Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ SỤP ĐỔ MÔ HÌNH CNXH Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN NAY


Từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều học giả trên thế giới, nhiều chính khách và các Đảng cộng sản đã có lập trường chính trị khác nhau về sự kiện này. Các thế lực thù địch Phương Tây phấn khởi cực độ chúc mừng nhau, tha hồ xuyên tạc và phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin họ cho rằng chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chủ nghĩa cộng sản sẽ tiêu vong hoàn toàn; chủ nghĩa xã hội không thể thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong hàng ngũ những người cộng sản có người nhận thức mơ hồ và cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội là kết quả “đẻ non” chưa có sự chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cho nó và họ thiếu lòng tin đối với tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Một số khác cho rằng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã là do chủ nghĩa cơ hội xét lại trong Đảng cộng sản đã thắng thế...làm cho chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi toàn diện mà không mất viên đạn nào.

Dưới các góc độ nhìn nhận nào cũng đều chung quy do yếu kém của công tác xây dựng đảng và sự lũng loạn của nhóm người cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo cao nhất Đảng cộng sản Liên xô mà đứng đầu là Goócbatrốp với tư duy mới “cải tổ” gây ra: “Goócbatrốp đã dốc ra không ít nỗ lực để làm suy yếu Đảng cộng sản Liên Xô, làm tiêu tan đội ngũ cán bộ, tư tưởng và tổ chức của Đảng, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội”. Nguyên nhân cơ bản bắt đầu từ sự từ bỏ những nguyên tắc xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Biểu hiện trên các nội dung sau đây:

Thứ nhất, tư tưởng của đảng rất hỗn loạn, hiểu sai về nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Trước hết, về công tác xây dựng đảng, phải phân biệt Đảng với toàn bộ giai cấp, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác ngộ cách mạng nhất của giai cấp, đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động viên, tổ chức quần chúng hành động cách mạng. Đảng phải cải tổ toàn bộ công tác của mình, không được hạ thấp Đảng ngang trình độ của quần chúng bình thường. Lênin viết: “Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp...Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy”, “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Đối với người đảng viên Đảng cộng sản, điều đòi hỏi đầu tiên về tư cách là phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có trình độ lý luận nhất định về chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm được đường lối, chính sách của Đảng. Theo Lênin, Đảng cộng sản phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”, vai trò tiên phong của Đảng được thể hiện về mặt tổ chức và sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong hoạt động thực tiễn. Lênin đã chỉ ra sai lầm cơ bản của phái Mensêvích là phạm phải chủ nghĩa cơ hội trên những vấn đề tổ chức, đánh giá thấp ý nghĩa quan trọng của tổ chức trong cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản. Đảng phải được tổ chức chặt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Đảng tồn tại không chỉ với những sự thống nhất về cương lĩnh và sách lược, mà còn ở sự thống nhất về mặt tổ chức, Lênin chỉ ra: “Sự thống nhất trong những vấn đề cương lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để đảm bảo sự thống nhất của đảng... Muốn đạt được sự thống nhất trên đây, thì còn phải có sự thống nhất về tổ chức nữa”. Đảng phải là một bộ phận có tổ chức chặt chẽ của giai cấp công nhân, đảng viên phải tham gia hoạt động trong một tổ chức của Đảng, phải chịu sự lãnh đạo và kiểm soát của tổ chức, trong Đảng phải có kỷ luật tập trung. Lênin đã nhận thấy “tổ chức” là nguồn sức mạnh vô địch của giai cấp công nhân. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Cuộc đấu tranh của Lênin chống chủ nghĩa Mensêvích cũng chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II trên vấn đề tổ chức và đặt cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng Đảng cộng sản về mặt tổ chức.

Do yếu kém của công tác xây dựng đảng và sự lũng loạn của nhóm người cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo cao nhất Đảng cộng sản Liên xô mà đứng đầu là Goócbatrốp với tư duy mới “cải tổ” gây ra sự sụp đổ của Đảng: “Goócbatrốp đã dốc ra không ít nỗ lực để làm suy yếu Đảng cộng sản Liên Xô, làm tiêu tan đội ngũ cán bộ, tư tưởng và tổ chức của Đảng, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội”.

Thứ hai, Đảng cộng sản Liên xô đã buông lỏng sự lãnh đạo đối với hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó. Từ chỗ chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng, là một bước phát triển về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, được trang bị lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó trong hệ thống chính trị chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”; “Về nguyên tắc, Đảng cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”. Đảng phải lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước chuyên chính vô sản trong xây dựng xã hội mới; Đảng phải phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng là hạt nhân lãnh đạo, song chuyên chính vô sản không thể được thực hiện chỉ bằng lực lượng của Đảng mà còn phải nhờ ở những tổ chức chính trị xã hội, đặc biệt là Đảng phải chăm lo đến lợi ích và phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực. Trong hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước là một bộ phận hợp thành rất quan trọng. Nhà nước gắn liền với Đảng, với quần chúng đông đảo trên lĩnh vực quản lý xã hội, quản lý kinh tế, là vũ khí mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ của hệ thống chính trị. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này và còn làm ngược lại biểu hiện: Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu sức mạnh, tập trung cao độ bao biện làm thay Nhà nước và của cả hệ thống chính trị, mất dân chủ trong hoạt động của Đảng, mở đường cho những phần tử phản động phá hoại chính quyền, độc đoán, chuyên quyền đưa đất nước trở lại con đường tư bản chủ nghĩa.

Thứ ba, cán bộ của đảng thoái hóa, biến chất xa rời quần chúng nghiêm trọng, thiếu tổng kết, rút kinh nghiệm, không trau dồi bổ sung lý luận trong Đảng.

Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đảng phải xứng đáng vai trò đội tiên phong và lãnh tụ chính trị của giai cấp vô sản. Đảng phải là bộ phận có ý thức giác ngộ nhất của giai cấp, là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản. Do đó phải tuyển lựa đảng viên một cách chặt chẽ, người đảng viên phải thực sự là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp vô sản, phải phân biệt đảng viên với người cảm tình đảng. Việc phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố Đảng, hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau. Làm tốt công tác phát triển Đảng có ý nghĩa thiết thực góp phần củng cố Đảng. Phát triển Đảng đúng tiêu chuẩn, đúng phương hướng, qua đó nâng cao chất lượng đảng viên, đó là việc làm cần thiết để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời “Phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu nhược...”.

 Như vậy, muốn làm cho đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, một mặt kết nạp những chiến sĩ ưu tú, đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Nạn cửa quyền hách dịch với quần chúng nhân dân không nắm được nguyện vọng của dân, không tôn trọng ý kiến nhân dân, chuyên quyền, độc đoán cá nhân, xa rời quần chúng nhân dân. Cán bộ lãnh đạo tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi ở mức độ khác nhau. Đảng cộng sản Liên Xô đã mất đi hình ảnh của những người cộng sản chí công vô tư suốt đời phục vụ nhân dân, vào giờ phút lâm nguy quần chúng nhân dân cũng không chia sẻ với khó khăn của Đảng.

          Thứ tư, nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng bị phá hoại

Theo Mác và Ăngghen tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung dân chủ, chế độ tập trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một đảng vô sản kiểu mới. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất được chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh, làm cho mọi chủ trương, đường lối được thực hiện một cách có hiệu quả, thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp phần ngăn ngừa sự phá hoại của các phần tử không kiên định, vô chính phủ, cơ hội chủ nghĩa. Đảng muốn lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, muốn có sức mạnh, Đảng phải có sự thống nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng trước hết phải có cương lĩnh chính trị, và sau đó phải có tổ chức chặt chẽ, làm điều đó sẽ tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ở trong Đảng. Ngoài hai yếu tố cương lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức chặt chẽ, để nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện đúng đắn, Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một cơ quan chỉ đạo thống nhất, Đảng phải có một kỷ luật sắt tự giác, nghiêm minh. Lênin khẳng định: “Từ chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan trung ương, tức là từ chối không muốn làm người đảng viên, tức là phá hoại đảng”. Tập trung đi liền với dân chủ, Đảng phải có dân chủ, nếu không có dân chủ sẽ có nguy cơ thoái hoá thành tổ chức quan liêu. Không thể có dân chủ mà thiếu tập trung và ngược lại không thể có tập trung mà thiếu dân chủ. Yêu cầu ý thức giác ngộ của đảng, lòng trung thành đối với sự nghiệp cách mạng, phải liên hệ, gần gũi với quần chúng lao động và được quần chúng tin tưởng. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Vấn đề nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Liên Xô bị phá hoại làm cho đảng mất khả năng lãnh đạo, mà ngay cả mâu thuẫn trong đảng cũng không giải quyết nổi. Tệ sùng bái cá nhân, độc đoán chuyên quyền, từ những năm 1930 đã phá hoại pháp chế dân chủ làm tổn thương nghiêm trọng hình ảnh của chủ nghĩa xã hội…

Thứ năm, không thực hiện đúng: Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.

Sức mạnh của Đảng là sự đoàn kết thống nhất: đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự thống nhất nội bộ Đảng là cơ sở để thống nhất giai cấp vô sản, là điều kiện tất yếu để giai cấp vô sản giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng gay go ác liệt giành chính quyền và giữ vững chuyên chính vô sản. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, từ sự kết cấu chặt chẽ của Đảng. Muốn đưa cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đến thắng lợi, Đảng “Phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”, đồng thời đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch, vô tận của Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp.

Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng: sự mất đoàn kết thống nhất đội ngũ trong Đảng, mất đoàn kết toàn dân. Đảng cũng như mỗi đảng viên không phát hiện và sửa chữa sai lầm, không thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao trí tuệ, không kịp thời giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng...

Thứ sáu, Đảng không liên hệ mật thiết với quần chúng, quan liêu, xa rời quần chúng.

Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Quần chúng tin tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách mạng, đồng thời Đảng làm hết sức mình để phát huy vai trò và khả năng sáng tạo không bao giờ cạn của quần chúng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ với nhân dân, cũng như sức mạnh dời non lấp biển của nhân dân bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã chứng minh: mối liên hệ với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nếu không liên hệ với quần chúng thì Đảng không là cái gì hết. Lênin viết: “Đội tiền phong chỉ làm tròn được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên minh với những người không phải là đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau, thì không thể nói tới một thành công nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả”. Củng cố mối liên hệ này là vấn đề thuộc bản chất của Đảng cộng sản, thiếu điều kiện này không những không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn đến nguy cơ mất chính quyền. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: Đảng cộng sản Liên xô đã xa rời mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, không phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực thì quan liêu không hướng dẫn quần chúng thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Trong Đảng nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, nhất là khi đảng viên có chức, có quyền, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện rơi vào tình trạng thoái hoá, biến chất, xa dần với nhân dân. Vì vậy, đã làm tiêu vong tổ chức Cộng sản từ gốc rễ của nó, đúng như lời cảnh báo của Lênin đối với các Đảng cộng sản và đội ngũ đảng viên cộng sản.

 Thứ bảy, từ bỏ tính quốc tế của Đảng cộng sản.

Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chính xuất phát từ vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân hiện đại mà khi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của giai cấp công nhân Mác và Ăngghen đã đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, khi nền sản xuất phát triển, sự tồn tại của chế độ sở hữu tư bản tư nhân không còn phù hợp, nó tất yếu sẽ bị thay thế bởi chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, từ đó tạo nên mối đoàn kết giữa các dân tộc. Đúng như Lênin khẳng định: “Sự phát triển của trao đổi quốc tế và của nền sản xuất cho thị trường toàn thế giới đã tạo ra một mối quan hệ hết sức chặt chẽ giữa tất cả các dân tộc trong thế giới văn minh, khiến cho phong trào công nhân hiện đại phải trở thành và từ lâu đã trở thành một phong trào quốc tế”. Người nhấn mạnh: “Chỉ có người vô sản mới có khả năng xoá bỏ sự cách biệt giữa các dân tộc, chỉ có giai cấp vô sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh em giữa các dân tộc khác nhau”. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Tính quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác- Lênin; Đảng định ra đường lối, chiến lược, sách lược đối nội và đối ngoại; quan tâm giáo dục đội ngũ đảng viên và quần chúng lao động về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và “Liên minh với những người cách mạng trong các nước tiên tiến và với tất cả các dân tộc bị áp bức chống bọn đế quốc chủ nghĩa thuộc bất cứ loại nào, đó là chính sách đối ngoại của giai cấp vô sản”. Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên tắc này biểu hiện: ngay trong Đảng đã từ bỏ chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đảng cộng sản Liên xô đã mắc phải chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin về đoàn kết quốc tế.

Tóm lại, “Sự phản bội của Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô đã làm cho đất nước chúng ta, nhân dân chúng ta phải trả giá quá đắt”.

Bài học về sự thất bại của Đảng Cộng sản Liên Xô có nhiều trong đó có bài học về xây dựng Đảng kiểu mới theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đó là công tác xây dựng Đảng mácxít chân chính. Vì vậy, khẳng định trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam phải tăng cường xây dựng và chỉnh đốn đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã luôn chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng để thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng của mình. Người chỉ rõ: “việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”. Để thực hiện phương hướng đó cần nắm vững và thực hiện có hiệu quả các yêu cầu sau:

Một là, phải kiên định lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trong Đảng phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.

 Thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch vững mạnh theo lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình nhằm giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Phải phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, với khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo đời sống của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Hai là, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta đặt ra yêu cầu phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để lãnh đạo hệ thống chính trị, nhất là đối với Nhà nước có chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối.  Nhà nước thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện, làm thay Nhà nước.

Ba là, phải xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, thông qua phong trào cách mạng của quần chúng để làm tốt công tác xây dựng Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, càng phải tăng cường vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Đảng là người lãnh đạo quần chúng và phong trào cách mạng của quần chúng, nhưng cũng chính từ quần chúng và phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng cũng mạnh và trưởng thành lên. Hiện nay, mối liên hệ trên cần có sự bổ sung nội dung, yêu cầu mới cao hơn, phải thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy đó làm động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; quan tâm đến lợi ích của quần chúng, chăm lo đến đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng tự giác thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và đấu tranh bảo vệ đường lối, chính sách đó có hiệu quả.

Bốn là, phải bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.

Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng hiện nay nhằm góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Để bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến hành bằng nhiều biện pháp, trong đó, phải thường xuyên kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các hiện tượng tiêu cực trong Đảng. Phải căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng mà tăng cường, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, lý luận nâng cao trình độ trí tuệ, xây dựng lập trường giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên, củng cố sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Đảng. Công tác kết nạp đảng viên nhất thiết phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn, thông qua tự phê bình và phê bình để mọi đảng viên ra sức rèn luyện, học tập, có đủ phẩm chất, kiến thức và năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, mất đoàn kết, bè phái, tham nhũng.

Năm là, phải giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến  đạo đức cách mạng, tư tưởng về đạo đức cách mạng của Người đã thực sự trở thành tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh: “Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam với tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đạo đức cách mạng thể hiện ở  mục tiêu cách mạng. Mục tiêu cao cả nhất của  Đảng cũng như của mỗi đảng viên là giải phóng dân tộc, đồng thời các tiêu chí đó cũng chỉ đạo hoạt động của Đảng, tư cách đạo đức cách mạng của đảng viên phải được thể hiện trên thực tế thì Đảng mới có sức mạnh.

Tóm lại, từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở  Liên Xô và Đông Âu, cho thấy các Đảng cộng sản cầm quyền và Đảng cộng sản Liên Xô đã nhận thức và vận dụng máy móc giáo điều chủ nghĩa Mác- Lênin, rơi vào duy tâm, chủ quan duy ý chí, xem nhẹ giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa, xét lại chủ nghĩa Mác- Lênin, xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Vì vậy, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đường lối chính trị độc lập tự chủ đúng đắn, phải luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, tăng cường giáo dục đạo đức lối sống xã hội chủ nghĩa, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

 

  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét