng rộng rãi công nghệ mới với trí tuệ nhân tạo kết hợp hài hoà với con người? 

 Điều kiện thay đổi không thể suy nghĩ, hành động theo cách cũ. Vẫn là vấn đề công tác cán bộ - then chốt của then chốt, vẫn là vấn đề tinh gọn tổ chức bộ máy nhưng phải đổi mới tư duy với cách làm mới đáp ứng thực hiện nhiệm vụ mới trong điều kiện mới. Đó là sự đổi mới tư duy và cách làm nhằm đáp ứng yêu cầu do thực tiễn kỷ nguyên mới đặt ra. Đó là, tạo cơ chế chọn lựa người có đủ năng lực để đảm trách vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp thực hiện cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện. Đó là không chỉ có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong nước mà cả ngoài nước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chính lực lượng trí thức, chuyên gia, doanh nhân giỏi người Việt ở nước ngoài có tâm, có tầm làm chủ và đưa công nghệ về Việt Nam làm đòn bẩy giúp đất nước phát triển. Đó là phân cấp, phân quyền mạnh cho địa phương theo phương châm địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm. Trong kỷ nguyên đổi mới, những cải cách bước ngoặt trong kinh tế ở Việt Nam luôn xuất phát từ thực tiễn ở địa phương nhưng đến nay gần như các địa phương trở nên thụ động, không dám đột phá như trước. Vì sao? Phải tháo gỡ từ đâu? Phải chăng chính là từ thể chế - điểm nghẽn của điểm nghẽn và phân cấp, phân quyền để không chỉ người đứng đầu địa phương mà cán bộ lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực đứng trên thực tiễn hoạt động của địa phương, ngành mình tự chủ, tự tin, tự lực, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung.

Kỷ nguyên mới với nhiều vấn đề mới nảy sinh cần những giải pháp đột phá, bước ngoặt. Và, Đảng ta cần có những quyết sách đột phá, bước ngoặt tầm vóc đủ sức đưa đất nước sánh vai các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 Để chủ trương thu hút và trọng dụng nhân tài sớm đi vào cuộc sống

Giảng viên và sinh viên Trường Hóa và Khoa học sự sống, Đại học Bách khoa Hà Nội học tập, nghiên cứu với máy cộng hưởng từ hạt nhân. Ảnh: qdnd.vn

Từ chủ trương…

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đề ra nhiệm vụ phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và trọng dụng nhân tài là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng trong xây dựng chiến lược quốc gia. Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa X xác định rõ: Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng người có đức, có tài; tạo bước chuyển căn bản trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài; xây dựng chiến lược quốc gia về nhân tài; coi đó là giải pháp quan trọng trong thực hiện chiến lược cán bộ. Lựa chọn những người thực sự có đức, có tài giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Ngày 6-8-2008, BCH Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, xác định rõ vai trò của trí thức; xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là đầu tư cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), Đảng ta chủ trương tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, đặc biệt là phải có cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút và trọng dụng nhân tài, phát triển nền kinh tế tri thức. Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa XI khẳng định: Có chính sách trọng dụng trí thức, đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích, sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ…

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta tiếp tục khẳng định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định: Bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ… tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững.

Thể chế hóa các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ nguồn cán bộ trẻ, cán bộ có năng lực, triển vọng phát triển. Điển hình là chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ theo quy định tại Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 5-12-2017 của Chính phủ; quy định về xét tuyển công chức đối với sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ tài năng; chính sách áp dụng đối với người có tài năng trong hoạt động công vụ theo quy định tại Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27-11-2020 của Chính phủ; chính sách về sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định tại Nghị định 40/2014/NĐ-CP ngày 12-5-2014 của Chính phủ…

… Đến triển khai thực hiện

Thực tiễn thời gian qua cho thấy, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc để tạo nguồn cán bộ trẻ, tài năng cho nền công vụ. Khi có văn bản của Trung ương, hầu hết các tỉnh, thành phố đã ban hành văn bản quy định về chính sách thu hút, bố trí và đãi ngộ người có tài năng, cán bộ trẻ có năng lực, trình độ chuyên môn cao về làm việc cho các cơ quan hành chính tại địa phương mình. Trong đó, đề ra các chính sách ưu đãi cụ thể như ưu tiên trong tuyển dụng (bằng hình thức xét tuyển hoặc tiếp nhận không qua thi tuyển); ưu đãi qua việc hỗ trợ một khoản tiền nhất định (trợ cấp ban đầu); trong quá trình công tác được hưởng các chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng; nâng bậc lương đối với những cán bộ có thành tích xuất sắc theo quy định; thường xuyên sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời đến những gương điển hình tiên tiến trong quá trình làm việc. Trong các quy định về trọng dụng, đãi ngộ người có tài năng, có thành tích trong hoạt động công vụ, có địa phương đã thành lập Quỹ ưu đãi, khuyến khích các nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, người có trình độ cao nhằm thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ. Một số địa phương còn hỗ trợ nhà ở, chi phí đi lại cho các chuyên gia, nhà khoa học…

Bên cạnh đó, các địa phương, cơ quan, bộ, ban, ngành thường xuyên tổ chức nhiều phong trào, chương trình, cuộc vận động, cuộc thi, ý tưởng sáng tạo trên nhiều lĩnh vực nhằm tạo sân chơi cho các tài năng trẻ phát huy năng lực của mình. Nhờ đó, việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài đạt nhiều kết quả; đã tập hợp được nhiều tài năng trên các lĩnh vực, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cả nước có 14 cơ quan Trung ương và 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tích cực triển khai thực hiện thí điểm Đề án “Đổi mới cách tuyển chọn, lãnh đạo quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng”. Tiếp đó, có 12 địa phương không thuộc diện triển khai thí điểm cũng đã thực hiện theo chủ trương khuyến khích của Ban Bí thư. Một số bộ, ngành, địa phương đã cụ thể hóa các cơ chế, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương, cơ quan và thực hiện hiệu quả nhiều chính sách thu hút nhân tài.

Đến nay, sau 5 năm triển khai thực hiện Đề án thí điểm tại 32 cơ quan, địa phương được chọn, có 12 cơ quan Trung ương đã tổ chức thi tuyển 70 vị trí (gồm 58 vị trí cấp vụ; 12 vị trí cấp phòng); 20 địa phương đã tổ chức thi tuyển 1.124 vị trí (gồm 66 vị trí cấp sở; 1.058 vị trí cấp phòng).

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đat được, công tác khuyến khích, trọng dụng nhân tài, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ còn một số hạn chế nhất định. Nhìn chung, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ có năng lực nổi trội còn hạn chế, chưa thể tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ. Cụ thể, hiện chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá, nhận diện cán bộ có năng lực nổi trội; tư tưởng hẹp hòi, đố kỵ vẫn còn tồn tại ở một số cán bộ lãnh đạo, quản lý; nhận thức về các chính sách, phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài ở nhiều bộ, ngành, địa phương chưa thực sự sâu sắc, toàn diện; việc triển khai các chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài một số nơi chưa đồng bộ và có hệ thống…

Một số giải pháp

Để thực hiện có hiệu quả chủ trương về thu hút và trọng dụng nhân tài của Đảng và Nhà nước, thời gian tới các bộ, ban, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, cấp ủy, chính quyền các cấp nên chăng quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, thường xuyên quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách khuyến khích, thu hút và trọng dụng nhân tài, nhất là cán bộ trẻ có năng lực, triển vọng; về công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ trẻ tài năng. Trong đó, cần nắm vững và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ uy tín, năng lực ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

Hai là, nâng cao nhận thức, phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ, trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền. Người đứng đầu, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải là những người có năng lực, trình độ thực sự, khi đó mới có khả năng nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan đối với cán bộ có tài năng, triển vọng. Người đứng đầu, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị phải đổi mới tư duy, nhận thức trong thực hiện chính sách đối với cán bộ có năng lực nổi trội, cán bộ trẻ; chỉ đạo làm tốt các khâu trong công tác cán bộ; khắc phục những yếu kém, hạn chế trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cho nền công vụ; thể chế hóa chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám đương đầu với khó khăn, thử thách vì lợi ích chung theo Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị; xây dựng và hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí đối với cán bộ có năng lực nổi trội, có bản lĩnh và cán bộ trẻ tài năng, sinh viên ưu tú; hoàn thiện quy trình, phương pháp nhằm phát hiện, lựa chọn, trọng dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ có năng lực vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp; ban hành chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút nhân tài…

Bốn là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ năng động, sáng tạo có năng lực, phẩm chất và uy tín vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Đánh giá và rà soát nhu cầu nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trẻ để xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp đối với người có tài năng, có thành tích nổi trội; tạo điều kiện thuận lợi để họ được tham gia đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng phù hợp với năng lực, sở trường công tác. Xây dựng chương trình, tuyển chọn và thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ trẻ được bổ nhiệm ở những vị trí lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục xây dựng môi trường, điều kiện làm việc phù hợp, hiệu quả nhằm thu hút, tạo động lực đối với nhân tài, cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội, cán bộ trẻ có tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện cho nhân tài làm việc trong các cơ quan, đơn vị được tham gia học tập, giao lưu với các chuyên gia, nhà khoa học để cập nhật tri thức mới, hướng phát triển mới, đóng góp cho sự phát triển chung của cơ quan, đơn vị và sự phát triển của đất nước.

Năm là, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài; việc đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ tài năng, cán bộ trẻ làm cán bộ lãnh đạo, quản lý. Từ đó, nhân rộng các điển hình tiên tiến, đồng thời ngăn ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm trong triển khai thực hiện chính sách phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài của Đảng, Nhà nước. Mỗi cơ quan, đơn vị có chức năng, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra phù hợp nhằm đánh giá đúng việc thực hiện chính sách, chế độ đãi ngộ với cán bộ. Công tác này cần phải được làm thường xuyên, liên tục, đánh giá một cách khách quan, công khai để các cơ quan, đơn vị, cá nhân nhận thức được kết quả trong công tác, từ đó có những biện pháp khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm.

Sáu là, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ, công chức tham mưu xây dựng, thực hiện chính sách. Đội ngũ này phải là những người có chuyên môn giỏi, có kiến thức thực tiễn sâu rộng, kinh nghiệm giải quyết tình huống, phải có kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng hướng dẫn, kỹ năng thuyết phục, tổng hợp, lấy ý kiến, kỹ năng phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm… Chú trọng và thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành để bảo đảm tính khả thi, toàn diện, đồng bộ và hiệu quả.

Tây Nguyên khắc ghi lời Bác Hồ dạy, vững bước vào kỷ nguyên mới
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum, tháng 8-2023. Ảnh: TL

Thủy chung, son sắt thực hiện lời Bác Hồ dạy

Trong bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam họp tại Pleiku, ngày 19-4-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “… Ðồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Ðê, Xơ Ðăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Vậy nên, tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta… Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt…”(1).

Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tầm vóc, tư duy nhìn xa, sâu rộng của Bác về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, công tác dân tộc của Đảng ta. Bức thư ngắn gọn, lời thư mộc mạc, gần gũi, dễ hiểu nhưng chứa đựng vô vàn tình yêu thương, tình đoàn kết dân tộc, là ngọn đuốc soi đường làm nên sức mạnh lòng dân trong suốt gần 80 năm qua. Người bày tỏ tình cảm tha thiết đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vạch ra những quan điểm rất mới, rất cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc thiểu số; những nguyên tắc để củng cố và phát triển mối quan hệ anh em ruột thịt giữa các dân tộc và trách nhiệm của các dân tộc đối với đất nước, với Chính phủ, nhất là vào thời điểm Tổ quốc bị lâm nguy.

Thực hiện lời dạy của Người, ngay sau Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, các đại biểu nhanh chóng trở về các buôn, làng, vận động quần chúng, tổ chức các lễ hội cộng đồng, ăn thề theo phong tục, bày tỏ niềm tin tuyệt đối, thủy chung, son sắt của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ; quyết tâm thực hiện đoàn kết các dân tộc, đoàn kết giữa người Kinh và người Thượng, sát cánh cùng nhau chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù đói cơm, lạt muối, ăn lá, măng rừng vô cùng gian khổ nhưng hàng vạn đồng bào các dân tộc Tây Nguyên hăng hái gia nhập Quân đội cách mạng, tham gia du kích, xây dựng làng kháng chiến hoặc xung phong ra chiến trường, cầm súng bảo vệ buôn, làng.

Trong hai cuộc kháng chiến, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên phát huy truyền thống đoàn kết, kiên cường, bất khuất, kề vai, sát cánh, anh dũng cầm súng chiến đấu chống giặc, lập nên những chiến công vang dội, cống hiến cho đất nước những người con ưu tú, xả thân vì Tổ quốc và vun đắp cho mối tình đoàn kết, keo sơn giữa các dân tộc. Tiêu biểu như các anh hùng: Đinh Núp (dân tộc Ba Na), Kpă Klơng, Kpă Ó (dân tộc Gia Rai), Y Buông, A Tranh (dân tộc Xơ Đăng), A Mét (dân tộc Giẻ Triêng), N’Trang Lơng (dân tộc M’Nông) hoặc các vị cách mạng tiền bối tiêu biểu như: Y Ngông Niê Kđăm, Y Bih Alêô (dân tộc Ê Đê), Nay Đer (dân tộc Gia Rai), Bi Năng Tắc (dân tộc Ra Glai), Điểu Ong (dân tộc Xtiêng)… Cùng với đó, hàng vạn đồng bào, chiến sĩ trên mọi miền đất nước đã ngã xuống trên mảnh đất Tây Nguyên để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Ngày 30-11-1968, trong Điện gửi đồng bào, chiến sĩ Tây Nguyên, Bác Hồ khen ngợi: “Quân và dân Tây Nguyên, già, trẻ, gái, trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua giết giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người căn dặn: “Ðồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến”(2).

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, trong mọi giai đoạn của cách mạng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên luôn phấn đấu kiên cường, bền bỉ, kề vai sát cánh, đấu tranh cho độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, làm nên những kỳ tích anh hùng, hiển hách, làm cho Tây Nguyên có cuộc sống bình yên và ngày càng tươi đẹp. Điều đó được khẳng định trong phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn tại cuộc mít-tinh lớn ở Tây Nguyên ngày 11-4-1978, tổ chức tại TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk: “Khi còn sống, Bác Hồ vô cùng nhớ Tây Nguyên. Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và Nhân dân cả nước đánh giá cao sự hy sinh vô bờ bến và lòng dũng cảm tuyệt vời của đồng bào Tây Nguyên. Tổ quốc ta, Nhân dân ta và các thế hệ mai sau đời đời nhớ ơn các liệt sỹ từ mọi miền đất nước đã ngã xuống trên chiến trường Tây Nguyên, mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã cùng cả nước viết nên những trang sử chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam”(3).

Đi lên cùng cả nước

Sau ngày đất nước thống nhất, tiếp tục thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước có sự đầu tư lớn cả về sức người, sức của; sự chia sẻ, hỗ trợ kịp thời của đồng bào cả nước, tập trung khai thác vùng đất giàu truyền thống cách mạng; giàu tiềm năng, thế mạnh, đầu tư xây dựng để Tây Nguyên phát triển, vững bước đi lên cùng cả nước.

Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI (2001-2005), mặc dù các thế lực thù địch liên tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, gây ra 2 cuộc biểu tình, bạo loạn (tháng 2-2001 và tháng 4-2004), hòng làm cho Tây Nguyên khó khăn, bất ổn. Nhưng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-1-2002 của Bộ Chính trị “về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên”, tình hình kinh tế - xã hội khu vực Tây Nguyên tiếp tục ổn định và phát triển. Cuộc sống của đồng bào chuyển biến tích cực, không còn tình trạng thiếu đói, ốm đau, bệnh tật không có thuốc chữa như trước, từng bước hạn chế du canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy... Hàng nghìn buôn, làng “thay da đổi thịt”; đời sống tinh thần, bản sắc văn hóa ngày càng phong phú, diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc.

Khắc ghi và thực hiện lời dạy của Bác Hồ, tại nhiều buôn, làng ở Tây Nguyên cứ vào mỗi sáng thứ hai hằng tuần, bất kể ngày nắng cũng như ngày mưa, không ai bảo ai, bà con lại tập trung ở nhà rông để chào cờ với ảnh Bác Hồ được đặt ở nơi trang nghiêm nhất. Với đồng bào, đi chào cờ là để thể hiện lòng yêu Tổ quốc và sự kính yêu đối với Bác Hồ. Sau mỗi buổi chào cờ, mọi người có dịp trao đổi về những điều hay, lẽ phải, kinh nghiệm làm ăn. Cũng nhờ vậy, đời sống của bà con được cải thiện, nhiều gia đình có của ăn, của để. Một người con dân tộc Gia Rai là bà Hơ Duyên, Trưởng Đoàn Nghệ nhân huyện Đắk Pơ, tỉnh Gia Lai luôn ghi nhớ lời Bác Hồ dạy đồng bào là phải đoàn kết, phải chăm lo lao động, sản xuất để có cái ăn, cái mặc, bảo đảm cuộc sống, sinh hoạt của người dân; ngoài sự đoàn kết, gắn bó trong buôn, làng, phải biết đoàn kết với các dân tộc anh em trong đất nước mình.

Sau 22 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-1-2002 của Bộ Chính trị, Tây Nguyên đã có sự phát triển ngoạn mục. Tăng trưởng bình quân của vùng Tây Nguyên đạt 6,55%/năm; tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người năm 2020 đạt 55,6 triệu đồng, gấp 1,4 lần so với năm 2016. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng - dịch vụ. Tỷ trọng các ngành nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ, thuế trợ cấp sản phẩm năm 2020 tương ứng là: 33,51%, 21%, 40,83% và 14,66% (4).

Năm 2023, năm đầu thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6-10-2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, khu vực Tây Nguyên có bước phát triển mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng của các tỉnh trong khu vực đạt từ 7,6% đến trên 12%, cao hơn bình quân chung của cả nước.

Có thể nhận thấy, vấn đề cấp bách của Tây Nguyên là giao thông. Vì vậy, trong nhiều năm qua, Nhà nước huy động mọi nguồn lực nhằm phát triển mạng lưới giao thông khu vực. Hiện nay, đường bộ toàn vùng có độ dài gần 40.000km đã kết nối các tỉnh Tây Nguyên, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn cả nước và các nước trong khu vực. Trong đó, các quốc lộ qua Tây Nguyên có tổng chiều dài 2.517km; đường liên tỉnh gần 2.035km và hệ thống giao thông liên cửa khẩu đã nối Tây Nguyên với Căm-pu-chia và Lào, qua các cửa khẩu quốc tế: Đắk Ruê (Đắk Lắk), Lệ Thanh (Gia Lai), Bờ Y (Kon Tum). Đường Hồ Chí Minh đi qua các tỉnh Tây Nguyên làm thay đổi diện mạo những buôn, làng trước đây là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được kết nối thuận tiện, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân.

Vận hội để bứt phá, phát triển bền vững, xứng tầm

Tây Nguyên có diện tích tự nhiên trên 54.600km2, chiếm 1/6 diện tích cả nước, gồm 5 tỉnh: Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng với dân số hiện nay gần 6 triệu người, trong đó trên 2,2 triệu là đồng bào các dân tộc thiểu số; có đường biên giới dài trên 600km giáp với Lào và Căm-pu-chia; có vị trí địa lý, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái đa dạng, với rừng đại ngàn có tổng diện tích hơn 2,5 triệu héc-ta, chiếm 17,5% diện tích rừng cả nước, được xem như là “mái nhà” của Đông Dương, có chức năng phòng hộ, đồng thời là địa bàn chiến lược phòng thủ quan trọng. Đây cũng là nơi có đông thành phần dân tộc nhất nước ta và là nơi duy nhất có đủ các nhóm ngôn ngữ - dân tộc của Việt Nam.

Để đạt mục tiêu xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng - an ninh, giàu bản sắc văn hóa, tiến tới trở thành vùng kinh tế động lực của cả nước, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tập trung phát triển kinh tế, trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa.

 Đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại; phát huy vai trò của các nông, lâm trường, các doanh nghiệp nhà nước để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Phát triển toàn diện nông thôn, đưa nông thôn Tây Nguyên ra khỏi tình trạng lạc hậu, xây dựng vững chắc mô hình: “Buôn, làng no đủ, an toàn, vững mạnh”. Từng bước tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm, ngư nghiệp trong GDP nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế là nhiệm vụ hàng đầu, có tính chiến lược trước mắt và lâu dài đối với phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên.

Thứ hai, đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo.

Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền để đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục - đào tạo đối với công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao tri thức, chất lượng cuộc sống. Đồng thời, tập trung đầu tư nguồn lực kiên cố hóa, chuẩn hóa cơ sở vật chất trường, lớp ở tất cả các cấp học, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhà giáo phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục. Nâng số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên là người dân tộc thiểu số ở các cấp quản lý giáo dục và trong các cơ sở giáo dục; làm tốt công tác cử tuyển; gắn đào tạo với sử dụng, bảo đảm đúng số lượng, cơ cấu, ngành, nghề, trình độ, chức danh theo địa chỉ, yêu cầu công tác.

Thứ ba, bảo đảm an sinh xã hội; giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa.

Tập trung cải thiện, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ. Thực hiện có hiệu quả, thực chất chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nhất là chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, đất ở; đồng bào được dùng nước sạch, được chăm sóc sức khỏe ban đầu; khống chế và tiến tới loại trừ các dịch bệnh thường gặp như: sốt rét, lao, bướu cổ và thanh toán bệnh bại liệt trẻ em. Phát triển các tổ chức và xây dựng công trình khoa học, phục vụ công tác nghiên cứu, giữ gìn bản sắc, bảo tồn các di sản văn hóa đặc trưng, đặc hữu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; xóa bỏ các hủ tục mê tín, lạc hậu, xây dựng đời sống văn hóa tại các buôn, làng.

Thứ tư, tăng cường quốc phòng - an ninh; xây dựng, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”.

Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược này. Trong đó, chú trọng giải quyết các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh; giữa đấu tranh bảo vệ chủ quyền với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc, chú trọng các địa bàn trọng điểm, kiên quyết không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự; giữ vững sự bình yên của buôn, làng.

Thứ năm, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.

Tiếp tục xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở thực sự vững mạnh, gần dân, sát dân, hoạt động ngày càng chất lượng, hiệu quả, động viên được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong phát triển sản xuất, xây dựng buôn, làng, chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh từ cơ sở. Từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức; phấn đấu xóa triệt để tình trạng buôn, làng “trắng” đảng viên và “trắng” tổ chức đảng, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tập trung phát triển, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự là hạt nhân đoàn kết, lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, tạo nền tảng vững chắc cho ổn định và phát triển.

Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên giữ trọn niềm tin son sắt với Đảng và Bác Hồ kính yêu; một lòng, một dạ đoàn kết bên nhau, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm phấn đấu thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo với khu vực miền xuôi, làm cho buôn, làng ngày càng giàu đẹp, cùng cả nước vững bước vào kỷ nguyên mới.

-----

(1) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, NXB Sự thật, H.1958, tập 1, tr.85-86. (2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG Sự thật, H.2000, tập 12, tr.414-415. (3) Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, NXB CTQG Sự thật, H.2006, tr.30. (4) Tạp chí điện tử Kinh tế và Dự báo (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), ngày 27-8-2020.

 

 Doanh nhân Việt kiều Peter Hong: Tôi đau đáu ước nguyện đem các nguồn lực về đầu tư xây dựng quê hương

Doanh nhân Peter Hong.

Phóng viên (PV): Xin chào doanh nhân Peter Hong! Ông có thể chia sẻ về hành trình khởi nghiệp nơi xứ người của mình với bạn đọc Tạp chí Xây dựng Đảng?

Ông Peter Hong: Đây là một câu hỏi mang lại cho tôi nhiều cảm xúc. Quay thời gian trở về năm 1979, khi lần đầu tiên tôi rời TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để đặt chân tới nước Úc định cư. Hoàn cảnh lúc bấy giờ còn rất nhiều khó khăn, tôi phải tự tìm cách khắc phục từ những thứ thiết yếu nhất. Lúc đó, tôi xác định có ba việc ưu tiên hàng đầu là học tiếng, chỗ ở và việc làm.

Tuy nhiên, xét ra so với các bạn học đồng trang lứa thời điểm đó ở Việt Nam, họ cầm súng ra chiến trường, chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc và tây - nam thì tôi thuận lợi hơn rất nhiều vì được đi học đại học. Chính cơ hội đó đã mở ra cho tôi một quyết tâm và khát khao nỗ lực học tập để quay về đóng góp cho quê hương.

PV: Vậy ý định về việc kết nối các doanh nhân Việt kiều góp sức xây dựng quê hương Việt Nam nhen nhóm lên từ khi nào, thưa ông?

Ông Peter Hong: Tôi đã từng gặp gỡ, trao đổi với nhiều doanh nhân Việt kiều có tên tuổi ở những nước họ đang sinh sống và họ đều có chung một mong ước là sẽ mở rộng đầu tư về Việt Nam.

Tôi cũng như bao kiều bào Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài khác đều có mong ước mình sẽ làm được điều gì đó cho quê hương và đất nước. Bởi quê hương, đất nước đối với chúng tôi luôn là một điều rất thiêng liêng trong trái tim. Do đó, năm 1992 tôi đã về Việt Nam và bắt đầu tham gia các dự án của Chính phủ Úc đầu tư tại Việt Nam.

Trong thời gian qua, các doanh nhân, kiều bào ở nước ngoài cảm thấy ngày càng được quan tâm, ưu tiên, tạo điều kiện, được coi như một người Việt Nam sinh sống, làm việc và đầu tư ở trong nước và là một bộ phận không thể tách rời trong vận mệnh của dân tộc, trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

PV: Với một trái tim luôn đau đáu hướng về quê hương, ông muốn hình ảnh đất nước, con người Việt Nam được hiện lên như thế nào trên bản đồ thế giới?

Ông Peter Hong: Với tôi, khi mới rời xa quê hương, hình ảnh Việt Nam hiện lên còn rất nhiều khó khăn khi vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc và bắt đầu công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước. Ngay tại thời điểm đó, chúng ta có rất nhiều việc phải làm, tuy nhiên suy nghĩ thường trực trong tôi luôn là niềm đau đáu về việc làm thế nào để hình ảnh của Việt Nam ta trở nên tốt đẹp hơn trong mắt bạn bè quốc tế, làm thế nào để Việt Nam thời điểm đó có thể tham gia Liên hiệp quốc, làm thế nào để trong tương lai đất nước ta trù phú, xuất khẩu các loại hàng hóa, người dân được cơm no, áo ấm, hưởng cuộc sống hạnh phúc, xã hội phát triển.

PV: Vậy ông nhìn nhận như thế nào về đất nước ta sau gần 40 năm Đổi mới?

Ông Peter Hong: Nhờ có chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã vươn lên từ một nước nghèo trở thành một quốc gia đang phát triển, trong nhóm 40 nước có nền kinh tế phát triển của thế giới.

FDI trong vòng 30 năm qua đều ghi nhận được những con số kỷ lục. Chúng ta đã bứt tốc để về đích việc hoàn thành thu hút FDI trong năm 2024 là 40 tỷ đô-la Mỹ, mức độ giải ngân khoảng 230 tỷ đô-la Mỹ. Đây là một trong “cú hích” tăng trưởng đối với nền kinh tế của Việt Nam.

Có thể nhận định trong suốt những năm qua, Việt Nam có một thể chế chính trị vững chắc, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt của Đảng, Chính phủ với những quyết sách đồng bộ từ trên xuống dưới. Nước ta lại đang bước vào thời điểm dân số vàng với đội ngũ người lao động có năng lực và trình độ ngày càng cao. Việt Nam cũng đang có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, từ khi tham gia Liên hiệp quốc. Kiều bào ta đang định cư ở hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ… Đó là những thay đổi thần kỳ, đồng thời là tiềm năng mà chúng ta có thể tập trung khai thác trong vận hội vươn mình của đất nước.

PV: Được biết trong hơn 30 năm qua, ông đã miệt mài không ngưng nghỉ với vai trò làm cầu nối hỗ trợ các doanh nghiệp Việt kiều đầu tư về Việt Nam, ông có thể chia sẻ về quá trình này?

Ông Peter Hong: Như tôi đã chia sẻ, tôi rất đau đáu ước nguyện đem các nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư xây dựng quê hương, đất nước. Là người Việt Nam ở nước ngoài, tôi rất tự hào về vị thế của đất nước trên trường quốc tế trong những năm qua. Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển rất nhanh của đất nước, tôi nhận thấy cơ chế hoạt động giữa Trung ương và địa phương còn rất nhiều khó khăn. Mặc dù đứng ra làm cầu nối mời doanh nghiệp nước ngoài về đầu tư tại Việt Nam, tôi thấy vẫn còn nhiều trở ngại về mặt thể chế và chính sách khiến kiều bào đôi lúc chưa hiểu rõ hay các tỉnh, thành phố chưa nắm được hết… Đó cũng chính là mục tiêu, chiến lược mà Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài (BAOOV) được thành lập.

Từ năm 2009 đến nay, BAOOV đã trải qua 3 nhiệm kỳ, đang ở nhiệm kỳ 4. Tôi tham gia từ khóa 3 với cương vị Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký, giờ là khóa 4 với cương vị Chủ tịch.

Năm 2019, khi tôi mới được bầu làm Phó Chủ tịch Thường trực, Tổng Thư ký của Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, danh sách thành viên của Hiệp hội chỉ có tại 12 hay 13 quốc gia, vùng lãnh thổ. Hiện tại, Hiệp hội đã dần lớn mạnh, có chi hội tại 40 quốc gia, vùng lãnh thổ.

PV: Với vai trò hiện nay là Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, theo ông sứ mệnh Hiệp hội đã, đang và sẽ tiếp nối là gì?

Ông Peter Hong: Tôi thấy sứ mệnh của BAOOV là làm sao đoàn kết để đưa hội viên ở các quốc gia trên thế giới kết nối giao thương với nhau, đưa được chủ trương của Đảng và Nhà nước tới kiều bào, để kiều bào hiểu được đất nước đang mở cửa và có nhiều tiềm năng để về đầu tư. Tôi muốn các kiều bào trên thế giới đoàn kết lại để phục vụ cho quê hương, đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.

PV: Để hiện thực hóa mục tiêu và sứ mệnh của mình, Hiệp hội trong nhiều năm qua đã thực hiện những chiến lược phát triển như thế nào, thưa ông?

Ông Peter Hong: Trong những năm qua, Hiệp hội và Hội Doanh nhân Việt Nam ở các nước đã tổ chức, tham gia các hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại do Bộ Công thương, Bộ Ngoại giao, Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn và các tỉnh, thành phố tổ chức, với nhiều quy mô và đạt hiệu quả thiết thực, thu hút hàng trăm lượt các doanh nghiệp kiều bào và doanh nghiệp trong nước tham gia, đã có nhiều bản ghi nhớ hợp tác có giá trị được ký kết.

Hiệp hội đã tham gia vào nhiều diễn đàn, hội nghị xúc tiến đầu tư, hội nghị, hội thảo. Hiệp hội đã triển khai hiệu quả hàng trăm hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại. Đồng thời, đã chủ động hợp tác thành lập, phát triển 7 trung tâm xúc tiến và trưng bày hàng Việt Nam tại nước ngoài tại Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Lào, Nga, Úc và Trung Quốc; vận động kiều bào, cộng đồng doanh nghiệp kiều bào gửi kiều hối về đầu tư, xây dựng quê hương.

PV: Xin ông chia sẻ thêm về một trong những điểm nhấn trong nhiệm kỳ qua của Hiệp hội mà ông cho rằng nổi bật nhất?

Ông Peter Hong: Thời gian qua, Hiệp hội đã tư vấn cho Chính phủ Đề án “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, xuất khẩu hàng Việt Nam chất lượng cao ra nước ngoài, thông qua kiều bào”. Đây có thể nói là một kênh giới thiệu sản phẩm của ta ra nước ngoài rất hiệu quả. Để làm được điều này, chúng tôi đã tổ chức rất nhiều hội thảo, các chương trình xúc tiến đầu tư tại nhiều nước trên thế giới, mời lãnh đạo các tỉnh, thành phố tham gia… Qua đó, chúng tôi có nhiều cơ hội để giới thiệu doanh nhân Việt kiều và doanh nhân trong nước về các sản phẩm hàng hóa nội địa Việt Nam. Trong tương lai, chúng tôi sẽ hướng tới tổ chức nhiều chương trình xúc tiến hơn nữa, có thể là hằng tháng với nhiều chủ đề giới thiệu về thị trường ở mỗi quốc gia, giới thiệu hàng Việt Nam tại các quốc gia đó, đưa hàng Việt Nam ra nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

PV: Hiện nay, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, theo ông Việt Nam cần tập trung ưu tiên phát triển lĩnh vực gì đưa dân tộc bước sang một cột mốc phát triển mới?

Ông Peter Hong: Thời gian qua, những quyết sách thể hiện tầm nhìn tương lai và quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Chính phủ Việt Nam nhằm đưa Việt Nam bứt phá bằng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên mới đã được thể hiện rõ nét. Đặc biệt là việc Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tôi coi đây là hướng đi chiến lược rất đúng đắn, thể hiện Đảng và Nhà nước đã có sự nhìn nhận, chuẩn bị rất tốt để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

PV: Vậy theo ông, chúng ta nên lựa chọn những mũi nhọn chiến lược nào để đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số?

Ông Peter Hong: Chúng ta đang đứng trước sự thay đổi như vũ bão của khoa học - công nghệ. Để đi tắt đón đầu, theo tôi chúng ta nên tập trung vào những ngành khoa học, công nghệ cao như chip, bán dẫn, AI… Bản thân các hội thành viên của Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài cũng có những hoạt động hỗ trợ đào tạo và hợp tác công nghệ cao, đặc biệt là công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam.

Hiện số lượng hội viên trẻ tuổi (độ tuổi từ 30 đến 45) trong Hiệp hội rất đông đảo, chiếm 61%. Thế mạnh của thế hệ doanh nhân Việt kiều trẻ chính là năng lực khai thác, đầu tư các ngành công nghệ cao và mới nổi như fintech, blockchain, sử dụng công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI) trong các hoạt động. Hiện cũng có khoảng 50.000 người Việt làm trong lĩnh vực công nghệ, trong đó có một số lượng đáng kể làm về vi mạch bán dẫn. Tại các công ty trên thế giới, người Việt tham gia vào tất cả các khâu trong chuỗi sản xuất bán dẫn từ nghiên cứu thiết kế chip tới nghiên cứu vật liệu bán dẫn. Trong vài năm gần đây, nhiều kỹ sư Việt Nam đã từ nước ngoài trở về làm việc cho các công ty FDI trong lĩnh vực bán dẫn tại Việt Nam.

PV: Vậy ông nhìn nhận ra sao về câu chuyện Chính phủ Việt Nam đã ký kết thỏa thuận hợp tác với Tập đoàn Công nghệ hàng đầu thế giới NVIDIA?

Ông Peter Hong: Phải nói một cách thẳng thắn rằng, NVIDIA là một tập đoàn toàn cầu và khi họ chọn một đất nước để đầu tư, đó là câu chuyện của hàng chục năm. Nó giống như việc con chim đại bàng khi muốn đẻ trứng thì phải nghĩ đến sự an toàn của con cái sau này. Do vậy, có thể nói việc NVIDIA lựa chọn Việt Nam để đầu tư chiến lược lâu dài đang chứng minh đất nước ta đang là một điểm đến đầy sức hút về đổi mới khoa học - công nghệ đối với các tập đoàn hàng đầu của thế giới.

Hiệp hội cũng đã thành lập Ủy ban Chip bán dẫn Đài Loan - Nhật Bản - Việt Nam, việc được hợp tác với NVIDIA cũng mở ra nhiều cánh cửa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam, cũng như trên thế giới. Chúng tôi cũng xác định chip bán dẫn là một trong những lối đi chiến lược để phát triển đất nước. Đây là một trong những ngành nghề thế giới đang rất trọng dụng, mở ra một tương lai rộng mở cho đất nước ta.

PV: Trong tương lai, ông còn dự định gì vẫn đang ấp ủ?

Ông Peter Hong: Thời gian qua, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, trong đó có Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước; sự hỗ trợ tích cực của Ủy ban Nhà nước Về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao, các bộ, ban, ngành, địa phương... Chúng tôi luôn muốn mình trở thành nhịp cầu nối gắn kết để đem nhiều nguồn lực hơn cống hiến cho quê hương.

Tôi mong muốn từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần có thêm nhiều bằng sáng chế để đất nước phát triển. Bởi, hiện nay rất nhiều công trình, bằng sáng chế chưa được ứng dụng triệt để, đặc biệt liên quan đến các lĩnh vực như: môi trường, năng lượng, sinh học… Hy vọng rằng, Đảng và Nhà nước sẽ có cơ chế mới cho phép kiều bào được đăng ký, cống hiến sáng chế của mình cho đất nước.

Ngoài các hoạt động kết nối trong lĩnh vực kinh doanh - đầu tư, tôi cũng rất coi trọng vấn đề giáo dục và đào tạo cho thế hệ trẻ Việt Nam. Do đó, tới đây sẽ có nhiều dự án hơn đầu tư cho phát triển giáo dục tại Việt Nam. Tôi luôn mong muốn các bạn trẻ Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tiếp cận với những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, giúp trau dồi, phát triển bản thân để cùng nhau xây dựng một Việt Nam hiện đại, văn minh và giàu đẹp hơn.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!