Từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều
học giả trên thế giới, nhiều chính khách và các Đảng cộng sản đã có lập trường
chính trị khác nhau về sự kiện này. Các thế lực thù địch Phương Tây phấn khởi
cực độ chúc mừng nhau, tha hồ xuyên tạc và phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác-
Lênin họ cho rằng chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chủ nghĩa cộng sản sẽ tiêu vong
hoàn toàn; chủ nghĩa xã hội không thể thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong hàng ngũ
những người cộng sản có người nhận thức mơ hồ và cho rằng sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội là kết quả “đẻ non” chưa có sự chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cho nó
và họ thiếu lòng tin đối với tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Một số khác cho rằng
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã là do chủ nghĩa cơ hội xét
lại trong Đảng cộng sản đã thắng thế...làm cho chiến lược “diễn biến hoà bình”
của chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi toàn diện mà không mất viên đạn nào.
Dưới các góc độ nhìn nhận nào cũng đều chung quy do yếu kém của
công tác xây dựng đảng và sự lũng loạn của nhóm người cơ hội, xét lại của các
nhà lãnh đạo cao nhất Đảng cộng sản Liên xô mà đứng đầu là Goócbatrốp với tư
duy mới “cải tổ” gây ra: “Goócbatrốp đã dốc ra không ít nỗ lực để làm suy yếu
Đảng cộng sản Liên Xô, làm tiêu tan đội ngũ cán bộ, tư tưởng và tổ chức của
Đảng, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội”. Nguyên nhân cơ bản bắt
đầu từ sự từ bỏ những nguyên tắc xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Biểu
hiện trên các nội dung sau đây:
Thứ nhất, tư tưởng của đảng rất hỗn loạn, hiểu
sai về nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Trước hết, về công tác xây dựng đảng, phải phân biệt Đảng với toàn
bộ giai cấp, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt
chẽ, có giác ngộ cách mạng nhất của giai cấp, đảng là người đưa yếu tố tự giác
vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục,
động viên, tổ chức quần chúng hành động cách mạng. Đảng phải cải tổ toàn bộ
công tác của mình, không được hạ thấp Đảng ngang trình độ của quần chúng bình
thường. Lênin viết: “Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai
cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp...Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt
trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu
chúng ta quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng
hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiền phong có
nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ
tiên tiến ấy”, “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Đối với người đảng viên Đảng
cộng sản, điều đòi hỏi đầu tiên về tư cách là phải giác ngộ lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa, có trình độ lý luận nhất định về chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm được
đường lối, chính sách của Đảng. Theo Lênin, Đảng cộng sản phải là “trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”, vai trò tiên phong của Đảng được
thể hiện về mặt tổ chức và sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong hoạt động thực
tiễn. Lênin đã chỉ ra sai lầm cơ bản của phái Mensêvích là phạm phải chủ nghĩa
cơ hội trên những vấn đề tổ chức, đánh giá thấp ý nghĩa quan trọng của tổ chức
trong cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản. Đảng phải được tổ chức
chặt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật
nghiêm minh. Đảng tồn tại không chỉ với những sự thống nhất về cương lĩnh và
sách lược, mà còn ở sự thống nhất về mặt tổ chức, Lênin chỉ ra: “Sự thống nhất
trong những vấn đề cương lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy
đủ để đảm bảo sự thống nhất của đảng... Muốn đạt được sự thống nhất trên đây,
thì còn phải có sự thống nhất về tổ chức nữa”. Đảng phải là một bộ phận có tổ
chức chặt chẽ của giai cấp công nhân, đảng viên phải tham gia hoạt động trong
một tổ chức của Đảng, phải chịu sự lãnh đạo và kiểm soát của tổ chức, trong
Đảng phải có kỷ luật tập trung. Lênin đã nhận thấy “tổ chức” là nguồn sức mạnh
vô địch của giai cấp công nhân. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai
cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Cuộc đấu tranh của Lênin
chống chủ nghĩa Mensêvích cũng chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
của Quốc tế II trên vấn đề tổ chức và đặt cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây
dựng Đảng cộng sản về mặt tổ chức.
Do yếu kém của công tác xây dựng đảng và sự lũng loạn của nhóm
người cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo cao nhất Đảng cộng sản Liên xô mà
đứng đầu là Goócbatrốp với tư duy mới “cải tổ” gây ra sự sụp đổ của Đảng: “Goócbatrốp đã dốc ra không ít nỗ
lực để làm suy yếu Đảng cộng sản Liên Xô, làm tiêu tan đội ngũ cán bộ, tư tưởng
và tổ chức của Đảng, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội”.
Thứ hai, Đảng cộng sản Liên xô đã buông lỏng sự
lãnh đạo đối với hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ
thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó. Từ chỗ
chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng,
là một bước phát triển về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, được
trang bị lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó trong hệ thống chính trị chỉ
có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo.
Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong
của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ
sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động
và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không
cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”; “Về nguyên tắc, Đảng
cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”.
Đảng phải lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước chuyên chính vô
sản trong xây dựng xã hội mới; Đảng phải phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Đảng là hạt nhân lãnh đạo, song chuyên chính vô sản không
thể được thực hiện chỉ bằng lực lượng của Đảng mà còn phải nhờ ở những tổ chức
chính trị xã hội, đặc biệt là Đảng phải chăm lo đến lợi ích và phát huy quyền
làm chủ của quần chúng nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực. Trong hệ thống
chính trị của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước là một bộ phận hợp thành rất quan
trọng. Nhà nước gắn liền với Đảng, với quần chúng đông đảo trên lĩnh vực quản
lý xã hội, quản lý kinh tế, là vũ khí mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ của hệ thống
chính trị. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo
đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong
thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này và còn làm ngược lại biểu hiện:
Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu sức mạnh, tập trung cao độ bao biện
làm thay Nhà nước và của cả hệ thống chính trị, mất dân chủ trong hoạt động của
Đảng, mở đường cho những phần tử phản động phá hoại chính quyền, độc đoán,
chuyên quyền đưa đất nước trở lại con đường tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, cán bộ của đảng
thoái hóa, biến chất xa rời quần chúng nghiêm trọng, thiếu tổng kết, rút kinh
nghiệm, không trau dồi bổ sung lý luận trong Đảng.
Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ
tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đảng phải xứng đáng vai trò
đội tiên phong và lãnh tụ chính trị của giai cấp vô sản. Đảng phải là bộ phận
có ý thức giác ngộ nhất của giai cấp, là hình thức tổ chức cao nhất của giai
cấp vô sản. Do đó phải tuyển lựa đảng viên một cách chặt chẽ, người đảng viên
phải thực sự là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp vô sản, phải phân
biệt đảng viên với người cảm tình đảng. Việc phát triển Đảng phải đi đôi với
củng cố Đảng, hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau. Làm tốt công tác phát triển
Đảng có ý nghĩa thiết thực góp phần củng cố Đảng. Phát triển Đảng đúng tiêu
chuẩn, đúng phương hướng, qua đó nâng cao chất lượng đảng viên, đó là việc làm
cần thiết để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời
“Phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan
liêu hoá, không trung thực, nhu nhược...”.
Như vậy, muốn làm cho đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch,
có đủ năng lực lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, một
mặt kết nạp những chiến sĩ ưu tú, đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng
những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong
thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Nạn cửa quyền hách
dịch với quần chúng nhân dân không nắm được nguyện vọng của dân, không tôn
trọng ý kiến nhân dân, chuyên quyền, độc đoán cá nhân, xa rời quần chúng nhân
dân. Cán bộ lãnh đạo tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi ở mức độ khác nhau. Đảng
cộng sản Liên Xô đã mất đi hình ảnh của những người cộng sản chí công vô tư
suốt đời phục vụ nhân dân, vào giờ phút lâm nguy quần chúng nhân dân cũng không
chia sẻ với khó khăn của Đảng.
Thứ
tư, nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng bị phá hoại
Theo Mác và Ăngghen tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng
phải được tổ chức theo chế độ tập trung dân chủ, chế độ tập trung dân chủ là
nền tảng tổ chức của một đảng vô sản kiểu mới. Thực hiện chế độ tập trung dân
chủ trong Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất được chính trị, tư tưởng và tổ chức
nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh, làm cho mọi chủ trương, đường lối được
thực hiện một cách có hiệu quả, thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp
phần ngăn ngừa sự phá hoại của các phần tử không kiên định, vô chính phủ, cơ
hội chủ nghĩa. Đảng muốn lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, muốn có sức mạnh, Đảng phải có sự thống
nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng trước hết phải
có cương lĩnh chính trị, và sau đó phải có tổ chức chặt chẽ, làm điều đó sẽ
tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ở trong Đảng. Ngoài hai yếu tố cương
lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức chặt chẽ, để nguyên tắc tập trung dân chủ
thực hiện đúng đắn, Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một cơ quan chỉ đạo
thống nhất, Đảng phải có một kỷ luật sắt tự giác, nghiêm minh. Lênin khẳng
định: “Từ chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan trung ương, tức
là từ chối không muốn làm người đảng viên, tức là phá hoại đảng”. Tập trung đi
liền với dân chủ, Đảng phải có dân chủ, nếu không có dân chủ sẽ có nguy cơ
thoái hoá thành tổ chức quan liêu. Không thể có dân chủ mà thiếu tập trung và
ngược lại không thể có tập trung mà thiếu dân chủ. Yêu cầu ý thức giác ngộ của
đảng, lòng trung thành đối với sự nghiệp cách mạng, phải liên hệ, gần gũi với
quần chúng lao động và được quần chúng tin tưởng. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô
trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Vấn đề nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Liên Xô bị phá hoại làm cho đảng mất
khả năng lãnh đạo, mà ngay cả mâu thuẫn trong đảng cũng không giải quyết
nổi. Tệ sùng bái cá nhân, độc đoán
chuyên quyền, từ những năm 1930 đã phá hoại pháp chế dân chủ làm tổn thương
nghiêm trọng hình ảnh của chủ nghĩa xã hội…
Thứ năm, không thực hiện đúng: Đảng là một khối
thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tự phê bình và phê bình là quy
luật phát triển của Đảng.
Sức mạnh của Đảng là sự đoàn kết thống nhất: đoàn kết thống nhất
là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự thống nhất nội bộ Đảng là cơ sở để thống
nhất giai cấp vô sản, là điều kiện tất yếu để giai cấp vô sản giành được thắng
lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng gay go ác liệt giành chính quyền và
giữ vững chuyên chính vô sản. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ
bản chất của giai cấp công nhân, từ sự kết cấu chặt chẽ của Đảng. Muốn đưa cuộc
cách mạng của giai cấp vô sản đến thắng lợi, Đảng “Phải có một sự thống nhất ý
chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”, đồng thời đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu,
vô địch, vô tận của Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài
đã không thực hiện nguyên tắc này thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng: sự mất
đoàn kết thống nhất đội ngũ trong Đảng, mất đoàn kết toàn dân. Đảng cũng như mỗi đảng viên không phát hiện và sửa
chữa sai lầm, không thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao trí
tuệ, không kịp thời giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng...
Thứ sáu, Đảng không liên hệ
mật thiết với quần chúng, quan liêu, xa rời quần chúng.
Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, là
hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và nhân
dân lao động; kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa
rời quần chúng. Quần chúng tin tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách
mạng, đồng thời Đảng làm hết sức mình để phát huy vai trò và khả năng sáng tạo
không bao giờ cạn của quần chúng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ
với nhân dân, cũng như sức mạnh dời non lấp biển của nhân dân bắt nguồn từ sự
lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn
đã chứng minh: mối liên hệ với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển và
hoạt động của Đảng cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm cho sự
thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nếu không liên hệ với quần chúng
thì Đảng không là cái gì hết. Lênin viết: “Đội tiền phong chỉ làm tròn được sứ
mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt
toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên minh với những người không phải là
đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau, thì không
thể nói tới một thành công nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả”. Củng cố mối liên hệ này là vấn đề thuộc bản
chất của Đảng cộng sản, thiếu điều kiện này không những không thể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn đến nguy cơ mất chính quyền.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc
này biểu hiện: Đảng cộng sản Liên xô đã xa rời mối liên hệ giữa Đảng và quần
chúng, không phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên
hoạt động trong các lĩnh vực thì quan liêu không hướng dẫn quần chúng thực hiện
đường lối, nghị quyết của Đảng. Trong Đảng nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh,
xa rời quần chúng, nhất là khi đảng viên có chức, có quyền, làm cho một bộ phận
cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện rơi vào tình trạng thoái hoá, biến chất, xa
dần với nhân dân. Vì vậy, đã làm tiêu vong tổ chức Cộng sản từ gốc rễ của nó,
đúng như lời cảnh báo của Lênin đối với các Đảng cộng sản và đội ngũ đảng viên
cộng sản.
Thứ bảy, từ bỏ tính quốc tế của Đảng cộng sản.
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng
trong xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chính xuất phát từ vai
trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân hiện đại mà khi nghiên cứu
nguồn gốc, bản chất của giai cấp công nhân Mác và Ăngghen đã đề ra khẩu hiệu:
“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền
đại công nghiệp, khi nền sản xuất phát triển, sự tồn tại của chế độ sở hữu tư
bản tư nhân không còn phù hợp, nó tất yếu sẽ bị thay thế bởi chế độ sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất, từ đó tạo nên mối đoàn kết giữa các dân tộc. Đúng như
Lênin khẳng định: “Sự phát triển của trao đổi quốc tế và của nền sản xuất cho
thị trường toàn thế giới đã tạo ra một mối quan hệ hết sức chặt chẽ giữa tất cả
các dân tộc trong thế giới văn minh, khiến cho phong trào công nhân hiện đại
phải trở thành và từ lâu đã trở thành một phong trào quốc tế”. Người nhấn mạnh:
“Chỉ có người vô sản mới có khả năng xoá bỏ sự cách biệt giữa các dân tộc, chỉ
có giai cấp vô sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh em giữa các dân tộc khác
nhau”. Chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Tính quốc tế của Đảng thể
hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của
học thuyết Mác- Lênin; Đảng định ra đường lối, chiến lược, sách lược đối nội và
đối ngoại; quan tâm giáo dục đội ngũ đảng viên và quần chúng lao động về chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và “Liên minh với những người cách mạng
trong các nước tiên tiến và với tất cả các dân tộc bị áp bức chống bọn đế quốc
chủ nghĩa thuộc bất cứ loại nào, đó là chính sách đối ngoại của giai cấp vô
sản”. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc này biểu hiện: ngay trong Đảng đã từ bỏ chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đảng cộng sản Liên xô đã mắc phải chủ nghĩa
sôvanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin về
đoàn kết quốc tế.
Tóm lại, “Sự phản bội của Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô đã làm
cho đất nước chúng ta, nhân dân chúng ta phải trả giá quá đắt”.
Bài học về sự thất bại của Đảng Cộng sản Liên Xô có nhiều trong đó
có bài học về xây dựng Đảng kiểu mới
theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đó là công tác xây dựng Đảng mácxít
chân chính. Vì vậy, khẳng định trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam phải
tăng cường xây dựng và chỉnh đốn đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã luôn chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đây
là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng để thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng của
mình. Người chỉ rõ: “việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, “thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”, “giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, “giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch”. Để thực hiện phương hướng đó cần nắm vững và thực
hiện có hiệu quả các yêu cầu sau:
Một là, phải kiên định lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; trong Đảng phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân,
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch vững mạnh theo lập trường, quan
điểm của giai cấp công nhân, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình nhằm giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Phải phát huy
dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Tăng cường củng cố mối quan
hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, với khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo đời
sống của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trung thành với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Hai là, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị, đặc biệt là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đặt ra yêu cầu phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng
để lãnh đạo hệ thống chính trị, nhất là đối với Nhà nước có chất lượng và hiệu
quả ngày càng cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối. Nhà nước
thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn; xây dựng
Nhà nước thật sự trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đảng
không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện, làm thay Nhà nước.
Ba là, phải xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, thông qua phong trào cách mạng của
quần chúng để làm tốt công tác xây dựng Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
luôn quan tâm xây dựng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, trong điều kiện Đảng
lãnh đạo chính quyền, càng phải tăng cường vận động quần chúng tham gia xây
dựng Đảng. Đảng là người lãnh đạo quần chúng và phong trào cách mạng của quần
chúng, nhưng cũng chính từ quần chúng và phong trào cách mạng của quần chúng,
Đảng cũng mạnh và trưởng thành lên. Hiện nay, mối liên hệ trên cần có sự bổ
sung nội dung, yêu cầu mới cao hơn, phải thực sự tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, lấy đó làm động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội; quan tâm đến lợi ích của quần chúng, chăm lo đến đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân; giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng tự giác thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và đấu tranh bảo vệ đường lối, chính sách đó có
hiệu quả.
Bốn là, phải bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải
đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng của công tác xây dựng
Đảng hiện nay nhằm góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Để bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến hành bằng nhiều biện
pháp, trong đó, phải thường xuyên kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Mỗi tổ
chức cơ sở đảng phải có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị
hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm
chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các hiện tượng
tiêu cực trong Đảng. Phải căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng mà tăng
cường, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, lý luận nâng
cao trình độ trí tuệ, xây dựng lập trường giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng
viên, củng cố sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Đảng. Công
tác kết nạp đảng viên nhất thiết phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn, thông qua tự phê
bình và phê bình để mọi đảng viên ra sức rèn luyện, học tập, có đủ phẩm chất,
kiến thức và năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, kiên quyết
đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng,
đạo đức lối sống, mất đoàn kết, bè phái, tham nhũng.
Năm là, phải giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến đạo đức cách mạng, tư tưởng về
đạo đức cách mạng của Người đã thực sự trở thành tài sản tinh thần vô giá của
Đảng và của dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh: “Chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức
thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá
nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. Đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam với tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo
của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đạo đức cách mạng thể hiện ở mục tiêu cách
mạng. Mục tiêu cao cả nhất của Đảng cũng như của mỗi đảng viên là
giải phóng dân tộc, đồng thời các tiêu chí đó cũng chỉ đạo hoạt động của Đảng,
tư cách đạo đức cách mạng của đảng viên
phải được thể hiện trên thực tế thì Đảng mới có sức mạnh.
Tóm lại, từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu, cho thấy các Đảng cộng sản cầm quyền và Đảng
cộng sản Liên Xô đã nhận thức và vận dụng máy móc giáo điều chủ nghĩa Mác-
Lênin, rơi vào duy tâm, chủ quan duy ý chí, xem nhẹ giáo dục chủ nghĩa Mác-
Lênin, đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa, xét lại chủ nghĩa Mác-
Lênin, xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Vì vậy, phải
xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đường lối
chính trị độc lập tự chủ đúng đắn, phải luôn coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận, tăng cường giáo dục đạo đức lối sống xã hội chủ
nghĩa, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét