Trong thực hiện “diễn
biến hòa bình” chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động trong và
ngoài nước thường xuyên lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, chúng coi đây là
một trong những mũi tiến công chủ đạo nhằm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.
Đáng chú ý trên không gian mạng, chúng trắng trợn xuyên tạc ý nghĩa Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Chúng cho rằng Nhà nước Việt Nam ban hành Luật
“không để phục vụ nhân quyền mà chỉ để phục vụ cho sự cai trị của đảng cộng sản”.
Những người đưa ra luận điệu trên chứng tỏ họ chẳng hiểu gì về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Cần
phải khẳng định rằng, tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền nhân
thân cơ bản của con người. Điều này không chỉ được thể hiện rất rõ ràng trong
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà còn được quy định cụ thể
trong hệ thống luật pháp của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Tại Điều 18 của
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn
ngày 16-12-1966 (Việt Nam đã tham gia Công ước này ngày 24-9-1982), ghi rõ: “1.
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này
bao gồm tự do có theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày
tỏ tín ngưỡng, tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một
cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và
giảng đạo; 2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa
chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng; 3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng
chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này
là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của
công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác.” Còn ở Việt Nam, sau
khi cách mạng Tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính
phủ (9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chính sách “tín ngưỡng tự do và
Lương, Giáo đoàn kết”. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng đã nêu rõ: “Mọi công
dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Đến bản Hiến pháp năm 1959, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được tái khẳng định và mở rộng hơn, trong đó quy
định: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào” (Điều 26). Sau khi đất nước thống nhất, Hiến
pháp năm 1980 đã ghi: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước” (Điều 80). Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Công dân
Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước” (Điều 70). Bước vào thời kỳ đẩy CNH-HĐH và hội nhập
quốc tế, Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28-11-2013, hiến định một
cách toàn diện hơn các quyền chính trị, dân sự của người dân; trong đó quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện khá toàn diện và đầy đủ, đảm bảo dân chủ,
tôn trọng và tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người được thực hành tín ngưỡng và
tôn giáo của mình. Điều 24 Hiến pháp 2013 nêu rõ: “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng
trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật”. Hệ thống các văn bản pháp luật, pháp lệnh, chỉ thị
về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam thường xuyên được chú trọng xây dựng và
hoàn thiện nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và thể chế hóa chủ
trương, chính sách của Nhà nước về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, phù hợp với với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam đã tham gia. Có thể khẳng định rằng pháp luật Việt Nam hiện nay hoàn
toàn phù hợp với những chuẩn mực quốc tế có liên quan đến lĩnh vực này. Chính
điều đó đã đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân phù hợp với
Công ước quốc tế và ngang tầm với luật pháp của nhiều nước có nền pháp chế lâu
đời. Nhà nước Việt Nam không những tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
mà còn giúp đỡ nhân dân thực hiện quyền lợi ấy. Đồng thời cũng như mọi quốc gia
trên thế giới pháp luật Việt Nam sẽ trừng trị nghiêm khắc những kẻ mượn danh
nghĩa tôn giáo để phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền
chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm
đến tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác, hoặc làm những việc khác
trái pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo hộ cơ sở
vật chất như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, điện, đền, trụ sở của tổ
chức tôn giáo, trường lớp tôn giáo; kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng của tín
ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước ta vừa nghiêm cấm việc kỳ thị hoặc xúc phạm người có
tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời cũng nghiêm cấm việc lợi dụng chính sách tôn
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lạm dụng tôn giáo để làm trái pháp luật.
Nếu những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo vi phạm nghiêm trọng pháp luật như gây
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp
đại đoàn kết toàn dân tộc, đến truyền thống văn hóa dân tộc… có thể bị đình
chỉ. Quy định như vậy chính là đảm bảo cho những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
được lành mạnh, phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, đáp ứng những nhu cầu
chính đáng của quần chúng nhân dân, không bị các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
trái với thuần phong, mỹ tục làm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, sức khỏe,
nhân phẩm, tiền bạc của nhân dân…chứ hoàn toàn không phải chỉ để “phục vụ cho
sự cai trị của đảng cộng sản…” như giọng điệu của các thế lực thù địch, phản
động từng xuyên tạc, rêu rao./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét