Vẫn là các phát
ngôn, bài viết đặt ra những câu hỏi nghi ngờ về tính xác thực trong chỉ số phát
triển, từ đó phủ nhận thành tựu các lĩnh vực đời sống xã hội mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đạt được trong năm qua. Họ cho rằng các chỉ số phát triển kinh
tế - xã hội trong năm 2022 “chỉ là ảo”, con số tăng trưởng cao là do “Đảng
thích số đẹp”! Họ xuyên tạc rằng, người dân vẫn bần cùng, khổ cực rồi suy diễn
và quy kết ở Việt Nam “không có hạnh phúc”.
Từ đó, số này tỏ vẻ “quan ngại lo lắng cho đất nước, nhân dân”,
kêu gọi người dân muốn ấm no, muốn giàu có thì phải “dũng cảm đấu tranh”! Bằng
việc đưa ra những hình ảnh có tính đơn lẻ hoặc cắt ghép, một số bài viết cố
tình đánh tráo bản chất, cho rằng đời sống người dân đang ngày càng đi xuống,
ngày càng bần cùng khổ cực, các chỉ số phát triển chỉ là “trò mị dân”! Đây thực
chất là chiêu trò tạo dựng hình ảnh đối lập giữa sự giàu có và nghèo khổ nhằm
kích động chống phá Đảng, Nhà nước, đòi xóa bỏ thể chế chính trị ở nước ta,
hướng lái đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đưa ra những
luận điệu sai trái, xuyên tạc như vậy là vấn đề không mới, những âm mưu, thủ
đoạn được dùng đi dùng lại từ năm này qua năm khác, thuộc về bản chất của các thế
lực thù địch, tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài. Những ngày đầu
năm mới cũng là dịp cả nước kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, do đó những bài viết sai trái, xuyên tạc sự thật, bôi lem tình hình đất
nước, các thế lực chống phá tìm cách hướng lái để quy kết các tồn tại, đói
nghèo, tình trạng tham nhũng, tiêu cực là “do chế độ đảng trị”, từ đó kích động
tư tưởng chia rẽ, bài trừ ngay trong nội bộ. Những bài phỏng vấn hay trò
chuyện, đối thoại với “nhà bất đồng chính kiến” cũng chỉ là trò đánh lạc hướng,
mục đích nhằm phá hoại sự đoàn kết, chung tay của toàn dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; cố tình truyền đi thông điệp sai lệch rằng, đói
nghèo là do độc đảng, tham nhũng là do độc đảng, cổ xuý tư tưởng chống phá và
làm giảm vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác
ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hòa bình, hạnh phúc…” 1 và xuyên suốt tư tưởng, sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của Người là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Đối với
Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH và khảo cứu thực tiễn
xây dựng xã hội trên thế giới cũng như chính từ thực tiễn sự nghiệp đổi mới,
Đảng ta khẳng định xây dựng xã hội hạnh phúc là mục tiêu tối thượng của chế độ
XHCN ở Việt Nam. Quan điểm về xây dựng CNXH vì hạnh phúc của nhân dân đã được
Đảng ta xác định ngay khi ra đời, không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày
càng hoàn thiện. Năm 1945, sau khi giành được độc lập, tiêu ngữ “Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc” được ghi dưới Quốc hiệu Việt Nam cho đến nay không thay đổi nội
dung và hình thức. Trải qua những khó khăn, thăng trầm, biến cố của lịch sử,
Đảng ta vẫn luôn kiên định, quyết tâm xây dựng CNXH vì hạnh phúc cho nhân dân.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta đã bổ sung, phát triển mô hình CNXH của Việt Nam với
những đặc trưng cơ bản, trong đó có đặc trưng: “Con người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” Đến Đại hội XIII, quan điểm xây dựng xã hội
hạnh phúc vì con người trở thành một điểm nhấn quan trọng, xuyên suốt trong các
nội dung văn kiện. Đại hội khẳng định quan điểm nhất quán: “Nhân dân là trung
tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và
lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu
phấn đấu”. Như vậy, chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng khác bản chất so với
bản chất của các chế độ xã hội trong lịch sử vì mục tiêu tối thượng là đem lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hai năm đầu trong nhiệm kỳ Đại hội
XIII, Đảng đã cụ thể hóa thành các chủ trương, xây dựng nhiều chính sách trên
tất cả các lĩnh vực, tạo tiền đề, cơ sở để nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc.
Về kinh tế: Đảng
ta đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất,
tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao; Nghị quyết
số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới nhằm
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhanh, bền vững gắn với bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Tại Hội nghị lần thứ 6 khóa XIII của Đảng đã
ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tất cả
các nghị quyết đều hướng đến mục tiêu phát triển đất nước, đem lại hạnh phúc
cho nhân dân.
Về chính trị: Tại
Hội nghị Trung ương 5, khóa XIII, Đảng ta đã chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Hội nghị BCH Trung ương 6, khóa
XIII ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết số
28-NQ/TW, ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới nhằm hiện thực hóa, cụ
thể hóa quyết tâm xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thực sự
dân chủ để phục vụ lợi ích, hạnh phúc của nhân dân.
Về văn hóa: Đảng ta
tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn
2021-2030.
Về xã hội: Đảng ta
xác định: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội,
an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh
phúc của nhân dân” .
Về kinh tế: tạo dấu
ấn đột phá, trong đó chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm chỉ tăng 3,15%
so với năm 2021 (vượt mục tiêu đề ra); năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu
hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước… GDP bình quân đầu
người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương
4.110USD, tăng 393USD so với năm 2021. Đến nay, Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch
COVID-19. Nikkei Asia (tạp chí uy tín hàng đầu châu Á) đánh giá Việt Nam dẫn đầu
khu vực Đông Nam Á (đứng thứ 8 thế giới) về đà phục hồi sau đại dịch COVID-19.
Hệ thống giáo dục quốc dân phát triển, được UNESCO đánh giá xếp thứ 64/127 nước
trên thế giới, bảo đảm cho mọi công dân được thụ hưởng nền giáo dục công bằng
và tiến bộ. Trong bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022, Việt
Nam tăng 2 bậc, lên vị trí 77 so với năm 2021. Từ đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước ta đến thực tiễn hoạt động đều thể hiện sự quan tâm, chăm lo cho
cuộc sống ấm no, hạnh phúc nhân dân. Đương nhiên, những hạn chế, tồn tại, những
khó khăn trong đời sống kinh tế, xã hội, đặc biệt là tệ tham nhũng, tiêu cực,
sách nhiễu, cửa quyền… vẫn là những thách thức lớn ảnh hưởng đến niềm tin của
người dân và sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, sự đánh giá cần nhìn về tổng
thể và phải thấy được quyết tâm, nỗ lực trong thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước. Những con số về thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong các năm qua là minh chứng rõ ràng, khách quan bác bỏ những luận
điệu sai trái, xuyên tạc. Do vậy, đừng để những định kiến che mờ giá trị thực
tại và tương lai, hãy để người dân Việt Nam tự chấm điểm cho hạnh phúc của
mình!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét