Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ SỤP ĐỔ MÔ HÌNH CNXH Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN NAY


Từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều học giả trên thế giới, nhiều chính khách và các Đảng cộng sản đã có lập trường chính trị khác nhau về sự kiện này. Các thế lực thù địch Phương Tây phấn khởi cực độ chúc mừng nhau, tha hồ xuyên tạc và phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin họ cho rằng chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chủ nghĩa cộng sản sẽ tiêu vong hoàn toàn; chủ nghĩa xã hội không thể thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong hàng ngũ những người cộng sản có người nhận thức mơ hồ và cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội là kết quả “đẻ non” chưa có sự chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cho nó và họ thiếu lòng tin đối với tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Một số khác cho rằng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã là do chủ nghĩa cơ hội xét lại trong Đảng cộng sản đã thắng thế...làm cho chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi toàn diện mà không mất viên đạn nào.

Dưới các góc độ nhìn nhận nào cũng đều chung quy do yếu kém của công tác xây dựng đảng và sự lũng loạn của nhóm người cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo cao nhất Đảng cộng sản Liên xô mà đứng đầu là Goócbatrốp với tư duy mới “cải tổ” gây ra: “Goócbatrốp đã dốc ra không ít nỗ lực để làm suy yếu Đảng cộng sản Liên Xô, làm tiêu tan đội ngũ cán bộ, tư tưởng và tổ chức của Đảng, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội”. Nguyên nhân cơ bản bắt đầu từ sự từ bỏ những nguyên tắc xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Biểu hiện trên các nội dung sau đây:

Thứ nhất, tư tưởng của đảng rất hỗn loạn, hiểu sai về nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Trước hết, về công tác xây dựng đảng, phải phân biệt Đảng với toàn bộ giai cấp, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác ngộ cách mạng nhất của giai cấp, đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động viên, tổ chức quần chúng hành động cách mạng. Đảng phải cải tổ toàn bộ công tác của mình, không được hạ thấp Đảng ngang trình độ của quần chúng bình thường. Lênin viết: “Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp...Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy”, “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Đối với người đảng viên Đảng cộng sản, điều đòi hỏi đầu tiên về tư cách là phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có trình độ lý luận nhất định về chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm được đường lối, chính sách của Đảng. Theo Lênin, Đảng cộng sản phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”, vai trò tiên phong của Đảng được thể hiện về mặt tổ chức và sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong hoạt động thực tiễn. Lênin đã chỉ ra sai lầm cơ bản của phái Mensêvích là phạm phải chủ nghĩa cơ hội trên những vấn đề tổ chức, đánh giá thấp ý nghĩa quan trọng của tổ chức trong cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản. Đảng phải được tổ chức chặt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Đảng tồn tại không chỉ với những sự thống nhất về cương lĩnh và sách lược, mà còn ở sự thống nhất về mặt tổ chức, Lênin chỉ ra: “Sự thống nhất trong những vấn đề cương lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để đảm bảo sự thống nhất của đảng... Muốn đạt được sự thống nhất trên đây, thì còn phải có sự thống nhất về tổ chức nữa”. Đảng phải là một bộ phận có tổ chức chặt chẽ của giai cấp công nhân, đảng viên phải tham gia hoạt động trong một tổ chức của Đảng, phải chịu sự lãnh đạo và kiểm soát của tổ chức, trong Đảng phải có kỷ luật tập trung. Lênin đã nhận thấy “tổ chức” là nguồn sức mạnh vô địch của giai cấp công nhân. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Cuộc đấu tranh của Lênin chống chủ nghĩa Mensêvích cũng chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II trên vấn đề tổ chức và đặt cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng Đảng cộng sản về mặt tổ chức.

Do yếu kém của công tác xây dựng đảng và sự lũng loạn của nhóm người cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo cao nhất Đảng cộng sản Liên xô mà đứng đầu là Goócbatrốp với tư duy mới “cải tổ” gây ra sự sụp đổ của Đảng: “Goócbatrốp đã dốc ra không ít nỗ lực để làm suy yếu Đảng cộng sản Liên Xô, làm tiêu tan đội ngũ cán bộ, tư tưởng và tổ chức của Đảng, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội”.

Thứ hai, Đảng cộng sản Liên xô đã buông lỏng sự lãnh đạo đối với hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó. Từ chỗ chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng, là một bước phát triển về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, được trang bị lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó trong hệ thống chính trị chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”; “Về nguyên tắc, Đảng cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”. Đảng phải lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước chuyên chính vô sản trong xây dựng xã hội mới; Đảng phải phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng là hạt nhân lãnh đạo, song chuyên chính vô sản không thể được thực hiện chỉ bằng lực lượng của Đảng mà còn phải nhờ ở những tổ chức chính trị xã hội, đặc biệt là Đảng phải chăm lo đến lợi ích và phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực. Trong hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước là một bộ phận hợp thành rất quan trọng. Nhà nước gắn liền với Đảng, với quần chúng đông đảo trên lĩnh vực quản lý xã hội, quản lý kinh tế, là vũ khí mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ của hệ thống chính trị. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này và còn làm ngược lại biểu hiện: Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu sức mạnh, tập trung cao độ bao biện làm thay Nhà nước và của cả hệ thống chính trị, mất dân chủ trong hoạt động của Đảng, mở đường cho những phần tử phản động phá hoại chính quyền, độc đoán, chuyên quyền đưa đất nước trở lại con đường tư bản chủ nghĩa.

Thứ ba, cán bộ của đảng thoái hóa, biến chất xa rời quần chúng nghiêm trọng, thiếu tổng kết, rút kinh nghiệm, không trau dồi bổ sung lý luận trong Đảng.

Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đảng phải xứng đáng vai trò đội tiên phong và lãnh tụ chính trị của giai cấp vô sản. Đảng phải là bộ phận có ý thức giác ngộ nhất của giai cấp, là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản. Do đó phải tuyển lựa đảng viên một cách chặt chẽ, người đảng viên phải thực sự là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp vô sản, phải phân biệt đảng viên với người cảm tình đảng. Việc phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố Đảng, hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau. Làm tốt công tác phát triển Đảng có ý nghĩa thiết thực góp phần củng cố Đảng. Phát triển Đảng đúng tiêu chuẩn, đúng phương hướng, qua đó nâng cao chất lượng đảng viên, đó là việc làm cần thiết để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời “Phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu nhược...”.

 Như vậy, muốn làm cho đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, một mặt kết nạp những chiến sĩ ưu tú, đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Nạn cửa quyền hách dịch với quần chúng nhân dân không nắm được nguyện vọng của dân, không tôn trọng ý kiến nhân dân, chuyên quyền, độc đoán cá nhân, xa rời quần chúng nhân dân. Cán bộ lãnh đạo tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi ở mức độ khác nhau. Đảng cộng sản Liên Xô đã mất đi hình ảnh của những người cộng sản chí công vô tư suốt đời phục vụ nhân dân, vào giờ phút lâm nguy quần chúng nhân dân cũng không chia sẻ với khó khăn của Đảng.

          Thứ tư, nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng bị phá hoại

Theo Mác và Ăngghen tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung dân chủ, chế độ tập trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một đảng vô sản kiểu mới. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất được chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh, làm cho mọi chủ trương, đường lối được thực hiện một cách có hiệu quả, thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp phần ngăn ngừa sự phá hoại của các phần tử không kiên định, vô chính phủ, cơ hội chủ nghĩa. Đảng muốn lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, muốn có sức mạnh, Đảng phải có sự thống nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng trước hết phải có cương lĩnh chính trị, và sau đó phải có tổ chức chặt chẽ, làm điều đó sẽ tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ở trong Đảng. Ngoài hai yếu tố cương lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức chặt chẽ, để nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện đúng đắn, Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một cơ quan chỉ đạo thống nhất, Đảng phải có một kỷ luật sắt tự giác, nghiêm minh. Lênin khẳng định: “Từ chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan trung ương, tức là từ chối không muốn làm người đảng viên, tức là phá hoại đảng”. Tập trung đi liền với dân chủ, Đảng phải có dân chủ, nếu không có dân chủ sẽ có nguy cơ thoái hoá thành tổ chức quan liêu. Không thể có dân chủ mà thiếu tập trung và ngược lại không thể có tập trung mà thiếu dân chủ. Yêu cầu ý thức giác ngộ của đảng, lòng trung thành đối với sự nghiệp cách mạng, phải liên hệ, gần gũi với quần chúng lao động và được quần chúng tin tưởng. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Vấn đề nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Liên Xô bị phá hoại làm cho đảng mất khả năng lãnh đạo, mà ngay cả mâu thuẫn trong đảng cũng không giải quyết nổi. Tệ sùng bái cá nhân, độc đoán chuyên quyền, từ những năm 1930 đã phá hoại pháp chế dân chủ làm tổn thương nghiêm trọng hình ảnh của chủ nghĩa xã hội…

Thứ năm, không thực hiện đúng: Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.

Sức mạnh của Đảng là sự đoàn kết thống nhất: đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự thống nhất nội bộ Đảng là cơ sở để thống nhất giai cấp vô sản, là điều kiện tất yếu để giai cấp vô sản giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng gay go ác liệt giành chính quyền và giữ vững chuyên chính vô sản. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, từ sự kết cấu chặt chẽ của Đảng. Muốn đưa cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đến thắng lợi, Đảng “Phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”, đồng thời đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch, vô tận của Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp.

Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng: sự mất đoàn kết thống nhất đội ngũ trong Đảng, mất đoàn kết toàn dân. Đảng cũng như mỗi đảng viên không phát hiện và sửa chữa sai lầm, không thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao trí tuệ, không kịp thời giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng...

Thứ sáu, Đảng không liên hệ mật thiết với quần chúng, quan liêu, xa rời quần chúng.

Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Quần chúng tin tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách mạng, đồng thời Đảng làm hết sức mình để phát huy vai trò và khả năng sáng tạo không bao giờ cạn của quần chúng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ với nhân dân, cũng như sức mạnh dời non lấp biển của nhân dân bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã chứng minh: mối liên hệ với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nếu không liên hệ với quần chúng thì Đảng không là cái gì hết. Lênin viết: “Đội tiền phong chỉ làm tròn được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên minh với những người không phải là đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau, thì không thể nói tới một thành công nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả”. Củng cố mối liên hệ này là vấn đề thuộc bản chất của Đảng cộng sản, thiếu điều kiện này không những không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn đến nguy cơ mất chính quyền. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Đảng cộng sản Liên xô đã xa rời mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, không phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực thì quan liêu không hướng dẫn quần chúng thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Trong Đảng nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, nhất là khi đảng viên có chức, có quyền, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện rơi vào tình trạng thoái hoá, biến chất, xa dần với nhân dân. Vì vậy, đã làm tiêu vong tổ chức Cộng sản từ gốc rễ của nó, đúng như lời cảnh báo của Lênin đối với các Đảng cộng sản và đội ngũ đảng viên cộng sản.

 Thứ bảy, từ bỏ tính quốc tế của Đảng cộng sản.

Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chính xuất phát từ vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân hiện đại mà khi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của giai cấp công nhân Mác và Ăngghen đã đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, khi nền sản xuất phát triển, sự tồn tại của chế độ sở hữu tư bản tư nhân không còn phù hợp, nó tất yếu sẽ bị thay thế bởi chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, từ đó tạo nên mối đoàn kết giữa các dân tộc. Đúng như Lênin khẳng định: “Sự phát triển của trao đổi quốc tế và của nền sản xuất cho thị trường toàn thế giới đã tạo ra một mối quan hệ hết sức chặt chẽ giữa tất cả các dân tộc trong thế giới văn minh, khiến cho phong trào công nhân hiện đại phải trở thành và từ lâu đã trở thành một phong trào quốc tế”. Người nhấn mạnh: “Chỉ có người vô sản mới có khả năng xoá bỏ sự cách biệt giữa các dân tộc, chỉ có giai cấp vô sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh em giữa các dân tộc khác nhau”. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Tính quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác- Lênin; Đảng định ra đường lối, chiến lược, sách lược đối nội và đối ngoại; quan tâm giáo dục đội ngũ đảng viên và quần chúng lao động về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và “Liên minh với những người cách mạng trong các nước tiên tiến và với tất cả các dân tộc bị áp bức chống bọn đế quốc chủ nghĩa thuộc bất cứ loại nào, đó là chính sách đối ngoại của giai cấp vô sản”. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: ngay trong Đảng đã từ bỏ chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đảng cộng sản Liên xô đã mắc phải chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin về đoàn kết quốc tế.

Tóm lại, “Sự phản bội của Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô đã làm cho đất nước chúng ta, nhân dân chúng ta phải trả giá quá đắt”.

Bài học về sự thất bại của Đảng Cộng sản Liên Xô có nhiều trong đó có bài học về xây dựng Đảng kiểu mới theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đó là công tác xây dựng Đảng mácxít chân chính. Vì vậy, khẳng định trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam phải tăng cường xây dựng và chỉnh đốn đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã luôn chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng để thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng của mình. Người chỉ rõ: “việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”. Để thực hiện phương hướng đó cần nắm vững và thực hiện có hiệu quả các yêu cầu sau:

Một là, phải kiên định lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trong Đảng phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.

 Thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch vững mạnh theo lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình nhằm giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Phải phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, với khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo đời sống của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Hai là, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta đặt ra yêu cầu phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để lãnh đạo hệ thống chính trị, nhất là đối với Nhà nước có chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối.  Nhà nước thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện, làm thay Nhà nước.

Ba là, phải xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, thông qua phong trào cách mạng của quần chúng để làm tốt công tác xây dựng Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, càng phải tăng cường vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Đảng là người lãnh đạo quần chúng và phong trào cách mạng của quần chúng, nhưng cũng chính từ quần chúng và phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng cũng mạnh và trưởng thành lên. Hiện nay, mối liên hệ trên cần có sự bổ sung nội dung, yêu cầu mới cao hơn, phải thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy đó làm động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; quan tâm đến lợi ích của quần chúng, chăm lo đến đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng tự giác thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và đấu tranh bảo vệ đường lối, chính sách đó có hiệu quả.

Bốn là, phải bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.

Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng hiện nay nhằm góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Để bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến hành bằng nhiều biện pháp, trong đó, phải thường xuyên kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các hiện tượng tiêu cực trong Đảng. Phải căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng mà tăng cường, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, lý luận nâng cao trình độ trí tuệ, xây dựng lập trường giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên, củng cố sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Đảng. Công tác kết nạp đảng viên nhất thiết phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn, thông qua tự phê bình và phê bình để mọi đảng viên ra sức rèn luyện, học tập, có đủ phẩm chất, kiến thức và năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, mất đoàn kết, bè phái, tham nhũng.

Năm là, phải giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến  đạo đức cách mạng, tư tưởng về đạo đức cách mạng của Người đã thực sự trở thành tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh: “Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam với tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đạo đức cách mạng thể hiện ở  mục tiêu cách mạng. Mục tiêu cao cả nhất của  Đảng cũng như của mỗi đảng viên là giải phóng dân tộc, đồng thời các tiêu chí đó cũng chỉ đạo hoạt động của Đảng, tư cách đạo đức cách mạng của đảng viên phải được thể hiện trên thực tế thì Đảng mới có sức mạnh.

Tóm lại, từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở  Liên Xô và Đông Âu, cho thấy các Đảng cộng sản cầm quyền và Đảng cộng sản Liên Xô đã nhận thức và vận dụng máy móc giáo điều chủ nghĩa Mác- Lênin, rơi vào duy tâm, chủ quan duy ý chí, xem nhẹ giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa, xét lại chủ nghĩa Mác- Lênin, xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Vì vậy, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đường lối chính trị độc lập tự chủ đúng đắn, phải luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, tăng cường giáo dục đạo đức lối sống xã hội chủ nghĩa, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

 

  

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI TA TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

 

Chất lượng chính trị là một phạm trù mang tính xã hội, giai cấp và lịch sử. Mỗi tổ chức cụ thể có những yêu cầu, nội dung và quan niệm cụ thể về chất lượng chính trị tương ứng với mục đích, nội dung, nhiệm vụ, chức năng, phương thức hoạt động của tổ chức đó. Chất lượng chính trị của quân đội là chất lượng của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được thể hiện ở sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân; ở bản lĩnh chính trị vững vàng; ở sự trong sạch về chính trị, đạo đức, lối sống; ở sự sẵn sàng hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào dù khó khăn, gian khổ đến mấy, dù có phải hy sinh đến tính mạng của mình; kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân. Chất lượng chính trị của quân đội có mối quan hệ thống nhất, biện chứng với chất lượng chính trị quân nhân, là sự biểu hiện cụ thể về chất lượng chính trị của mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Chất lượng chính trị của mỗi tổ chức, mỗi con người cao hay thấp đều phản ánh chất lượng chính trị của quân đội. Vì thế, nâng cao chất lượng chính trị quân đội chính là nâng cao chất lượng chính trị của từng quân nhân trong quân đội.

Chất lượng chính trị là nhân tố cơ bản nhất trong chất lượng tổng hợp của quân nhân, quyết định trực tiếp đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ và giữ vai trò chủ đạo tạo nên bản chất nhân cách của họ, là kết quả của quá trình rèn luyện, giáo dục, lựa chọn, thử thách quân nhân theo mục đích chính trị của Đảng đối với quân đội.

Nội dung chất lượng chính trị quân nhân được nhận biết trong sự tồn tại tổng hợp của các thành phần tạo nên bản chất nhân cách của họ. Trước hết, được biểu hiện ở lai lịch chính trị, nguồn gốc xuất thân của họ. Đây là những yếu tố ban đầu được xem như điều kiện tiền đề để xem xét mặt chính trị của mỗi con người. Tất cả các vấn đề về nguồn gốc giai cấp, quan hệ xã hội của bản thân và gia đình, quá trình tham gia các hoạt động chính trị-xã hội... đều tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý chí của quân nhân; chi phối đáng kể đến xác định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, quan hệ đồng chí đồng đội, sự trung thành, tận tụy của họ. Như vậy, tự thân lai lịch chính trị cũng đã nói lên hàm lượng chính trị của mỗi con người, hơn nữa nó còn đưa đến những thuận lợi hoặc khó khăn trong quá trình xây dựng bản chất cách mạng của mỗi cán bộ, chiến sĩ.

Phẩm chất chính trị, năng lực hoạt động chính trị là những thành tố đặc biệt quan trọng cấu thành chất lượng chính trị quân nhân. Được xem như phẩm chất xã hội cơ bản, chủ đạo trong hệ thống nhân cách quân nhân, phản ánh chất lượng, giá trị của quân nhân về mặt nhận thức chính trị-xã hội, giác ngộ cách mạng, giác ngộ giai cấp. Phẩm chất đó bao gồm một hệ thống các phẩm chất về ý thức chính trị, trách nhiệm chính trị, về thái độ, hành vi chính trị, được biểu hiện ở sự kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, tin tưởng vững chắc vào CNXH; ở lòng yêu quê hương, đất nước, yêu mến quân đội, gắn bó với nghề nghiệp quân sự; thái độ đúng đắn dứt khoát với kẻ thù... Còn năng lực hoạt động chính trị được xem như thước đo đánh giá về khả năng tư duy chính trị, xử trí các tình huống chính trị của quân nhân, biểu hiện ở tư duy chính trị sắc sảo, nhạy bén, khả năng nhận thức, giải quyết nhanh, chính xác các vấn đề về chính trị, không dao động, mơ hồ, không bị mất phương hướng chính trị trong những tình huống gay go, phức tạp.

Phẩm chất đạo đức quân nhân là cốt cách tạo nên diện mạo chất lượng chính trị của họ, là kết quả của quá trình giáo dục chính trị, tư tưởng và nhân cách, bộc lộ thông qua quan hệ giao tiếp, ứng xử, hành vi, ý thức, trách nhiệm, lương tâm của quân nhân. Được kiểm nghiệm bằng đức hy sinh, lòng dũng cảm, quan hệ, gắn bó mật thiết với đồng chí, đồng đội, với nhân dân, sống cần kiệm, giản dị, luôn đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân...

Những tiêu chí cơ bản trên hợp thành chất lượng chính trị quân nhân và nó được tồn tại, phát triển trong mối quan hệ trực tiếp với sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chi bộ, sự quản lý điều hành của người chỉ huy, đồng thời cũng thường xuyên chịu sự tác động, chi phối của những biến đổi về kinh tế-xã hội.

Thực tiễn, sau gần 35 năm đổi mới đã khẳng định nền KTTT định hướng XHCN là con đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên CNXH. Tất cả những thành tựu phát triển về kinh tế-xã hội, văn hóa giáo dục, y tế, quốc phòng-an ninh, đối ngoại... đã củng cố vững chắc nền tảng chính trị-xã hội của quân đội, tạo thêm niềm tin, hình thành thái độ tích cực của quân nhân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng của quân đội. Nhiều quân nhân, tập thể quân nhân tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của quân đội, tận tụy cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng đang là những tấm gương điển hình trong phong trào thi đua quyết thắng, có sức lôi cuốn, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần học tập, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân, đại diện xứng đáng về bản lĩnh chính trị vững vàng, chất lượng chính trị cao của quân đội.

Tuy nhiên, KTTT định hướng XHCN cũng đang là một áp lực trực tiếp gây ra những tác động tiêu cực đối với chất lượng chính trị quân nhân.

Kinh tế thị trường làm cho cơ cấu xã hội - cấp biến đổi mạnh mẽ, làm tăng thêm tính phức tạp trong thành phần xuất thân của quân nhân, hạn chế đến sự thống nhất ý chí của bộ đội. Khi quân nhân xuất thân từ những thành phần, giai cấp, tầng lớp, tôn giáo khác nhau thì cũng đem vào quân đội ý thức chính trị, hệ tư tưởng không giống nhau, tạo nên tính không thuần nhất trong nhận thức, tình cảm, cung cách suy nghĩ của quân nhân, gia tăng những khó khăn trong xây dựng ý thức chính trị, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội, dẫn đến một thử thách không nhỏ trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân với tính phức tạp trong thành phần xuất thân của quân nhân, giữa quản lý chặt chẽ bộ đội về tư tưởng với tính phức tạp trong đời sống tinh thần của quân nhân.

Sự phát triển của kinh tế thị trường làm cho định hướng giá trị của quân nhân có những đảo lộn nhất định. Bên cạnh những quan niệm mới, tích cực cũng dễ hình thành những khuynh hướng không có lợi như sự tăng lên của các nhân tố thực dụng, sự thờ ơ về chính trị, xu hướng nghiêng về lợi ích cá nhân, lợi ích vật chất hơn là giá trị tinh thần... Đó là điều kiện để chủ nghĩa cơ hội, cá nhân phát triển, gây khó khăn cho quá trình hình thành, phát triển nhân cách người quân nhân cách mạng, cản trở việc xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội.

Kinh tế thị trường còn tác động mạnh mẽ đến đạo đức của quân nhân, làm tổn thương đến mục đích sống, lẽ sống, lý tưởng sống tốt đẹp, kích thích những quan niệm sống, lối sống, cách sống xa lạ trái với khuôn mẫu nhân cách người quân nhân cách mạng, đi ngược lại giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quân đội. Đây thực sự là một tác nhân nguy hại đối với nâng cao chất lượng chính trị, xây dựng bản chất cách mạng cho quân nhân.

Sự phân tích khách quan tác động của cơ chế thị trường ở nước ta đến chất lượng chính trị của quân nhân đã phần nào nói lên tính cấp thiết phải nâng cao hơn nữa chất lượng chính trị quân nhân trong quân đội. Khẳng định như vậy không có nghĩa là từ trước đến nay chúng ta không chú ý đúng mức nâng cao chất lượng chính trị quân nhân. Song có một thực tế là khi đất nước đẩy mạnh phát triển KTTTĐHXHCN, ở cấp này hay cấp khác, đơn vị này hay đơn vị khác có tình trạng công tác chính trị tư tưởng chưa theo kịp với những diễn biến của tình hình, làm cho những tác động trái chiều của kinh tế thị trường đến mặt chính trị của quân đội có chiều hướng mạnh hơn, ảnh hưởng đến chất lượng chính trị quân nhân, đến khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Do đó, nâng cao chất lượng chính trị quân nhân, đảm bảo cho quân đội sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới là một yêu cầu tất yếu.

Trước hết, phải tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đây là điều kiện tiên quyết để giữ vững phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ. Vấn đề cơ bản là phải nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng trong quân đội, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình, tự phê bình, xây dựng chi bộ thực sự trong sạch vững mạnh, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu cho cán bộ, đảng viên, phấn đấu mỗi cán bộ, đảng viên quân đội dù ở cấp nào, cương vị nào, trong mọi điều kiện đều phải là tấm gương mẫu mực cả về hàm lượng trí tuệ, năng lực công tác lẫn đạo đức, lối sống để quần chúng ngưỡng mộ noi theo.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Phải bám sát vào đối tượng, vào chức trách, nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi đơn vị để có nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp nhằm tạo ra các kênh tác động khác nhau, cùng hướng vào mục tiêu xây dựng bản lĩnh chính trị cho quân nhân, phù hợp với những biến đổi của kinh tế-xã hội. Giáo dục phải chuyển hóa thành quá trình tự giáo dục, phải hướng vào nâng cao giác ngộ XHCN, bản chất giai cấp công nhân, truyền thống, ý thức tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng, của nhân dân và quân đội; nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, tạo chuyển biến mới về chất, về ý chí, niềm tin, trách nhiệm chính trị của mỗi quân nhân. Giáo dục cũng phải tạo nên được nét đẹp trong lĩnh vực hoạt động quân sự, xây dựng môi trường văn hóa, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nếp sông quân sự, đề cao ý thức tập thể, phê phán và đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng, thoái hóa về đạo đức lối sống.

Đảng, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với quân đội và hậu phương quân đội. Trong chiến tranh, cả nước là một chiến trường, động lực chính trị, tinh thần là yếu tố chủ đạo thúc đẩy hành động cách mạng của quân nhân. Nhưng hiện nay, trong cơ chế thị trường, mối quan hệ giữa nâng cao nhân tố chính trị-tinh thần với bảo đảm những lợi ích vật chất, tinh thần đặt ra thường trực, bức xúc và hết sức phức tạp. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với quân đội và hậu phương quân đội sẽ góp phần bảo đảm sự yên tâm của cán bộ, chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tạo định hướng nghề nghiệp, thu hút đông đảo lực lượng ưu tú xã hội vào tham gia nhiệm vụ quốc phòng, kích thích quân nhân hăng hái tự giác rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ trên từng cương vị công tác.

Nâng cao chất lượng chính trị quân nhân trong quân đội trước những tác động của KTTT định hướng XHCN hiện nay là rất quan trọng. Thành công của sự nghiệp này phụ thuộc quyết định vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước, sự quan tâm ủng hộ tích cực của toàn dân, của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm của cấp ủy Đảng và chỉ huy các đơn vị, đồng thời là nhiệm vụ của mọi người, mọi tổ chức trong quân đội; trong đó sự nỗ lực tự giác rèn luyện, phấn đấu của mỗi quân nhân đóng vai trò quyết định nhất.

 

 

MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 

Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển internet và lượng người truy cập, sử dụng các trang mạng xã hội cao nhất thế giới. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động đã nhanh chóng chuyển trọng tâm tấn công, chống phá Đảng, chống phá chế độ sang mặt trận hoàn toàn mới đó là trên không gian mạng.

Thông qua internet và mạng xã hội, chúng đã thiết lập hàng nghìn trang website, blog, tài khoản facebook, trang fanpage…, mà hầu hết máy chủ đặt ở nước ngoài để từ đó tổ chức các chiến dịch tuyên truyền, phát tán với tần suất và số lượng lớn các tin, bài bình luận, video clip có nội dung xấu, độc… Với chiêu bài tăng cường chống phá từ bên trong kết hợp với bên ngoài, thật giả lẫn lộn, mưa dầm thấm lâu chúng chú trọng đăng tải các ý kiến trái chiều, đi ngược chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta, kích động gây dư luận xấu, tạo mâu thuẫn xã hội, qua đó phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận các thành quả đã đạt được, chống phá sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thủ đoạn được các thế lực thù địch sử dụng hết sức tinh vi, gian xảo. Không chỉ tung hỏa mù bằng các thông tin bịa đặt, vô căn cứ, chúng còn sử dụng những thông tin, sự kiện có thật nhưng đã được chỉnh sửa, thêm thắt tình tiết cài cắm thông tin giả một cách khéo léo để ngụy tạo, bóp méo nội dung với ý đồ đen tối để đăng tải tràn lan trên mạng với lời quảng cáo là những “thông tin chính thống”, khai thác từ “nguồn tin cậy, đã được kiểm chứng”; lập ra các trang giả mạo Cổng thông tin của Chính phủ và các bộ, ngành để đăng tải tin sai sự thật nhằm kích động, đánh lừa người sử dụng mạng xã hội, trong đó không chỉ những người dân thiếu thông tin, thiếu hiểu biết hay giới trẻ chưa có được nhận thức đầy đủ về các vấn đề chính trị-xã hội mà ngay cả những người dân có trình độ nhận thức và học vấn nếu thiếu tỉnh táo, cảnh giác.

 

Từ đó mưu đồ tạo dựng nhận thức sai lệch, hoài nghi, gieo rắc ngờ vực, chia rẽ nội bộ, kích

động, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà

nước, cổ súy, tung hô chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa…

CẢNH GIÁC VỚI SỰ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN MỤC TIÊU VÀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 


Trong những năm qua, các thế lực thù địch đã không ngừng phủ nhận, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam, mà một trong những thủ đoạn thâm độc của chúng là cố tình tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hành động này chẳng khác gì cắt đi một cái gốc quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự tiếp nối tư tưởng của học thuyết Mác – Lênin, đây là điều cần khẳng định, không ai có thể xuyên tạc được. Sự tiếp nối ấy được thể hiện ở nhiều nội dung. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào nội dung: mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc Việt Nam.

Đó là mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đã được xác định trong chánh cương vắn tắt, sách lược văn tắt của Đảng năm 1930 là con đường là làm cách mạng tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng. Mục tiêu đó, sau này trong văn kiện của Đảng được diễn đạt bằng nhiều cụm từ như “cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”, “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu này bao gồm nội dung giải phóng dân tộc, nội dung dân chủ và nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Có quan điểm nhận định không đúng về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh lựa chọn. Họ cho rằng, Hồ Chí Minh đã chọn sai, và theo họ, hệ lụy là đất nước Việt Nam lâm vào nhiều cuộc chiến tàn khốc không cần thiết; rằng, vì mục tiêu và con đường mà Hồ Chí Minh chọn không đúng, cho nên đất nước Việt Nam mới tiến chậm chạp trong khi tiềm lực, tiềm năng của đất nước rất lớn, nếu chọn đúng mục tiêu và con đường phát triển, mục tiêu và con đường tư bản chủ nghĩa, thì dân tộc Việt Nam sẽ sớm sánh vai với các cường quốc năm châu, chứ đâu phải như hiện thời, đất nước mới vừa thoát nghèo, vẫn chưa thoát ra khỏi cái bẫy của nước thu nhập trung bình.

Từ thực tiễn phong tào cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã được kiểm nghiệm với nhiều mục tiêu và con đường cứu nước để phát triển như vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp để rồi quay lại củng cố chế độ phong kiến (phong trào Cần vương) thì chính là đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội Việt Nam, vì chế độ phong kiến Việt Nam đã bị khủng hoảng từ thế kỷ XVI, đến thế kỷ XIX lại càng khủng hoảng hơn. Kể cả hình thức cộng hòa đại nghị và quân chủ lập hiến tuy là mới đối với Việt Nam (Dân chủ tư sản) nhưng đã là cũ và lỗi thời đối với thế giới. Các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học...đầy dũng khí nhưng đường lối, phương pháp cách mạng không hợp với đất nước. Do vậy, các phong trào đấu tranh yêu nước đó thất bại nhanh chóng, thất bại không phải chỉ vì Việt Nam có vũ khí thô sơ, kỹ thuật tác chiến thua kém so với lực lượng xâm lược Pháp, mà chủ yếu là do các phong trào yêu nước đó không hợp thời. Xu thế mới, con đường cách mạng vô sản theo lý luận C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nêu lên, Hồ Chí Minh là người duy nhất đáp ứng được yêu cầu của xu thế phát triển này một cách xuất sắc. Nhận thức và hành động của Hồ Chí Minh là nhận thức, hành động của người đại diện, người đi tiên phong của xu thế tất yếu đó.

Sự xuyên tạc hay phủ nhận mục tiêu và con đường cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn chính là sự phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, là sự âm mưu của các thế lực thù địch nhằm đả kích, xuyên tạc lý luận Mác - Lênin, muốn hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Mặc dù sự thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội trên thực tiễn ở liên xô và đông âu nhưng đó không phản ánh bản chất của lý luận về chủ nghĩa xã hội mà C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nêu lên. Cũng tương tự như vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đã có một số bất cập đặt ra, nhưng đó chỉ là những hiện tượng không phản ánh bản chất. Chính vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự lựa chọn của Đảng và dân tộc ta, sự thật không ai có thể xuyên tạc được và Hồ Chí Minh chính là nhân vật lịch sử đặc biệt của cách mạng Việt Nam. Điều làm nên tính đặc biệt của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự tiếp nối của Người trong dòng chảy của chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư cách là dòng chảy văn hóa phát triển nhân loại.

 

NHẬN DIỆN ÂM MƯU TUNG TIN BỊA ĐẶT, SAI SỰ THẬT ĐỂ BÔI NHỌ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 

Tung ra những thông tin bịa đặt, xuyên tạc nhằm nói xấu, bôi nhọ quan chức, “đối thủ” để chống phá, ly gián, làm cho nội bộ đối phương suy yếu, nghi kỵ lẫn nhau là một trong những thủ đoạn chống phá hết sức thâm độc, được sử dụng trên thế giới từ rất lâu. Hiện nay, những người thực hiện thủ đoạn này được đào tạo khá bài bản, cộng thêm sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật nên việc thực hiện nó ngày càng phổ biến và tinh vi hơn. Không thể khuất phục cách mạng Việt Nam bằng vũ lực, các thế lực thù địch chuyển sang chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nước ta. Ở lĩnh vực chính trị tư tưởng, việc nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của cán bộ, đảng viên đã và đang được các thế lực thù địch coi là trọng điểm chống phá, tiến hành chủ động, liên tục, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, xảo quyệt; từ bôi đen lịch sử, phủ nhận sự đóng góp của các lão thành cách mạng, những người có công với cách mạng đến bôi nhọ, nói xấu cán bộ đương chức. Dạng thức phổ biến là: xuyên tạc, bịa đặt về thành phần xuất thân, những việc làm trong quá khứ; xúc phạm đời tư, cuộc sống gia đình, gán ghép các mối quan hệ của cán bộ trong xã hội, thậm chí lấy vấn đề sức khỏe của những cán bộ cấp cao để đơm đặt, suy diễn tình hình chính trị đất nước, v.v. Để tăng hiệu quả, các thế lực thù địch thườngtung thông tin bội nhọ cán bộ vào những thời điểm nhạy cảm về chính trị, như: những sự kiện chính trị trọng đại của đất nước; trước, trong và sau dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn; đại hội Đảng, bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, v.v. Bản chất vẫn là những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm hạ uy tín của cá nhân, gây mất đoàn kết, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gây hoang mang dư luận, nghi ngờ trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để chúng thực hiện các mưu đồ chống phá. Hiện tượng một cá nhân xấu, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, công chức được chúng đánh đồng thành bản chất chế độ xã hội, bản chất của Đảng và Nhà nước ta, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO - QUAN ĐIỂM NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Trong suốt chiều dài lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc hoạch định đường lối chiến lược cũng như trong tổ chức tổ chức thực hiện đường lối đó. Độc lập tự chủ, sáng tạo không chỉ là truyền thống, mà còn là nét nổi bật thuộc về bản lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo biểu hiện rõ nhất ở những lúc cách mạng gặp khó khăn, trước những bước ngoặt của lịch sử.  Từ đó tạo ra cao trào cách mạng rộng khắp để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới, nhờ có tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo, Đảng đã có đường lối cách mạng đúng đắn, luôn chủ động, sáng tạo để đề ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua những khó khăn thử thách, đi đến thắng lợi. Tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng được xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ yêu cầu khách quan của tình hình thế giới cũng như thực tiễn cách mạng nước ta. Nhưng một điều không thể phủ nhận, đó chính là bản lĩnh chính trị, năng lực thiên tài của Đảng ta khi đứng trước những khó khăn thử thách, trước những bước quanh của lịch sử.

Lênin đã từng chỉ rõ: “Một trong những nghệ thuật của cách mạng là sự mềm dẻo, linh hoạt, khi điều kiện khách quan đã thay đổi thì người cách mạng phải nhanh chóng thay đổi sách lược”. Lênin còn nhấn mạnh, chúng ta phải: “Chọn một con đường khác để đi tới đích...nếu con đường cũ, trong một thời gian nhất định nào đó, xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa”.

Trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, trong suốt quá trình cùng Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sâu sắc tư tưởng đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đồng thời Người cũng nêu cao tư tưởng độc lập tự chủ, với phương châm: “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”; “ Muốn người giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Người cũng hết sức phê phán tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài, tư tưởng không dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Người nói: “ Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ, thì không xứng đáng được hưởng độc lập”.

Đảng ta, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn quán triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn xuất phát từ thực tiễn cách mạng. Trên cơ sở đó, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối lãnh đạo, trong phát động phong trào cách mạng, để từ đó tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc, bất chấp những khó khăn thử thách, bất chấp sự can thiệp, chi phối từ bên ngoài, đem lại thắng lợi cho cách mạng.

Thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng cho thấy, trong suốt 90 năm qua, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, để có đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhờ có đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, mà Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã có Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng phát triển vào trào lưu tiến bộ nhất của nhân loại, để cách mạng phát triển đúng hướng từ đó về sau. Khi đó, nếu không có tính độc lập tự chủ, sáng tạo, thì Đảng ta sẽ chấp nhận sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản một cách thụ động. Nhưng nhờ có tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đã đưa ra Cương lĩnh, đường lối phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó chính là việc Đảng xác định con đường tiến lên của cách mạng, phải trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ đó Đảng phát động được cao trào rộng khắp, thu hút, tập hợp được lực lượng cách mạng to lớn, mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn thử thách, song với niềm tin mãnh liệt vào phương hướng mục tiêu đã định, Đảng đã lãnh đạo, xác định mục tiêu đấu tranh phù hợp cho từng giai đoạn, xác định đúng đắn kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, đó là đặt nhiệm vụ đánh đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, từ đó đoàn kết, tập hợp được lực lượng cách mạng to lớn, giành thắng lợi qua các cao trào 1930- 1931; 1936- 1939 đặc biệt cao trào 1939- 1945, để đưa cách mạng Tháng Tám đến thành công. Nghệ thuật khởi nghĩa tháng Tám là một điển hình về tính chủ động, sáng tạo của Đảng. Nhiều nơi chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng nhận thấy những chuyển biến mau lẹ của thời cuộc, căn cứ vào Chỉ thị “ Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Đảng để kịp thời phát động quần chúng nhân dân khởi nghĩa, giành chính quyền.

Sau cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng trong tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”. Các thế lực đế quốc kấu kết với nhau, định thủ tiêu chính quyền non trẻ, tiêu diệt Đảng Cộng sản. Đảng hết sức sáng tạo trong chính sách hoà hoãn, nhân nhượng kẻ thù, khi thì hoà Tưởng để chống Pháp như Đảng tuyên bố tự giải tán ( thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật), chấp nhận nhường 70 ghế đại biểu Quốc hội không qua bầu cử cho bọn Việt quốc, Việt cách...khi thì hoà với Pháp để gạt Tưởng, tránh cho nhân dân ta cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù. Đó là những biện pháp cực kỳ sáng suốt, nhưng Đảng vẫn giữ vững nguyên tắc đó là độc lập, thống nhất tổ quốc.

 Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cũng vậy, nhờ đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đưa ra đường lối đấu tranh đúng đắn, vừa tranh thủ được sự giúp đỡ của quốc tế, nhưng không phụ thuộc vào sự chỉ đạo của họ, để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Nhìn lại cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về Đảng. Mặc dù khi đó bạn bè quốc tế đều khuyên ta không nên đánh Mỹ, trong đó vừa có ý kiến lo lắng cho cuộc chiến không cân sức giữa ta và Mỹ, vừa có ý kiến vì lợi ích cá nhân  họ khuyên ta không nên đánh Mỹ “sợ một đám lửa làm cháy cả một cánh rừng”, nhưng Đảng ta vẫn quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Khi đó Liên Xô, Trung Quốc giúp đỡ ta rất lớn về vật chất, tinh thần, nhưng chúng ta không vì thế mà phụ thuộc vào họ, điều đó vừa chứng tỏ bản lĩnh kiên định, vừa thể hiện tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.

Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, một lần nữa, tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng được phát huy. Mặc dù đất nước mới cơ bản hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhưng Đảng đã độc lập, sáng tạo trong việc đề ra đường lối đúng đắn, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chính sự đúng đắn, sáng tạo đó đã giúp cho cách mạng Việt Nam phát triển đúng quĩ đạo, đi đến thắng lợi. Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhanh chóng đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời là hậu phương lớn chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam, để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tại Đại hội VI, Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, để từ đó đưa ra đường lối đổi mới. Trong bối cảnh đó các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng đang đứng trước khó khăn trên con đường cải tổ, cải cách. Thực hiện đường lối đổi mới, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đạt được nhiều thành quả khả quan, đưa tên tuổi của Việt Nam ngày càng lan tỏa rộng hơn trên bản đồ thế giới.

Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới còn được thể hiện Đảng luôn bám sát thực tế, tôn trọng qui luật  khách quan, vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, nhưng không chịu sức ép, sự áp đặt, không dập khuôn máy móc, không giáo điều bảo thủ. Điều đó được thể hiện trong những năm cuối của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ. Xu hướng đối đầu đã được thay thế bằng đối thoại, hoà bình hợp tác đã trở thành xu thế khá phổ biến trong quan hệ quốc tế. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển, đồng thời đặt ra cho các nước, các dân tộc muốn phát triển phải biết tranh thủ thời cơ, vận dụng thành tựu khoa học. Trong bối cảnh đó, tình hình cải cách, cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng, thế giới mất đi lực lượng đối trọng với Mỹ. Chủ nghĩa đế quốc điên cuồng chống phá cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam, bằng chiến lược diễn biến hoà bình, nhằm làm chuyển hoá dần dần đi đến xoá bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng ta đã có sự điều chỉnh kịp thời, bằng những chủ trương đúng đắn, phù hợp, từ đó đưa sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tính độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta còn được thể hiện, trong quá trình đổi mới Đảng đã thực sự lột xác, kể cả trong tư duy cũng như trong hành động. Tuy nhiên, Đảng luôn quán triệt quan điểm biện chứng, đó chính là phát triển nhưng có kế thừa, Đảng không phủ nhận sạch trơn, mà biết kế thừa những thành tựu, những yếu tố tích cực mà nhân dân ta đã đạt được trong thời gian trước đó. Đồng thời Đảng cũng không phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, không phủ nhận những qui luật phổ biến, trái lại, Đảng luôn quán triệt và vận dụng sâu sắc các nguyên lý, qui luật của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn quá trình đổi mới, từ đó đem lại thành tựu to lớn cho công cuộc đổi mới...

Quá trình đổi mới, Đảng chủ trương phải toàn diện, triệt để, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng phải có hình thức, bước đi thích hợp. Đây chính là bí quyết riêng đi đến thành công của Đảng ta trong công cuộc đổi mới. Sau đường lối đổi mới mà Đại hội VI của Đảng đề ra, chúng ta đã tiến hành đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là cuộc cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra kể cả về lý luận cũng như thực tiễn cần được giải quyết, chúng ta vừa đổi mới, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, sao cho đi đúng qui luật khách quan, phát triển vững chắc cho cách mạng.

Đổi mới là công việc hệ trọng, mang tính sống còn đối với mỗi quốc gia, là công việc hết sức nhạy cảm, đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ xã hội, như mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với tổ chức... Nếu tiến hành không thận trọng, không có hình thức, bước đi vững chắc, sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một bài học tiền nhãn, đắt giá cho các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô mà Đảng ta cần rút ra trong quá trình đổi mới. Chính vì thế, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã biết tập trung đột phá đổi mới vào hai lĩnh vực then chốt, trọng yếu nhất, đó là kinh tế và chính trị, đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng xác định kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực lớn, quyết định sự thay đổi bộ mặt đất nước, quyết định đến nhiệm vụ giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được tiến hành đồng thời, nhưng giai đoạn đầu tập trung sức cho đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước, thận trọng đổi mới chính trị. Bởi chỉ có như thế chúng ta mới giải quyết được mắt khâu quan trọng nhất của công cuộc đổi mới, xét đến cùng cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định sự ra đời và tồn tại của một chế độ xã hội. Kinh tế phát triển sẽ bảo đảm chính trị ổn định, văn hoá, giáo dục phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Trong đổi mới kinh tế, trước hết tập trung vào lĩnh vực tư duy kinh tế, sau đến thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, làm thay đổi toàn bộ những suy nghĩ, những nhận thức trước kia chưa đúng, chưa đầy đủ. Thay đổi cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, bằng cơ chế kế hoạch hoá, từ đó khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chính quá trình đổi mới kinh tế thành công, đã có tác động tích cực đối với việc đổi mới chính trị, đó là sự giữ vững định hướng chính trị trong quá trình đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế là mặt trận đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt, phức tạp nhất, nếu đổi mới kinh tế đạt kết quả sẽ tạo điều kiện cho đổi mới chính trị thắng lợi. Đồng thời kết hợp với đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Trong đổi mới chính trị, thể chế chính trị, vai trò của nhà nước có tác động đến năng lực hiện thực hoá đường lối phát triển kinh tế đất nước. Trong đổi mới chính trị, Đảng chủ trương tập trung vào việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Chính việc giải quyết hài hoà mối quan hệ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị đã giúp cho nền kinh tế đất nước ta tăng trưởng khá, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững.

Đường lối đổi mới độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, là sản phẩm của sự kế thừa lịch sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước. Đồng thời còn là sự kế thừa giá trị tinh hoa nhân loại, biết vận dụng cụ thể vào thực tiễn, yêu cầu đòi hỏi của cách mạng. Đảng ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, trên cơ sở đó đề ra những quyết sách đúng đắn đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Chúng ta không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài, chúng ta không bị ép buộc bởi bất cứ một thế lực nào. Đồng thời, Đảng cũng không dập khuôn bất cứ một mô hình nào vào đường lối đổi mới, mà luôn sáng tạo trong đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, để công cuộc đổi mới thành công.

Trong quá trình đổi mới, Đảng đã tổng kết, rút ra được những bài học quý giá. Điều đó càng thấy rõ trong quá trình đổi mới, Đảng luôn tìm tòi, sáng tạo tìm ra hướng đi thích hợp nhất cho dân tộc, không lúc nào Đảng bằng lòng với thành quả đã đạt được trong thời gian qua, mà mong muốn đạt kết quả cao hơn nữa trong các giai đoạn tiếp theo. Trong các kỳ Đại hội, Đảng luôn đưa ra các bài học kinh nghiệm, các bài học đó đều được đúc rút từ thực tiễn công cuộc đổi mới đó là:

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp.

Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.

Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

Trên cơ sở kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới, bằng những bài học rút ra, đồng thời, Đảng không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Chính vì thế từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng lãnh đạo làm cho đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, kinh tế tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại được rộng mở... bởi Đảng luôn có đường lối, phương pháp lãnh đạo đúng đắn, phù hợp qui luật khách quan, hợp lòng dân. Một bài học thành công trong suốt 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng, đó chính là việc Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo trong hoạch định đường lối. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII sắp tiến hành, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo càng được Đảng cần được phát huy cao hơn nữa, nhằm dự báo chính xác tình hình, đề ra đường lối đổi mới, chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng, xu thế phát triển của quốc tế. Đồng thời biết kế thừa, phát huy kinh nghiệm, kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

 

 

MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LÀM ĐỂ NÂNG CAO TINH THẦN ĐẤU TRANH TRÊN MẠNG

 

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ và Nhân dân về tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Từ đó, làm cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân thấy rõ những tác động tích cực và tiêu cực của internet và mạng xã hội; nâng cao khả năng nhận diện với các thông tin xấu, độc, nguy hại đối với bản thân và xã hội. Đồng thời, xây dựng phong cách văn hóa khi tham gia trên không gian mạng; có ý thức cảnh giác, không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật quốc gia….

Hai là, nắm tình hình, tâm tư, tình cảm, những vấn đề bức xúc của cán bộ và Nhân dân trước các vấn đề được đăng tải trên mạng xã hội có liên quan đến tình hình đất nước; phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, chỉ cập nhật những thông tin chính thống, không xem và chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng.

Ba là, cán bộ, đảng viên thường xuyên học tập theo phong cách Hồ Chí Minh; công tác tuyên truyền cần thường xuyên trao đổi, làm rõ, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn từ những thông tin xấu, độc của các thế lực thù địch, phản động. Cần dựa vào những tài liệu, thông tin chính thống, hướng dẫn của cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể cấp trên để tổ chức cung cấp kịp thời cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức để từ đó đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc trên mạng intrenet, mạng xã hội.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên khi tham gia mạng xã hội phải thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân tại địa phương, cơ quan, đơn vị công tác. Qua đó, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp của mình bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Năm là, trên cơ sở nắm vững và tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần sử dụng trang mạng xã hội như một kênh thông tin, tuyên truyền những thông tin chính thống về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, chủ động và thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân trong tham gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước.

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ VÀ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀ TƯ TƯỞNG XUYÊN SUỐT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Vận dụng học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời kế thừa và phát triển tư tưởng quân sự trong truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề xây dựng lực lượng chính trị và xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: bạo lực cách mạng ở Việt Nam là bạo lực của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; với hai hình thức đấu tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Lực lượng chính trị theo Người, là lực lượng đông đảo của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, là lực lượng cơ bản, nền tảng của cách mạng và là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, là nguồn tiếp sức vô tận cho phát triển quân đội nhân dân. Do đó, muốn xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, phải xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh. Người khẳng định: Muốn có đội quân vũ trang, trước hết phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông, ngày càng mạnh. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị, tự nguyện vác súng thì mới thắng được.

Để xây dựng quân đội cách mạng trong điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã sớm chỉ đạo hình thành các tổ chức, đoàn thể cứu quốc, thông qua hoạt động của các tổ chức, đoàn thể đó lựa chọn những người ưu tú nhất thành lập các đội tự vệ, đội du kích để từ đó chọn lọc số cán bộ và đội viên trung kiên nhất, hăng hái nhất lập ra đội quân chủ lực. Người kêu gọi: Phải nhanh chóng thành lập các tổ chức quần chúng. Nông dân phải vào "Nông dân cứu quốc hội"; trẻ nhỏ vào "Nhi đồng cứu quốc hội"; thanh niên phải vào "Thanh niên cứu quốc hội"; phụ nữ vào "Phụ nữ cứu quốc hội"; công nhân vào "Công nhân cứu quốc hội"… Từ những "hội" đó mà tuyên truyền, giáo dục, thức tỉnh quần chúng đấu tranh, dần dần tổ chức ra các lực lượng vũ trang để bảo vệ cuộc đấu tranh quần chúng, chống đàn áp, khủng bố. Các tổ chức quần chúng cách mạng càng phát triển, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội cách mạng và tiến hành đấu tranh vũ trang.

           Được tổ chức và xây dựng trên cơ sở phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta lúc mới hình thành tuy còn non trẻ, biên chế tổ chức còn nhỏ bé, trang bị, vũ khí còn thô sơ, huấn luyện quân sự còn đơn giản, nhưng do bám chắc vào cơ sở lực lượng chính trị quần chúng rộng khắp, được các tổ chức, đoàn thể cách mạng đùm bọc, nuôi dưỡng nên đã trưởng thành nhanh chóng, trở thành lực lượng xung kích đi đầu trong đấu tranh vũ trang và tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong xây dựng quân đội nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cần phải xây dựng về mọi mặt, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng về chính trị, không ngừng tăng cường bản chất cách mạng cho quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. 

Người nói: "Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại". Đó vừa là yêu cầu khách quan, vừa là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức vũ trang cách mạng, đồng thời là kết quả sự vận dụng sáng tạo lý luận khoa học của học thuyết Mác - Lênin vào xây dựng quân đội cách mạng ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn nhỏ bé. Sở dĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra vấn đề này là vì, theo Người, để làm tròn chức năng của một đội quân chiến đấu, đội quân công tác và lao động sản xuất, quân đội phải được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Song, sự sống còn của quân đội cách mạng là bản chất chính trị, không chăm lo xây dựng chính trị thì một đội quân dù có chính quy, hiện đại bao nhiêu cũng sẽ mất phương hướng, tan rã trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc. Sự mất phương hướng chính trị của quân đội ở một số nước những năm 90 thế kỷ XX đã cho ta bài học kinh nghiệm xương máu. Do đó, phải đặc biệt coi trọng xây dựng quân đội về chính trị, lấy xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở để xây dựng các mặt hoạt động khác, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Quá trình xây dựng quân đội về chính trị, thực chất là quá trình tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và nhân dân lao động. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng quân đội cách mạng; là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, quân đội ta vẫn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước. Quyền lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc về một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, quyền đó phải luôn được giữ vững và tăng cường, có như vậy mới bảo đảm cho quân đội chiến thắng và trưởng thành. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng tổ chức Đảng từ trong các tổ chức vũ trang cách mạng đầu tiên đến Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Sau khi thành lập các đội du kích, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo thành lập chi bộ đảng và bầu ra ban chi ủy để lãnh đạo đội. Trong chỉ đạo xây dựng Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người yêu cầu: Tổ chức của đội phải lấy chi bộ đảng làm hạt nhân lãnh đạo. Bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, có đội viên, có bộ đội là có sự lãnh đạo của Đảng. Quân đội ta hơn 76 năm xây dựng và phát triển, chứng minh rằng: Đảng không phải là ở bên ngoài, mà trở thành máu thịt, thành thuộc tính bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cùng với việc chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, định ra hệ thống chính ủy, chính trị viên để bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Người nhấn mạnh rằng: trong việc xây dựng và phát triển quân đội, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh xây dựng và củng cố công tác chính trị. Nét nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội là "người trước súng sau", "vũ khí là cần, nhưng quan trọng hơn là con người vác súng". Người đã chú trọng chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức quân sự, có trình độ kỹ thuật, chiến thuật, có trình độ văn hoá và sức khoẻ… Nhưng trước hết và trên hết là giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần sâu sắc tư tưởng trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, coi đó là bổn phận thiêng liêng, là trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đội quân cách mạng. Người yêu cầu, trong xây dựng quân đội nói chung và xây dựng quân đội về chính trị nói riêng, Nhà nước cần phải tăng cường vai trò quản lý của mình; phát huy đầy đủ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu là đặc trưng nổi bật, là vấn đề gắn với bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Do đó, coi trọng xây dựng quân đội về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn bao hàm cả vấn đề xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa quân đội với nhân dân. Quân đội phải giữ nghiêm kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, đồng thời phải biết dựa chắc vào dân thì mới hoàn thành nhiệm vụ. Người dạy: Bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Quân đội mà xây dựng được trận địa lòng dân thì bất kỳ việc gì khó cũng làm được và nhất định thắng lợi. Chính nhờ điều này mà trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, quân đội ta đã thu hút rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân tự nguyện đóng góp sức người, sức của để xây dựng quân đội.

Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” với cách mạng Việt Nam, trong đó có âm mưu phi chính trị hóa quân đội. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay đã và đang khẳng định bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, khẳng định nguyên tắc Đảng lãnh đạo "tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt" đối với quân đội là hoàn toàn đúng đắn. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu mới đối với việc nâng cao chất lượng xây dựng quân đội, đặc biệt là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.