Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2020
NGÀY NÀY NĂM XƯA: MỸ RẢI CHẤT ĐỘC DA CAM Ở VIỆT NAM
NHỮNG LUẬN ĐIỆU "TRẤN ÁP, BẮT BỚ TRƯỚC ĐẠI HỘI ĐẢNG" LÀ VU KHỐNG, BỊA ĐẶT
Bluezone “át chủ bài” trong cuộc chiến chống Covid-19
Ứng dụng Bluezone là một ứng dụng tìm kiếm, cảnh báo, thu thập thông tin trực tuyến từ người dân nhằm phòng chống Covid-19. Ứng dụng này được Chính phủ Việt Nam coi như là “át chủ bài” trong cuộc chiến chống Covid-19 lây lan trong cộng đồng. Đây là một “phong cách” chống dịch rất mới mẻ và hiệu quả dựa trên nền tảng phủ sóng di động rộng khắp cả nước và tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh cao.
Tuy nhiên, một số cánh báo
chí nước ngoài, lại cho rằng việc cài Bluezone là một “nghi ngờ về tình trạng
tự do dân chủ, nhân quyền”. Họ đặt giả thuyết rằng Chính phủ Việt Nam có thể
thông qua ứng dụng nhằm khai thác thông tin, theo dõi người dùng. Mục đích
chống dịch chỉ là mục đích ban đầu, sâu sa hơn, đó là một “con dao giấu kín”
nhằm theo dõi người dân. Phe này còn cho rằng, Bluezone nguy hiểm chẳng kém gì
Tiktok – một ứng dụng cũng bị cảnh báo xâm phạm quyền tự do riêng tư và yêu cầu
người dân Việt Nam không cài đặt.
Hầu như bất cứ một ứng dụng
mạng xã hội nào đều tiến hành thu thập dữ liệu từ người dùng, điều quan trọng
nhất những thông tin đã được thu thập sẽ được dùng vào việc gì.
Đặt trong bối cảnh cả nước
chung tay chống dịch thì việc sử dụng một ứng dụng “toàn dân” như thế này nhằm
mục đích thu thập thông tin y tế, báo cáo lộ trình di chuyển của các ca nhiễm
nhằm khiến người dân nâng cao cảnh giác phòng bệnh chẳng phải là rất tốt sao?
Những âm mưu chống phá trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XIII
ĐỪNG LẤY BỤNG TIỂU NHÂN ĐỂ ĐO LÒNG QUÂN TỬ!
Chống dịch Covid-19: Tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc trên mạng xã hội
Hành động phá hại của những người thích bơi ngược dòng
Một trong những
thành công trong công tác chống dịch Covid-19 của Việt Nam đó là sớm triển khai
các biện pháp phòng ngừa ở mức cao cũng như tổ chức truy vết, xác định nguồn
lây, nguồn tiếp xúc để từ đó nhanh chóng khoanh vùng ổ dịch. Đây là kinh nghiệm
quý báu mà đã được tổ chức y tế thế giới cũng như nhiều quốc gia trên thế giới
học hỏi và đánh giá cao.
Trong đợt bùng
phát dịch lần này, để hỗ trợ cho công tác truy vết, Chính phủ đã phát triển
cũng như liên tục khuyến cáo người dân cài đặt phần mềm Bluezone. Đây là một
phần mềm được Chính phủ ta đặt hàng cho BKAV phát triển. Trong khi số ca nhiễm
bệnh đang lây lan nhanh trong cộng đồng thì phần mềm Bluezone sẽ giúp chúng ta
nhanh chóng tìm nguồn lây, không để mất dấu những người tiếp xúc gần với bệnh
nhân. Nhóm phát triển phần mềm này cũng đã khẳng định ứng dụng chỉ lưu dữ liệu
trên máy người dùng, không thu thập dữ liệu về vị trí do dùng công nghệ
bluetooth. Người dùng tham gia cộng đồng được ẩn danh với người khác. Toàn bộ
dữ liệu liên quan do Bộ y tế quản lý theo quy định của các pháp luật. Với việc
càng nhiều người cài đặt ứng dụng này sẽ càng tạo thuận lợi cho công tác phòng,
chống dịch bệnh.
Vậy mà, trong
mấy ngày vừa qua, anh em dân chủ, phản động, những người luôn thích bơi ngược
dòng nước lại ra sức tuyên truyền việc Chính phủ sử dụng phần mềm này như một
công cụ để thu thập dữ liệu cá nhân. Trên cơ sở xuyên tạc về cơ chế hoạt động
của phần mềm, tạo nên sự lo ngại, nghi ngờ của người dân, các đối tượng này kêu
gọi mọi người không tải và cài đặt phần mềm.
Qua đây, một
lần nữa, chúng ta thấy mức độ phá hại của số anh em dân chủ, phản động này.
Phòng, chống dịch tốt thì bảo ta giấu dịch; dịch bệnh vừa có lây lan trong cộng
đồng thì chê bai quản lý yếu kém; đưa ra biện pháp phòng, chống dịch lại kêu
Chính phủ kiểm soát người dân. Các bạn hãy tải và cài đặt ngay phần mềm Bluezone
nhé. Vì mình và vì cộng đồng./.
Không thể chấp nhận cái gọi là “dân chủ” của các thế lực thù địch
Không thể chấp nhận cái gọi là “dân chủ” của các thế lực thù địch
Đẩy mạnh chống phá cách mạng Việt Nam thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch tung ra nhiều luận điệu đòi thực thi cái gọi là “dân chủ”, “tự do”. Họ tung hô, cổ súy quyết liệt việc đòi Việt Nam phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân chủ và phát triển”. Họ cho rằng, “đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”; “Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ thực sự”; “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện đa nguyên, đa đảng...
Cùng với tập trung đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ quyền lãnh đạo cách mạng, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ” với mưu toan xóa bỏ chế độ chính trị hiện hành, đưa đất nước theo mô hình dân chủ tư sản. Họ vu khống rằng, “thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là toàn trị”, “độc đoán”; “duy trì quyền lực chính trị bằng các công cụ, như cảnh sát, thực hiện bắt bớ, đàn áp những người không ủng hộ Nhà nước, ngăn cấm tự do thông tin, tự do hội họp, tự do báo chí, ngôn luận...”, vì thế mà không có “dân chủ”. Theo đó, các thế lực thù địch đòi “Việt Nam hiện nay phải chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”, mà “dân chủ” phải bảo đảm được ba yếu tố: Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; bầu cử tự do; tư pháp độc lập, trong đó yếu tố đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là quyết định nhất.
Các thế lực thù địch còn thổi phồng những sai lầm, thiếu sót về đường lối và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá khứ, đặc biệt là trên lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý - xã hội; đồng thời, ra sức lợi dụng khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, tham nhũng, tiêu cực bị xử lý kỷ luật để nâng hiện tượng cá biệt thành bản chất, bôi đen chế độ, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới và minh chứng cho sự cần thiết “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”, rằng như thế mới có “dân chủ” và “phát triển”. Trắng trợn hơn, các thế lực thù địch ra sức hậu thuẫn cho xây dựng các lực lượng phản động, như cái gọi là “Đảng Việt tân”, “Đảng Dân chủ tự do Thiên Chúa giáo”, “Đảng Dân chủ tự do Phật giáo”..., mưu toan hình thành lực lượng đối lập để từng bước thực thi thứ “dân chủ” của họ trong xã hội Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, các thế lực thù địch đã sử dụng chiêu bài “dân chủ” làm khâu đột phá trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá Việt Nam. Đằng sau tất cả những luận điệu tuyên truyền, hoạt động cả trực diện và không trực diện, đều hướng vào đòi thực thi thứ “dân chủ” ấy; trong đó, mục tiêu hàng đầu và mấu chốt của các thế lực thù địch là đòi thực hiện chế độ đa đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo, tiến tới loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đây chính là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch.
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn cho phép chúng ta khẳng định dứt khoát rằng, ở nước ta không cần và không thể chấp nhận thứ “dân chủ” mà các thế lực thù địch đang muốn áp đặt vào Việt Nam. Bởi vì:
Trên phương diện lý luận, chúng ta đều biết, dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng, dân chủ xuất hiện và phát triển với tính chất là sản phẩm trực tiếp của đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, giải phóng loài người. Trong xã hội có giai cấp, tuyệt đối không thể có thứ dân chủ chung chung, phi giai cấp. Dân chủ tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và trình độ dân trí trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. C. Mác đã chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”. Theo V.I. Lê-nin, điều cốt tử nhất khi bàn đến vấn đề dân chủ là phải trả lời được câu hỏi, dân chủ của ai, cho ai và vì ai? Tự do cho ai và vì ai? Bởi vì, trong xã hội có giai cấp, dân chủ, tự do đối với bọn bóc lột có nghĩa là để áp bức những người bị bóc lột.
Từ lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, nền dân chủ tư sản là một nấc thang đánh dấu sự phát triển đáng kể của dân chủ, nhưng toàn bộ thiết chế của nền dân chủ tư sản, từ việc tổ chức nhà nước đến các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đều chỉ nhằm mục đích cao nhất là bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư sản, bảo vệ quyền sở hữu, lợi ích của giai cấp tư sản, truyền bá tư tưởng tư sản chống lại tư tưởng tự do, dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Theo V.I. Lê-nin, nền dân chủ tư sản là nền dân chủ của một thiểu số những kẻ giàu có, dân chủ của giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản, vì giai cấp tư sản chứ không phải dân chủ cho đa số nhân dân lao động. Còn dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thay thế dân chủ tư sản trong nấc thang phát triển cao hơn của xã hội loài người tuân theo quy luật khách quan. Đó là nền dân chủ “gấp triệu lần” dân chủ tư sản. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện trên các phương diện chủ yếu: 1- Là nền dân chủ của nhân dân lao động, vì nhân dân lao động, thể hiện ở việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân lao động; 2- Dân chủ xã hội chủ nghĩa thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do được bảo đảm về mặt pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; 3- Dân chủ xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ý thức - tư tưởng, trong đó nổi bật là sự tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào công việc quản lý nhà nước và xã hội thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tiêu chí cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân là chủ và làm chủ.
Xét từ bản chất của dân chủ tư sản - thứ “dân chủ” mà các thế lực thù địch đang muốn áp đặt vào Việt Nam và tính ưu việt của dân chủ xã hội chủ nghĩa, thì việc lựa chọn tất yếu ở Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận dân chủ tư sản.
Trên phương diện thực tiễn, dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Chúng ta đã và đang hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quan điểm cho rằng, phải có đa đảng mới “có dân chủ và phát triển” là hoàn toàn sai lầm. Trên thực tế, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và kém dân chủ; dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có không ít nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, có những nước chỉ có một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ được bảo đảm, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng rằng, đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn”.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc ra sức hy sinh, phấn đấu cho nền dân chủ cao đẹp nhất mà loài người từ xưa đến nay khát khao vươn tới - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chín mươi năm qua, với tư cách một đảng mác-xít chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu của các thế lực thù địch khi cổ xúy cho cái gọi là “dân chủ” là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ thành quả cách mạng, hướng lái đất nước theo nền dân chủ tư sản, tước đi quyền làm chủ của nhân dân đã giành được bằng xương máu của nhiều thế hệ. Để không xảy ra những hậu quả tai hại đó, thì ở Việt Nam hiện nay nhất thiết không cần và không thể chấp nhận cái gọi là “dân chủ” mà các thế lực thù địch thường xuyên rêu rao, kích động!
Một số vấn đề rút ra liên quan đến hiệu ứng mạng xã hội về dịch Covid-19
Một là, các cá nhân, tổ chức có uy tín và
trách nhiệm trên thế giới đều có chung nhận định: Việt Nam đã trở thành một
hình mẫu quyết tâm khống chế dịch bệnh trong điều kiện nguồn lực có hạn. Việt
Nam đã nhạy bén phát hiện từ sớm nguy cơ từ đại dịch COVID-19 và chủ động huy
động có hiệu quả các nguồn lực để đối phó với dịch bệnh. Việt Nam là quốc gia
đã nhanh chóng nắm bắt và sử dụng hiệu quả “vai trò của truyền thông và công
nghệ thông tin”, “tính ưu việt của hệ thống y tế cơ sở”, “sức mạnh của tinh
thần đoàn kết xã hội”, “kích hoạt sớm hệ thống phản ứng”, và sử dụng “cách tiếp
cận toàn xã hội dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ”…
Hai là, từ góc nhìn của xã hội học, đại
dịch COVID-19 thực sự là một thách thức đối với Việt Nam và thế giới; đòi hỏi
không chỉ trình độ nghiên cứu thuốc chữa, khả năng sản xuất vắc-xin, tiềm lực
sản xuất ra các trang thiết bị, vật tư y tế cần thiết mà còn đòi hỏi sự nhạy
bén, chủ động, biết cách phòng, chống và không hoang mang, lo lắng thái quá,
đặc biệt, đòi hỏi phải có sự chung sức, đồng lòng của toàn xã hội, thực hiện
tốt các chỉ đạo, khuyến cáo trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Do đó,
phương châm của Đảng, Nhà nước là, nâng cao ý thức phòng dịch, quyết liệt chống
dịch, nhưng cần bình tĩnh, lạc quan và thực hiện nghiêm túc, tự giác các chỉ
thị là hoàn toàn phù hợp và hiệu quả.
Ba là, cần quan tâm hơn trong nghiên cứu phát triển chuyên ngành
xã hội học y tế và sức khỏe; đồng thời hướng đến nghiên cứu liên ngành để phát
triển các lĩnh vực: Y học xã hội; y tế công cộng; chính sách y tế… Điều này sẽ
tạo cho ra sức mạnh tổng hợp, chủ động hơn trong việc ứng phó với các vấn đề
liên quan đến dịch bệnh, sức khỏe, y tế của đất nước trong tiến trình phát
triển và hội nhập với thế giới.
Bốn là, đại dịch COVID-19 là cuộc khủng
hoảng về dịch bệnh chưa từng có, do vậy cần phải có những ứng phó và giải pháp
đồng bộ, hệ thống và đặc biệt. Xã hội học là một khoa học rất quan tâm đến việc
vận dụng cách tiếp cận thiết chế xã hội để giải thích các hiện tượng của đời
sống xã hội. Do vậy, đề xuất các giải pháp trong phòng, chống đại dịch COVID-19
cần được phân tích một cách tổng thể từ chính hệ thống các thiết chế xã hội có
liên quan, đó là: thiết chế y tế, thiết chế pháp luật, thiết chế chính trị,
thiết chế kinh tế, thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục, thiết chế đạo đức,
thiết chế văn hóa, thiết chế khoa học, thiết chế truyền thông, thiết chế dư
luận xã hội… Thực tiễn cho thấy năng lực để ứng phó thành công với đại dịch
dường như không hẳn chỉ là trình độ phát triển cao của thiết chế y tế mà chính
là vấn đề công bằng, tạo ra cơ hội tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe công bằng
cho mọi người dân của thiết chế y tế...
Năm là, chúng ta cần phải đưa ra những dự
báo chính xác để góp phần xây dựng kế hoạch hành động sau đại dịch COVID-19
nhằm các mục tiêu: bảo đảm an sinh xã hội, tái cấu trúc các quan hệ xã hội...,
góp phần giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước





