Thứ Năm, 6 tháng 8, 2020

Thi đua ái quốc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thi đua ái quốc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau: Làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều…”. Năm 1948, trong bối cảnh cam go, quyết liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để khích lệ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27/3/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc, trong đó xác định “Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết chóng thành công”.

Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, phát động phong trào thi đua yêu nước trên toàn quốc và chỉ rõ: “Bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau: Làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều… Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối cùng”.

Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi như lời hiệu triệu, thôi thúc đồng bào và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, phát huy ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, ra sức thi đua, đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Từ đây, phong trào thi đua yêu nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, phát động và tổ chức thực hiện ngày càng phát triển, gắn liền với lịch sử và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày 11 tháng 6 hằng năm, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc trở thành ngày truyền thống thi đua yêu nước ở nước ta.

Tiếp tục phát huy vai trò to lớn của phong trào thi đua yêu nước, sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, tư tưởng thi đua yêu nước Hồ Chí Minh ngày càng được vận dụng sáng tạo, linh hoạt với nội dung cụ thể, thiết thực, hình thức phong phú trên mọi lĩnh vực, ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương. Thấm nhuần tư tưởng về thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện lời dạy của Bác: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”, “Thi đua khen thưởng là động lực và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới”; “Thi đua là thực hiện tốt công việc hàng ngày”… Hơn 70 năm qua, thực hiện tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào thi đua yêu nước ở nước ta đã góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc, bảo tồn, phục hưng và phát triển đất nước XHCN đồng thời cũng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không quên những “gương mờ” trong phong trào thi đua đã từng được nhắc tới làm ảnh hưởng đến thành tích chung. Đã có thời gian, người ta nhắc nhiều tới “bệnh thành tích”, “hão danh”, thậm chí là “chạy” các hình thức khen thưởng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong phong trào thi đua và công tác khen thưởng. Phong trào thi đua tuy phát triển sâu rộng nhưng chưa toàn diện; nhiều nơi còn mang tính hình thức, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị. Việc suy tôn, phong tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng còn có biểu hiện nể nang, dễ dãi, còn để xảy ra tình trạng “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy huân chương”; khen thưởng đối với người lao động trực tiếp sản xuất, nông dân, công nhân tuy đã được quan tâm nhưng còn ít. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao; công tác tuyên truyền thiếu đồng bộ, sinh động, thuyết phục, làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể, cá nhân. Những hạn chế, khuyết điểm đó cần được nghiêm túc rút kinh nghiệm và kịp thời khắc phục.

Để thực hiện tốt công tác thi đua gắn chặt với công tác khen thưởng, nhằm ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong phong trào thi đua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị và ngày càng hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật và bộ máy làm công tác thi đua khen thưởng. Ngày 4/3/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định về việc lấy ngày 11/6 hằng năm là Ngày Thi đua yêu nước. Đây là dịp để đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với việc triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và Nhân dân đối với công tác tổ chức, vận động và hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Thấm nhuần tư tưởng thi đua của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện lời dạy của Người “càng khó khăn, càng phải thi đua”, thi đua - khen thưởng là động lực phát triển, là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới. Thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên liên tục hằng ngày, từ đó đòi hỏi chúng ta càng nỗ lực hơn tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và đổi mới công tác thi đua khen thưởng, tạo sự đồng bộ, nhịp nhàng trong việc tổ chức thực hiện, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót để thi đua thực sự trở thành động lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã đề ra./.

 


Đấu tranh, ngăn chặn bệnh khoe mẽ

Đấu tranh, ngăn chặn bệnh khoe mẽ

Khoe mẽ, hiểu nôm na là việc khoe khoang, phô bày vẻ hình thức bề ngoài. Đương nhiên, muốn khoe được thì phải có gì đó để khoe. Ở góc độ tích cực, ý thức và hành động khoe khoang có tác dụng tạo nguồn động lực thúc đẩy việc tự khẳng định mình. “Đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại”; “y phục xứng kỳ đức”… những câu dân dã ấy là phương châm sống, ứng xử, tu dưỡng bản thân, và cũng là cách để mỗi cá nhân suy nghĩ khi hòa mình vào tập thể, cộng đồng. Nhận diện bệnh khoe mẽ không quá khó. Từ lâu, cha ông ta đã có nhiều đúc kết sâu sắc để chỉ những người mắc căn bệnh này: “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”; “thùng rỗng kêu to”, “làm ít, xít ra nhiều”…Ngoài xã hội, dễ thấy bệnh khoe mẽ biểu hiện qua những hành vi chơi trội, chơi ngông khoe tiền, khoe của, khoe nhà cửa, ô tô sang; là những phát ngôn, hành vi “không giống ai”… một cách quá mức, thậm chí kệch cỡm. Là cái gắn liền với những gì bộc lộ bên ngoài mỗi người, nên trong cơ quan, đơn vị, không quá khó để nhận biết bệnh khoe mẽ. Nhẹ thì “chỉ tôi là nhất” lăng xăng chỗ này, chỗ kia nhưng khi cấp trên giao việc cụ thể, thì làm gì cũng sai, cũng hỏng. Đó cũng có khi là những người bằng cấp nhiều và sáng choang, nhưng được giao đảm nhận công việc đúng chuyên môn bằng cấp, thì lúng túng như gà mắc tóc, kết quả tạo ra lại đầy tối tăm. Nặng hơn, thì là kiểu tìm mọi cách né trách nhiệm thuộc chức trách của mình thông qua đổ lỗi cho người khác, cho nguyên nhân khách quan; thậm chí “làm láo, báo cáo hay” v.v...

Nhận diện không khó, nhưng suốt quá trình phát triển của Đảng và Nhà nước ta, căn bệnh này vẫn tồn tại và gây tác hại không nhỏ cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị. Đã “chỉ có tôi là nhất” - người mắc bệnh này chỉ chăm chăm nghĩ đến mình, tìm cách “đánh bóng” mình chứ không bao giờ coi việc chăm lo xây dựng một tập thể vững mạnh, đoàn kết. Anh ta thường nói rất chung chung (để giấu dốt và tránh va chạm); thậm chí nói “một đằng, làm một nẻo”, còn hành động thì tách rời những sinh hoạt thông thường của cơ quan, đơn vị. Khi "bằng cấp có thật nhưng trình độ không thật" lại cộng thêm bệnh háo danh - đương nhiên người mắc bệnh này phải tìm mọi cách che chắn cho khỏi lộ sự kém cỏi, dốt nát. Hình ảnh dễ thấy là im lặng trong cuộc họp nhưng “nổ” rất kêu ngoài cuộc họp, bất chấp nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng…Sự kém cỏi về tài nhưng mắc bệnh khoe mẽ thường có các cấp độ bệnh: Nhẹ thì né trách nhiệm, không giữ được tư cách tiền phong gương mẫu của người đảng viên. Nặng hơn một chút là tìm cách tập hợp, lôi kéo những người ủng hộ mình để hưởng ứng, tán dương. Nếu trong lòng đầy ắp tham vọng quyền lực, thì chăm chăm thì thụt gặp người này, vận động người kia kết thành phe nhóm; rồi sử dụng các thủ đoạn tung tin sau lưng, “ném đá giấu tay” để vu oan, bôi xấu thủ trưởng mình, nhằm thỏa giấc mơ quyền lực. Cán bộ có chức vụ cao trong đơn vị mà mắc bệnh này, chắc chắn tập thể nơi đó khó mà có được sự bình yên, đoàn kết thật sự vì mục tiêu chung.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rất rõ 8 căn bệnh do thứ “vi trùng rất độc” là chủ nghĩa cá nhân gây ra đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Trong đó, những căn bệnh như bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, óc lãnh tụ - đều ít nhiều liên quan chặt chẽ tới bệnh khoe mẽ. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng chỉ đích danh những biểu hiện suy thoái gắn liền với bệnh khoe mẽ: “Né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả… không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao” (biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị). “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình… Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi” (biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống). Những đảng viên mắc bệnh khoe mẽ và suy thoái như vậy, nếu được đưa vào làm lãnh đạo cơ quan, đơn vị, rõ ràng chỉ hại nhiều hơn lợi. Bởi thế, ngày 26-4-2020, trong bài viết của mình về công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã lưu ý tới yêu cầu phải trong sáng, công tâm, khách quan, đặc biệt là phải rất tỉnh táo, tinh tường trong lựa chọn cán bộ: “Đừng thấy đỏ tưởng là chín", đừng chỉ thấy "cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong". Là con người, đương nhiên ai cũng có khiếm khuyết ít, nhiều. Cán bộ, đảng viên cũng không ngoài quy luật chung này. Song cán bộ, đảng viên khác với người thường ở chỗ phải luôn tu dưỡng nhằm hoàn thiện bản thân, luôn nêu cao vai trò tiền phong, đạo đức gương mẫu. Muốn vậy, phải luôn soi mình trước lý tưởng cao đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam và dũng cảm nhìn thẳng vào hạn chế của mình để khắc phục, sửa chữa. Chữa trị và đẩy lùi căn bệnh khoe mẽ, háo danh cũng trên nguyên lý này. “Liều thuốc” đặc trị lâu dài không gì khác là luôn công khai, dân chủ và giữ vững các nguyên tắc của Đảng về công tác cán bộ; từ đó chọn lựa ra những cán bộ lãnh đạo là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhiệt huyết, làm việc có hiệu quả, có "sản phẩm" cụ thể, rõ rệt; dám nghĩ, dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm.

 


CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI




Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo đã giành được những thành quả to lớn. Thời kỳ đầu đổi mới, công tác tư tưởng luôn đứng trước những vấn đề gay gắt. Song, công tác tư tưởng và những người làm công tác tư tưởng đã cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta từng bước tháo gỡ những khó khăn trong tư duy lý luận rồi đến những vận dụng thực tiễn. Nhờ vậy công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào thành quả của sự nghiệp đổi mới.

NẠN ĐÓI NĂM 1945...SẢN PHẨM CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN, SẢN PHẨM CỦA THỰC DÂN, PHÁT XÍT DÀNH CHO ĐẤT NƯỚC TA. LÀ SỰ THẬT ĐAU LÒNG CỦA MỘT ĐẤT NƯỚC MẤT ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, TỰ DO, MẤT QUYỀN CON NGƯỜI...


Công trình nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam và GS Furuta Moto (người Nhật) chỉ rõ: chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên.
Tháng 10/1940, khi đặt chân đến Đông Dương, Nhật thi hành hàng loạt chính sách đánh vào nền kinh tế: buộc thực dân Pháp phải ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương thực, giao nộp lúa, gạo cho Nhật hàng năm; cấm vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, hạn chế chuyên chở tự do, chỉ cho chở dưới 50 cân gạo trong một tỉnh; bắt người dân nhổ lúa trồng đay, dành ruộng trồng lạc.
Trong khi Nhật vơ vét cho chiến tranh thì Pháp dự trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa tới,phải đánh Nhật hoặc dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam. Thuế đinh, thuế điền, tô tức trở thành những chiếc thòng lọng buộc vào cổ nông dân.
Năm 1944, Việt Nam bị mất mùa nhưng Pháp và chính quyền phong kiến vẫn phải cung cấp cho Nhật hơn 900.000 tấn gạo để nuôi chiến tranh phát xít và làm nguyên liệu để người Pháp nấu rượu, cùng thóc dùng đốt lò thay cho than đá. Hàng chục nghìn mẫu ngô bị phá, hàng triệu tấn thóc bị thu nộp. Theo thống kê, năm 1940, diện tích trồng đay là 5.000 ha nhưng đến năm 1944 đã tăng lên 45.000 ha.
Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc ở miền Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt.Năm 1943, một tạ gạo giá chính thức là 31 đồng, giá chợ đen là 57 đồng; năm 1944 tăng lên 40 đồng, giá chợ đen là 350 đồng, nhưng đến đầu năm 1945 thì giá chính thức vọt lên 53 đồng còn giá chợ đen từ 700-800 đồng. Giá gạo “phi nước đại” khiến người dân không đủ sức mua, phải chịu cảnh chết đói.
Tháng 9/1944, lụt vỡ đê La Giang (Hà Tĩnh), đê sông Cả (Nghệ An) làm cho nạn đói diễn ra trầm trọng hơn.Theo những người dân trải qua nạn đói khủng khiếp ở Tây Lương (Tiền Hải, Thái Bình) thì vụ mùa năm 1944, lúa trên các cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đều bị “rù” (rầy phá hoại), chết trắng, chết vàng. Cả mẫu ruộng không thu nổi vài chục cân thóc mẩy.
Nạn đói đã diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, từ Quảng Trị trở ra. Trọng điểm là các tỉnh đồng bằng, nơi dân số tập trung đông, có nhiều ruộng, như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa. Cái đói không buông tha ai, trọng tâm là những người dân nghèo, người lao động, đặc biệt là nông dân không có ruộng đất chuyên đi làm thuê và nông dân ít ruộng đất.
Để chống lại cái đói, cái chết cận kề, người dân ăn từ rau dại, đến củ chuối, vỏ cây, giết cả trâu bò, chó mèo; dân chài thì ăn củ nâu, cá chết. Khi không còn gì ăn thì họ ngồi chờ chết, để người nhà mang đi chôn hoặc chết ở bờ bụi khi đi kiếm ăn. Cái chết đến từ từ, thảm khốc, dày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Cái đói khiến cha bỏ con, chồng bỏ vợ, tình người đứt đoạn, đi xin ăn không được thì cướp giật. Ở các vùng quê, hàng nghìn hộ gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chỉ một vài người sống sót.
Tháng 3/1945, nạn đói lên đến đỉnh điểm. Lũ lượt người ngược, kẻ xuôi chạy đói đến các thành phố lớn, họ bán cơ nghiệp để lấy tiền đi đường. Người dân Hà Nội khi ấy đã phát động Ngày cứu đói, lập trại tế bần phát cháo. Người sắp chết thì được đưa về trại Giáp Bát, còn người chết đói thì xác chất đầy xe bò đem đi “hất xuống hố như hất rác” tại nghĩa trang Hợp Thiện (Hai Bà Trưng).
Mục sư Lê Văn Thái, nguyên Hội trưởng Hội thánh Tin lành Việt Nam thời kỳ 1942-1960 viết lại: “Tôi thường nghe tiếng rên xiết của những người sắp chết, thấy những đống thịt quằn quại gần những xác chết, nơi này 5-3 xác chết, chỗ khác từng đống người sống nằm lẫn với người chết. Trên những đoàn xe bò đầy những xác chết, mỗi xe chỉ phủ một chiếc chiếu, trong những cái hầm mấy trăm xác chết mới lấp một lần. Một vài lá cải thối trong đống rác, một vài hột cơm đổ bên cạnh vò nước gạo thì họ kéo nhau từng lũ đến tranh cướp”.
“Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người nấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc, giơ xương ra và run rẩy. Ngay cả đến những thiếu nữ tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó”, tác giả Vespy viết trong một bức thư vào tháng 4/1945.
Giữa lúc nạn đói lên đến đỉnh điểm thì ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Mặt trận Việt Minh phát động nhân dân phá hàng trăm kho thóc của Nhật để cứu đói. Phong trào diễn ra sôi nổi khắp nơi khiến nạn đói phần nào được đẩy lui. Nông dân bắt đầu trở về quê tiếp tục sản xuất. Đến vụ chiêm (tháng 6) có gạo mới, mức sống thay đổi đột ngột lại khiến nhiều người chết vì ăn quá no. Môi trường bị ô nhiễm nặng bởi xác chết không được xử lý và trải qua cơn đói lâu dài kéo theo dịch tả và dịch sốt vàng da lại giết thêm nhiều người ở Bắc Giang, Cao Bằng.
Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai.. Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh (Thái Thụy, Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người. Chỉ trong 5 tháng, số người chết đói toàn tỉnh lên đến 280.000 người, chiếm 25% dân số Thái Bình khi đó. Lịch sử đảng bộ Hà Sơn Bình cũ ghi rõ: “Trong nạn đói năm 1945, khoảng 8 vạn người (gần 10% dân số trong tỉnh) chết đói, nhiều nơi xóm làng xơ xác tiêu điều, nhất là ở những nơi nghề thủ công bị đình đốn. Làng La Cả (Hoài Đức) số người chết đói hơn 2.000/4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn một ai. Làng La Khê (Hoài Đức) có 2.100 người thì 1.200 người chết đói, bằng 57% số dân”.
Tháng 5/1945, bảy tháng sau khi nạn đói bùng nổ tại miền Bắc, tòa khâm sai tại Hà Nội lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói và chết bệnh là 400.000, chỉ tính miền Bắc. Số liệu nghiên cứu trong cuốn Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam – Những chứng tích lịch sử của GS Văn Tạo thống kê: “Riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế là cả tỉnh chết đói mất 280.000 người. Chỉ tính số người chết đói ở Thái Bình cùng với Nam Định hơn 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam chết 50.000 thì số người chết đói đã lên đến hơn 580.000. Như vậy, con số 2 triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực”.
So sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của các cuộc chiến tranh Pháp – Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nạn đói nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chết một triệu người, nước Đức chết chừng 3 triệu. Thế mà nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ, ta đã chết hơn 2 triệu người”.
Hơn 70 năm trôi qua, những chứng tích lịch sử về nạn đói năm xưa không còn nhiều, ngoài những nấm mồ tập thể sâu dưới lòng đất lạnh. Những nhân chứng từng đi qua tai họa lịch sử ấy thì ghi nhớ nỗi đau thương sâu trong tâm, mỗi lần nhắc đến chỉ biết rưng rưng nước mắt
ST

CẦN PHẢN BÁC LẠI NHỮNG Ý KIẾN TRÁI CHIỀU TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT QUỐC PHÒNG


Đất quốc phòng là đất chuyên dùng được Nhà nước giao cho đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng vào mục đích quốc phòng theo qui định của Luật Đất đai. Tất nhiên, tài nguyên đất là thuộc về sở hữu toàn dân, Nhà nước giao cho Quân đội quản lý, sử dụng với tư cách là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất” như Bác Hồ đã dạy; nhưng khi Nhà nước cần thu hồi đất cho các chương trình, dự án phục vụ quốc kế, dân sinh thì Quân đội sẵn sàng bàn giao một cách nghiêm túc.
Thời gian vừa qua, lợi dụng việc quản lý đất quốc phòng chưa thống nhất, còn buông lỏng, chưa chặt chẽ và đúng pháp luật, nhất là khi có một số vụ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý đất quốc phòng bị phát hiện và xử lý, các thế lực thù địch đã tán phát những bình luận trái chiều, kích động nhân dân khiếu kiện, làm phức tạp tình hình và có nguy cơ mâu thuẫn, thậm chí đối đầu giữa Quân đội với nhân dân. Cùng với đó, nhiều ý kiến trái chiều lại đang kích động, đòi chuyển hoàn toàn quyền sử dụng đất quốc phòng, nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sang hoạt động dân sự, đòi Quân đội bàn giao đất quốc phòng cho các địa phương quản lý, phát triển kinh tế, cho rằng Quân đội đang được hưởng đặc quyền, đặc lợi khi quản lý, khai thác quỹ đất này. Tuy nhiên, không loại trừ đây cũng là âm mưu rất thâm độc của các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội nhằm làm suy yếu năng lực phòng thủ của đất nước ta, vì điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến các hoạt động quân sự khi có tình huống khẩn cấp về quốc phòng - an ninh, nhiều nơi không còn vị trí bố trí các trận địa phòng không, triển khai lực lượng tác chiến, ... rất nguy hiểm.
Ðược sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, vừa qua, đồng chí Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Ðảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Quốc phòng đã trả lời phỏng vấn phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí, xoay quanh một số vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm. Trong đó, đối với vấn đề sử dụng đất quốc phòng làm kinh tế; quan điểm của Bộ Quốc phòng đã được nêu rõ, như sau:
- Quản lý đất quốc phòng trước hết phải thượng tôn pháp luật; đất quốc phòng cũng là đất quốc gia, thực hiện theo đúng luật pháp Nhà nước, không phân biệt đất quốc phòng hay đất khác. Chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng từ trước đến nay là: đất quốc phòng chủ yếu để phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, huấn luyện chiến đấu, xây dựng doanh trại, căn cứ bí mật, kho tàng, trận địa phòng thủ, .... Trong đó, có một phần đất quốc phòng thực hiện theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ cách đây hơn 10 năm là: nếu đất nhàn rỗi, chưa sử dụng ngay vào mục đích quốc phòng có thể sử dụng làm mục đích kinh tế để nâng cao đời sống bộ đội và đóng góp vào xây dựng tiềm lực cho các đơn vị. Tuy nhiên, thời gian qua, có đơn vị sử dụng đất quốc phòng không đúng mục đích, quân đội đã kiểm tra và xử lý nghiêm. Thời gian tới sẽ xử lý mạnh mẽ, triệt để, căn cơ, nếu đơn vị nào sử dụng không đúng mục đích, Bộ Quốc phòng dứt khoát thu hồi, xử lý cán bộ chỉ huy để xảy ra sai phạm …, bảo đảm đất quốc phòng sử dụng đúng mục đích, để người dân ủng hộ, tin tưởng vào Quân đội, không có chuyện Quân đội đi ngược lại lợi ích nhân dân. Ðiều gì đi ngược lại lợi ích nhân dân nhất định Quân đội không làm, đó là chủ trương của quân ủy Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng.
- Những năm qua, Quân đội giao đất quốc phòng cho các địa phương, các ngành, hoặc giao lại cho Chính phủ để phát triển kinh tế - xã hội chiếm hơn 90%. Các đơn vị trước đây đất rộng nhưng bây giờ co gọn lại để giúp các địa phương mở đường giao thông, làm công trình môi trường, khu đô thị; đồng thời, chủ động giải phóng các khu vực đất đai bị ô nhiễm bom, mìn, đi-ô-xin để bàn giao cho địa phương .... Có một bộ phận nhỏ đất quốc phòng tạm thời chưa sử dụng cho phép các đơn vị dùng vào mục đích kinh tế. Hiện nay, Quân ủy Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có chủ trương thận trọng, tính toán kỹ, cái nào thật sự cần thì mới làm, nhưng đã làm thì phải đúng luật pháp, đúng quy định, không có biệt lệ nào cho đất quốc phòng làm kinh tế. Sử dụng đất quốc phòng vào mục đích quốc phòng cũng như các nhiệm vụ khác của Quân đội không đứng ngoài pháp luật, làm sai pháp luật Nhà nước; nếu làm hại đến môi trường phát triển của địa phương, gây khó khăn cho người dân, Quân đội sẽ không làm.
- Việc sử dụng đất quốc phòng tham gia kinh tế chỉ là vấn đề nhỏ, không nên đẩy thành chuyện lớn, vấn đề chung của dư luận. Quân đội thấy rõ vấn đề này; khi có sai phạm, hoặc những gì chưa đúng, người dân phản ánh, Bộ Quốc phòng sẽ xử lý nghiêm minh, triệt để. Cần tiếp thu ý kiến người dân, chỗ nào làm sai phải sửa. Nhưng sử dụng đất quốc phòng làm kinh tế không phải là phổ biến, không phải hiện tượng chung và không gây hại cho xã hội. Vì đất quốc phòng hay không quốc phòng đều phải thực hiện đúng luật, đúng quy định của Nhà nước; như vậy, rất sòng phẳng, dễ xử lý, người tốt, việc làm tốt sẽ phát triển, sẽ ủng hộ, sai phải xử lý. Vừa rồi ở Hà Nội xảy ra tranh chấp một số đất quốc phòng, nói là doanh nghiệp quân đội, nhưng đó là công trình đặc biệt của Quân đội để tăng cường tiềm lực quốc phòng. Quân đội muốn người dân hiểu nhiệm vụ đang làm là rất lớn, rất nặng nề./.

NIỀM TIN CHIẾN THẮNG


Đợt bùng phát thứ hai “Đại dịch Covid-19” ở nước ta không may đã rơi vào Đà Nẵng - trung tâm kinh tế khu vực miền Trung-Tây Nguyên và cũng là điểm du lịch thu hút nhiều du khách trong nước trở lại sau gần 100 ngày không có người nhiễm bệnh trong cộng đồng.

Chỉ trong 10 ngày kể từ khi ca bệnh đầu tiên được phát hiện, đã có hơn 150 người bị lây nhiễm, trong đó có 9 ca tử vong vì Covid-19. Các du khách đã nhanh chóng rời Đà Nẵng trong một tâm trạng vừa buồn, vừa lo và vừa nuối tiếc khi phải dừng chuyến đi du lịch sau một thời gian dài ngưng trệ do dịch bệnh...

Đấy là một điều không may cho Đà Nẵng nói riêng và cả nước ta nói chung khi nền kinh tế và các hoạt động xã hội vừa mới bắt đầu quay trở lại. Ngành du lịch cũng mới vực dậy với lượng du khách trong nước vẫn còn hạn chế. Nhiều hoạt động kinh tế-xã hội khác cũng còn nhiều khó khăn, thử thách bởi một thời gian dài bị ngưng trệ. Cuộc sống của nhiều người, nhiều gia đình vẫn còn loay hoay trong bộn bề khó khăn, vất vả… do sự tác động của dịch bệnh.

Nhưng trong cái không may mắn đó đã cho chúng ta một lời cảnh báo rằng: Đại dịch Covid-19 đã, đang và sẽ là mối đe dọa vô cùng nguy hiểm của cả nhân loại chúng ta. Trên thế giới hiện vẫn còn gần 220 quốc gia và vùng lãnh thổ có dịch Covid-19 lây lan trên diện rộng. Nhiều quốc gia buộc phải giãn cách xã hội lần hai khi Covid-19 quay trở lại. Hiện có hơn 18 triệu người bị nhiễm bệnh và cướp đi mạng sống của hơn 700 ngàn người.

Đấy là một con số vô cùng kinh hãi và sự mất mát, đau thương không sao kể xiết. Vì thế, ngay sau khi phát hiện sự trở lại của Covid-19, Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân Đà Nẵng, cùng với sự trợ giúp kịp thời, hiệu quả bằng những binh chủng, lực lượng tinh nhuệ nhất của Trung ương, của Bộ Y tế, của các ngành, các địa phương trong cả nước… đã nhanh chóng đưa thành phố quay trở lại với “cuộc chiến” phòng, chống dịch bệnh như những tháng đầu năm 2020.

Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch Covid-19 thành lập ngay “Bộ chỉ huy tiền phương” chống dịch tại Đà Nẵng do Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn đứng đầu. Bốn đoàn công tác đặc biệt gồm những chuyên gia hàng đầu của ngành y tế và các bệnh viện có mặt ngay tại Đà Nẵng để chỉ đạo, hỗ trợ trong công tác điều trị, điều tra giám sát dịch tễ. Nhiều trang thiết bị y tế hiện đại đã được vận chuyển vào Đà Nẵng phục vụ công tác điều trị, xét nghiệm…

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền thành phố, các lực lượng tuyến đầu chống dịch như: Y tế, Công an, Quân đội, dân quân tự vệ… đã bắt tay ngay vào việc chăm sóc, điều trị người bị nhiễm bệnh, giám sát, điều tra dịch tể, cách ly y tế nơi xuất hiện nhiều bệnh nhân, các khu dân cư cũng như tiến hành giãn cách xã hội trên cả địa bàn thành phố. Việc phong tỏa Bệnh viện Đà Nẵng, Bệnh viện C và Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hội chức năng - nơi có nhiều người nhiễm bệnh đã nhanh chóng, kịp thời. Đội ngũ các y bác sĩ, điều dưỡng các bệnh viện này đã cùng một lực lượng khác được chi viện từ các trường y, các bệnh viện trong và ngoài thành phố hình thành một lực lượng hùng hậu suốt ngày đêm phục vụ người bệnh.

Thành phố cũng lập bệnh viện dã chiến ở Hòa Vang và xây dựng bệnh viện dã chiến mới với quy mô hàng ngàn giường bệnh tại Cung thể thao Tiên Sơn… để đưa bệnh nhân nhiễm Covid-19 về điều trị chuyên sâu, giải tỏa Bệnh viện Đà Nẵng, Bệnh viện C để phục vụ khám chữa bệnh bình thường cho người dân. Không những vậy, các tầng lớp nhân, các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể trong và ngoài thành phố đã huy động công sức và vật chất tiếp sức cho lực lượng tuyến đầu chống dịch cũng như những người dân gặp khó khăn.

Có thể nói, nhiệm vụ vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa bảo đảm những hoạt động căn bản để phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống và an ninh - trật tự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những ngày qua nhanh gọn, nhịp nhàng, hiệu quả với một tinh thần đồng tình, hợp tác và đầy trách nhiệm của toàn xã hội. Đấy chính là biểu tượng của tình đoàn kết, là nhân tố cốt lõi, là bài học quý giá để làm nên mọi thắng lợi mà ông cha ta từ bao đời nay để lại, mà gần nhất là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.

Dù rằng, trong những ngày tới, dự báo có thể phát hiện thêm những ca nhiễm trong cộng đồng nhưng Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch Covid-19 nhận định là tình hình dịch bệnh ở Đà Nẵng đã được kiểm soát. Vì thế, chúng ta có một niềm tin vững chắc rằng, cơn “Đại dịch Covid-19” dù là một mối đe doạ, là một thử thách vô cùng lớn lao, nhưng bằng tinh thần tổng lực đã và đang diễn ra với sự nỗ lực và quyết tâm của từng người dân, của cả hệ thống chính trị toàn thành phố và sự chỉ đạo kịp thời, trợ giúp đắc lực của Trung ương và các tỉnh bạn, Đà Nẵng cũng như các địa phương có người lây nhiễm sẽ sớm đẩy lùi dịch bệnh, sẽ chiến thắng, từng bước đem lại cuộc sống an lành cho mọi người, mọi nhà.
Hải Đăng st

Những việc chúng ta cần làm trong lúc này!

Hãy lên tiếng cùng Chính Phủ và Bộ Y Tế! Hãy bắt đầu từ chính những việc bạn cần làm lúc này.

1 – Hãy kêu gọi mọi người không tụ tập đông người, không ra đường nếu không thực sự cần thiết.

2 – Hãy nhắc nhở bạn bè của bạn ra đường bắt buộc phải đeo khẩu trang.

3 – Đừng kỳ thị những người đang tự cách ly. Họ là những người tuân thủ tự giác rồi. Với gần 50.000 người đang tự cách ly, họ có thể là bạn bè người thân của bạn. Hãy động viên họ. Hãy chỉ lên án những kẻ trốn cách ly.

4 – Hãy nhắc bạn bè rửa tay thường xuyên và giữ khoảng cách tối thiểu 1 mét đến 2 mét khi đi chợ, xếp hàng.

5 – Khai báo y tế, kêu gọi bạn bè khai báo y tế với các trường hợp nhập cảnh từ 8/3 đến nay.

6 – Đừng share những tin tức gây hoang mang dư luận khiến chính những người thân của bạn cũng âu lo theo.

7 – Giữ cho chính bản thân bạn sự BÌNH TĨNH vì bạn bình tĩnh bạn sẽ mạnh mẽ để người thân của bạn yên tâm hơn.”

Xin hãy dành ít nhất 1 status lan truyền đi tinh thần chống dịch của bạn. Mỗi Facebook sẽ là một chiến binh ra trận góp sức cùng chính phủ và bộ y tế lúc này./.

 


Cảnh giác âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thì địch tác động chống phá trươc Đại hội Đảng lần thứ XIII

Sau Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp. Cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ; hoà bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố quốc tế, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ giữa một số nước tiếp tục diễn biến phức tạp. Đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động DBHB nhằm chuyển hóa chế độ XHCN ở các nước còn lại.
Đối với Việt Nam, “các thế lực thù địch tiếp tục chống phá và can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, kích động bạo loạn, lật đổ và đẩy mạnh hoạt động "DBHB", thúc đẩy "tự diễn biến" "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta. Các tổ chức phản động bên ngoài triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng internet, lợi dụng những tiêu cực, tham nhũng…để tuyên truyền xuyên tạc nhằm hạ uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Chúng ráo riết phát triển lực lượng, nuôi ý định chống đối chế độ lâu dài.
Các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc chống phá Đảng, nhà nước ta, kích động trong nhân dân, lợi dụng về những vấn đế tham những, đòi tự do, dân chủ… Lợi dụng sự sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
Trong tình hình hiện nay, trước thềm đại hội lần thứ XIII của Đảng, hơn lúc nào hết chúng ta luôn đề cao cảnh giác với sự lôi kéo, chống phá của các thế lực thù địch. Vách trần các âm mưu của các phần tử phản động, góp phần giữ vững sự ổn định đất nước.

                                                                                                                                    ST.

Bài trả lời phỏng vấn gây choáng váng cho Việt Nam cộng hòa và thế giới.


Năm 1969, phía Mỹ bắt đầu các cuộc hòa đàm bí mật ở Paris với đại diện của Bắc Việt và MTDTGP Miền Nam Việt Nam. Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn khi đó là Nguyễn Văn Thiệu đã làm đủ mọi cách nhằm gây áp lực, "làm mình làm mẩy" với Mỹ để buộc Mỹ" phải loại bỏ MTDTGPMNVN khỏi các cuộc hòa đàm này" nhưng thất bại. Bà Nguyễn Thị Bình (trưởng đoàn đàm phán MTDTGPMNVN, lúc bấy giờ được báo chí Pháp và quốc tế gọi bằng cái tên đầy kính nể là "Madame Bình") hiển nhiên trở thành mục tiêu công kích, bêu riếu hàng đầu của ngụy quyền Sài Gòn.

Quyền chức!?



Quyền chức chẳng qua là chiếc áo, được người khác giao cho mặc. Người mặc áo tuy có quyền uy, nhưng chưa chắc đã có uy tín. Bởi ủy tín xuất phát từ tài năng và phẩm hạnh, còn uy quyền chỉ do chiếc áo mang lại.

Bạn có biết nước ta có bao nhiêu anh hùng liệt sỹ, bao nhiêu người có công trên cản nước Viẹt nam không?


Bạn có biết nước ta có bao nhiêu anh hùng liệt sỹ, bao nhiêu người có công trên cản nước Viẹt nam không? 
Đây là những con số nói lên sự hi sinh, mất mát của dân tộc ta khi trải qua chiến tranh để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Thống kê lại những con số này để cho thấy chúng ta đã phải trả giá như thế nào, và tất nhiên trong thời bình, những người đang chống phá, cản trở đất nước, pá hoại sự bình yên của dân tộc cũng cần nhìn nhận và có trách nhiệm lương tri hơn nữa….

KÍNH VIẾNG 10 CÔ GÁI NGÃ BA ĐỒNG LỘC

KÍNH VIẾNG 10 CÔ GÁI NGÃ BA ĐỒNG LỘC

Đồng Lộc nỗi nhớ khôn nguôi
Gương 10 cô gái sáng ngời núi sông
Nơi đây mảnh đất anh hùng
Lưu danh chiến tích vang lừng nước non

Phản đối quy định hàng hải mới của Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa

Phản đối quy định hàng hải mới của Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa

Kể từ ngày 1/8 vừa qua, một phiên bản sửa đổi quy định hàng hải của Trung Quốc từ năm 1974, trong đó định nghĩa lại vùng biển giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và quần đảo Hoàng Sa mà Bắc Kinh chiếm của Việt Nam, bắt đầu có hiệu lực. Việt Nam tuyên bố đây là hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam và vô giá trị.

Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 6/8, trả lời câu hỏi của phóng viên về vấn đề này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tuyên bố quy định này của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, không có lợi cho hoà bình, ổn định ở biển Đông. “Lập trường nhất quán của Việt Nam là mọi hoạt động liên quan đến quần đảo Hoàng Sa mà không được sự cho phép của Việt Nam đều vi phạm chủ quyền của Việt Nam và vô giá trị”, bà Hằng nói.

Ngày 31/7, báo Hong Kong South China Morning Post có bài viết nói rằng điểm mới trong quy định sửa đổi có tên chính thức là “Các quy tắc kỹ thuật để kiểm tra tàu biển là việc Trung Quốc đã thay đổi thuật ngữ, gọi vùng biển giữa đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa là một vùng “duyên hải” hay "ven bờ" (tiếng Anh là coastal), thay vì “ngoài khơi” (tiếng Anh là offshore) như trước đây. “Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và bộ phận lãnh thổ không thể thể tách rời của Việt Nam. Mọi hoạt động tại 2 quần đảo này mà không được sự cho phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam, không có lợi cho hoà bình, ổn định ở biển Đông. Việt Nam kiên quyết phản đối”.

Khu vực gây tranh cãi chính là vùng mà Trung Quốc gọi là “Khu vực hàng hải Hải Nam - Tây Sa” – Tây Sa tên Bắc Kinh đặt cho Hoàng Sa - nằm giữa 2 điểm cực đông và cực tây trên đảo Hải Nam và 3 điểm ở cực đông, tây và nam quần đảo Hoàng Sa.

          Về việc truyền thông nhà nước Trung Quốc gần đây nói rằng trong các cuộc tập trận gần đây, TQ điều nhiều phương tiện quân sự đến các cấu trúc ở quần đảo Trường Sa, trong đó video đưa máy bay đến đá Subi, bà Hẳng tuyên bố: “Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và bộ phận lãnh thổ không thể thể tách rời của Việt Nam. Mọi hoạt động tại 2 quần đảo này mà không được sự cho phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam, không có lợi cho hoà bình, ổn định ở biển Đông. Việt Nam kiên quyết phản đối”.

          Trả lời câu hỏi đề nghị cho biết quan điểm của Việt Nam trước việc chính phủ Úc gần đây đệ trình công hàm lên Liên Hợp quốc phản đối yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông vì vi phạm Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, bà Hằng nói rằng việc các nước lưu hành công hàm ở LHQ là một thực tiễn bình thường trong quan hệ quốc tế.

 Lập trường nhất quán của Việt Nam về các vấn đề liên quan đến biển Đông đã được thể hiện trong các dịp khác nhau. Việt Nam cho rằng các nước chia sẻ nguyện vọng và mục tiêu chung về việc duy trì và thúc đẩy hoà bình và ổn định và phát triển ở biển Đông. Để làm được điều này, các nước cần thực thi các trách nhiệm pháp lý trên biển, thực thi đầy đủ và có trách nhiệm UNCLOS 1982. Việt Nam hoan nghênh lập trường của các nước về biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế. 

          Bà Hằng cho biết Việt Nam duy trì lập trường như đã nêu trong Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 vừa qua rằng UNCLOS 1982 là cơ sở cho việc xác định các quyền trên biển, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp trên các vùng biển, và UNCLOS 1982 đề ra khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương.

          Về việc Forbes đưa tin Trung Quốc đang xây dựng mạng lưới do thám ở biển Đông, bà Hằng nói rằng sẽ trao đổi với các cơ quan chức năng Việt Nam về vấn đề này. Bà nhấn mạnh quan điểm của Việt Nam rằng việc duy trì hoà bình, ổn định, an ninh ở biển Đông là lợi ích trách nhiệm của tất cả các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Do đó, mọi hoạt động của các nước cần được thực hiện có trách nhiệm, có thiện chí để phục vụ mục tiêu này.

 

Điều đang diễn ra ở Việt Nam là một ví dụ đẹp về cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa nhân văn.

Hàng trăm máy bay chở khách của Việt Nam đang cất cánh, đưa mọi người trở về nơi an toàn. Bất chấp mọi chi phí, miễn là những người con đất Việt có thể được an toàn.

Bây giờ, với việc COVID-19 trở lại một lần nữa, cho đến nay Việt Nam vẫn đang là mô hình thành công nhất trên trái đất.

Đó là bởi vì họ luôn đặt cuộc sống của con người lên trên lợi nhuận, và trên tất cả mọi thứ khác. Đó là bởi vì mục tiêu của trận ch.iến lớn này thực sự vô cùng đẹp đẽ; đó là một bản sử thi và một bài hát đầy đam mê của người Việt.

Đây thực chất là cách mà các quốc gia cần thực hiện để đạt được sự vĩ đại: không phải bằng cuộc rượt đuổi kinh tế để tăng GDP và kho vũ khí, mà phải bằng trái tim, chủ nghĩa nhân văn, quyết tâm cao độ và tình yêu, lòng vị tha vô bờ bến đối với nhân dân và đất nước của mình./.

 


Thứ Tư, 5 tháng 8, 2020

Cảnh giác trước trò lôi kéo của tà đạo 'Thanh Hải vô thượng sư'

“Thanh Hải vô thượng sư” còn gọi là "Đạo tràng Tây Hồ", "Hội thiền định Suma Ching Hai", "Hội thiền định quốc tế Thanh Hải vô thượng sư", "Hội quốc tế Thanh Hải vô thượng sư", "Hội quốc tế thánh thiện Thanh Hải vô thượng sư" do Đặng Thị Trinh – pháp hiệu "Thanh Hải" (sinh ngày 12-5-1948 tại Đức Phổ, Quảng Ngãi) lập ra năm 1989 tại Đài Loan. Trụ sở chính đặt tại thành phố El Monte, Nam California, Mỹ.

Ông Nguyễn Ánh Chức, Phó Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ cho hay, "Thanh Hải vô thượng sư" không có giáo lý chính thống mà tiếp thu giáo lý Phật giáo và đạo Sikh. Những người theo "Thanh Hải vô thượng sư" phải ăn chay trường, thực hiện ngũ giới cấm, không thờ ông bà tổ tiên…

Chiêu bài xuyên suốt trong tà đạo của Thanh Hải là Pháp môn Thiền quan âm, đi ngược với 5 trường phái thiền của Tổ sư Đạt Ma, gồm: Quy ngưỡng, Vân môn, Pháp nhãn, Tào đọng và Lâm tế. Giáo lý nhà Phật quy định rất kỹ và nghiêm ngặt về ăn mặc, đi đứng, nói năng của người tu hành, nhưng Thanh Hải thì khác.

Khó ai có thể nghĩ người tu hành như Thanh Hải lại ăn mặc có lúc như ca sĩ cải lương, hề trong tuồng chèo, người mẫu thời trang, thậm chí còn mặc áo hở rốn nhảy theo nhạc rock. Nhố nhăng hơn, Thanh Hải còn cho người mẫu thời trang mặc trang phục của người tu hành để biểu diễn trên sân khấu… Trong quá trình rao giảng, phát triển tổ chức, Thanh Hải thể hiện lập trường phản động.

Thậm chí, thông qua Văn phòng Cao ủy về người tị nạn của Liên hợp quốc (UNHCR), Thanh Hải còn thường xuyên đến các trại tị nạn người Việt tại Hong Kong, Thái Lan, Singapore để tuyên truyền, phát triển tổ chức, xây dựng các văn phòng đại diện tại các trại tị nạn với ý đồ khuyên nhủ các phần tử vượt biên ra nước ngoài hồi hương trở về Việt Nam để hình thành lực lượng nòng cốt phục vụ việc tuyên truyền, phát triển đạo lâu dài.

Những người theo "Thanh Hải vô thượng sư" in sao tài liệu, phát tán trái phép tại những nơi công cộng, tổ chức nhiều chương trình văn hóa văn nghệ, mở nhiều nhà hàng chay và các hoạt động mang danh nghĩa bảo vệ môi trường, "sống xanh"; lợi dụng các vấn đề mang tính thời sự đang được xã hội quan tâm như thiên tai, dịch bệnh… để tổ chức các hoạt động từ thiện, ủng hộ nhằm gây thanh thế.

Thời gian qua, lợi dụng tình hình dịch COVID-19, tổ chức "Thanh Hải vô thượng sư" đã đẩy mạnh hoạt động từ thiện - xã hội qua việc gặp gỡ, ủng hộ một số cơ quan chức năng ở địa phương cho công tác phòng, chống dịch bệnh như ở Hà Nội, Kon Tum, Bắc Ninh, Hải Dương… với số tiền khoảng 40.000 USD nhưng đều bị từ chối", ông Nguyễn Ánh Chức cho biết.

Cũng theo Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ, tổ chức "Thanh Hải vô thượng sư" đang tích cực lôi kéo người xuất cảnh tham gia các hoạt động ở nước ngoài, đồng thời tăng cường tuyển chọn, phát triển đội ngũ cốt cán ở trong nước từ những Việt kiều về nước thăm thân nhân, giới văn nghệ sĩ, doanh nhân, tìm cách tiếp cận công chức, viên chức các cấp, giới truyền thông, chức sắc, chức việc một số tổ chức tôn giáo, sinh viên...

Đặc biệt, từ năm 2018, “Thanh Hải vô thượng sư” còn sử dụng chiêu trò lợi dụng các văn nghệ sĩ để thực hiện một số chương trình văn nghệ hoặc giao lưu trực tuyến nhằm khuếch trương thanh thế. Tuy nhiên “chính quyền và lực lượng chức năng các cấp đã tăng cường công tác nắm chắc tình hình, chủ động phát hiện và ngăn chặn, xử lý gần 300 vụ tuyên truyền, tán phát tài liệu, ấn phẩm liên quan đến "Thanh Hải vô thượng sư", truy tố 46 đối tượng, xử phạt vi phạm hành chính gần 400 đối tượng, thu giữ hàng nghìn bộ sách, đĩa, tờ rơi, băng ghi âm, ảnh "Minh sư Thanh Hải" và các công cụ, thiết bị phục vụ việc tuyên truyền trái pháp luật”, ông Nguyễn Ánh Chức thông tin thêm.

Được biết, năm 1996, Hội Phật giáo tỉnh Khánh Hoà từng có văn bản gửi Ban Phật giáo các huyện, thị, thành phố tuyên bố “Thanh Hải vô thượng sư” là một tà đạo, không nằm trong cơ cấu tổ chức và không có mối liên hệ gì với Giáo hội Phật giáo Việt Nam”.

Năm 2009, thầy Thích Quảng Hiền, Phó Ban Thường trực Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đắk Nông cũng nhấn mạnh “Thanh Hải vô thượng sư” không phải là đạo Phật mà là một loại tà đạo vì trong đạo phật danh từ vô thượng sư chỉ dành cho Đức phật, ngoài Đức phật ra không ai dám dùng; đồng thời mong muốn bà con tăng ni, phật tử cần nêu cao tinh thần cảnh giác không nghe, không tin, không theo nhóm Thanh Hải vô thượng sư này vì đây không phải là một tổ chức chính thống của Phật giáo.

Cũng trong những năm 2007-2010, nhiều thành viên của “Thanh Hải vô thượng sư” bị phát hiện và thừa nhận có hành vi phát tán tà đạo, dụ dỗ người dân… Gần đây, “Thanh Hải vô thượng sư” lại tiếp tục quay trở lại hoạt động trên địa bàn cả nước với cách thức mới. Quần chúng nhân dân cần đề cao cảnh giác không mắc mưu dụ dỗ của Thanh Hải và không cổ xuý cho hoạt động của tổ chức này vì nó không chỉ được hình thành trái pháp luật mà còn gây phức tạp về an ninh trật tự, ảnh hưởng đến chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.

Nguồn: Báo CAND

 


Quan hệ Việt Nam – Cuba là mối quan hệ đặc biệt, không có tiền lệ, hình mẫu của quan hệ quốc tế

Năm 1969, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, Cuba và nhiều nước trên thế giới (có những nước không thuộc chế độ Cộng Sản) đã tổ chức Quốc tang 7 ngày.

Năm 1973, khi chiến tranh Việt Nam đang trong giai đoạn cực kỳ căng thẳng. Fidel Castro trực tiếp đến Việt Nam, tham gia vào phòng tuyến Quảng Trị. Trong chuyến thăm này, Cuba tặng Việt Nam nhiều công trình kinh tế – xã hội trị giá khoảng 80 triệu đô la gồm:

Khách sạn Thắng Lợi ở Hà Nội, trên đường Yên Phụ, Hồ Tây. Hiện nay vẫn còn sử dụng tốt

Nông trường bò sữa Mộc Châu với 1.200 con bò thụ thai ở Cuba và đẻ ở Việt Nam (trẻ em Cuba được uống sữa miễn phí hằng ngày, còn trẻ em Việt Nam không có sữa mà uống vì các công trình y tế, trang trại bị Mỹ ném bom phá hủy)

Nông trường gà ở Lương Mỹ (Hòa Bình) sau thành nơi cung cấp gà giống cho cả miền Bắc.

+Bệnh viện Cuba 500 giường ở Đồng Hới (Quảng Bình). Ai là dân Quảng Bình chắc chắn phải biết nhờ cái bệnh viện này hàng trăm nghìn người đã được chăm sóc y tế, đã được cứu sống.

Chính phủ Cuba ngoài viện trợ lương thực, y tế còn quyết định chi hơn 6 triệu USD để mua các trang thiết bị hiện đại từ Nhật Bản và cử một số sĩ quan, chuyên viên sang Việt Nam để tu sửa, xây dựng cầu đường.

Năm 1973, Cuba giúp ta bắc cầu treo Bến Tắt qua thượng nguồn sông Bến Hải vào nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn trên đường Hồ Chí Minh nhánh đông và rải nhựa đoạn này trước khi giải phóng miền Nam.

Năm 1977, Cuba vận động tất cả các nước Mỹ Latinh bỏ phiếu ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc.

Năm 1979, khi Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam. Fidel Castro lại một lần nữa nhấn mạnh “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Ông ra lệnh cho quân đội sẵn sàng đến trợ giúp Việt Nam. Tuy nhiên ngay sau đó, Liên Xô đưa quân đội cùng rất nhiều tên lửa đến sát biên giới Trung Quốc và tuyên bố sẽ san phẳng Bắc Kinh nếu như Trung Quốc không rút quân về nước. Trung Quốc vội vàng thu quân.

Những năm 80, Mỹ cấm vận, trừng phạt kinh tế, dùng nhiều thủ đoạn để cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao của Việt Nam với thế giới, Cuba vẫn luôn luôn viện trợ Việt Nam về mọi mặt.

Những năm 1980, 1990 Việt Nam ở trong tình trạng khan hiếm vaccine. Giá vaccine thời ấy cực kỳ đắt đỏ. Trẻ sơ sinh có tỷ lệ tử vong tăng cao. Cuba đã viện trợ rất nhiều vaccine cho Việt Nam, đồng thời đào tạo nhiều y bác sỹ cho Việt Nam. Thế hệ 8x và 9x của Việt Nam cao lớn và khỏe mạnh như hiện nay đều nhận những mũi vaccine từ Cuba…

Và Chiều 5-8 vừa qua, Cuba đã trao tặng hàng ngàn lọ thuốc sản sinh kháng thể chống virus SARS-CoV-2 cho Việt Nam và cử chuyên gia vào Quảng Nam, Đà Nẵng hỗ trợ công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Số vật tư được trao tặng cho Việt Nam gồm hàng ngàn lọ thuốc INTERFERON ALFA 2B do Cuba sản xuất. Thuốc được điều chế bởi các nhà khoa học ở Trung tâm Di truyền và công nghệ sinh học Cuba.

Đây là loại thuốc đạt chuẩn châu Âu, khi đưa vào cơ thể sẽ kích thích sản sinh ra kháng thể chống virus SARS-CoV-2, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều trị những bệnh nhân mắc COVID-19 nặng./.