Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CHIẾN LƯỢC"DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH" ĐỐI VỚI VIỆT NAM

 

Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng điểm trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" chống chủ nghĩa xã hội. Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự để xâm lược và muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối cùng đã bị thất bại hoàn toàn. Sau khi sử dụng những đòn tấn công bằng quân sự để xâm lược Việt Nam không thành công, chúng đã chuyển sang chiến lược mới như "bao vây cấm vận kinh tế", "cô lập về ngoại giao" kết hợp với "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lợi dụng thời kì nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975 - 1994 do hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam.

Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xoá bỏ "cấm vận kinh tế" và bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập như : "dính líu", "ngầm", "sâu, hiểm" nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.

Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử dụng chiến lược "diễn biến hoà bình" đối với Việt Nam là thực hiện âm mưu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lái nước ta đi theo con đường chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc,... Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch không từ bỏ bất kì thủ đoạn chống phá nào như sử dụng bạo lực phi vũ trang, bạo lực vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,...Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tinh vi, thâm độc và nhiều thủ đoạn tinh vi khó nhận biết, cụ thể:

Thủ đoạn về kinh tế. Chúng muốn chuyển hoá nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Khích lệ thành phần kinh tế tư nhân phát triển, từng bước làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Lợi dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để đặt ra các điều kiện và gây sức ép về chính trị, từng bước chuyển hoá Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Thủ đoạn về chính trị. Các thế lực thù địch kích động đòi thực hiện chế độ "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập", "tự do hoá" mọi mặt đời sống xã hội, từng bước xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng tập hợp, nuôi dưỡng các tổ chức, phần tử phản động trong nước và ngoài nước, lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Tận dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước ta, sẵn sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thủ đoạn về tư tưởng - văn hoá. Chúng thực hiện nhiều hoạt động nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra sức truyền bá tư tưởng tư sản vào các tầng lớp nhân dân. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, du nhập những sản phẩm văn hoá đồi trụy, lối sống phương Tây, để kích động lối sống tư bản trong thanh niên từng bước làm phai mờ bản sắc văn hoá và giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam.

Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn giáo - dân tộc. Chúng lợi dụng những khó khăn ở những vùng đồng bào dân tộc ít người, những tồn tại do lịch sử để lại, trình độ dân trí của một bộ phận đồng bào còn thấp và những khuyết điểm trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo của một bộ phận cán bộ để kích động tư tưởng đòi li khai, tự quyết dân tộc.

 Lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để truyền đạo trái phép để thực hiện âm mưu tôn giáo hoá dân tộc, từng bước gây mất ổn định xã hội và làm chệch hướng chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế mở rộng, hợp tác quốc tế, thực hiện xâm nhập, tăng cường hoạt động tình báo thu thập bí mật quốc gia. Chúng kích động đòi phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối với lực lượng vũ trang. Đối với quân đội và công an, các thế lực thù địch chủ trương vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng với luận điểm "phi chính trị hoá" làm cho các lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu.

Thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại. Các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để tuyên truyền và hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Hạn chế sự mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam đối với các nước lớn trên thế giới, tìm cách ngăn cản những dự án đầu tư quốc tế vào Việt Nam. Đặc biệt, chúng rất coi trọng việc chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa, hạ thấp uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Mục tiêu của chiến lược "Diễn biến hoà bình" mà các thế lực thù địch tiến hành ở Việt Nam là làm chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy mô, địa điểm và thời gian; nắm vững nguyên tắc xử lí trong đấu tranh chống bạo loạn lật đổ là: nhanh gọn, kiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng kéo dài. Như vậy, sẽ làm thất bại âm mưu thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, giữ vững được ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tạo môi trường hoà bình để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.

 

 

“Khát vọng hòa bình”- Kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris

 


          Ngày 9/1, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam, Ban Di sản Ký ức tổ chức sự kiện “Khát vọng hòa bình”. Đây là hoạt động hướng đến kỷ niệm 50 năm Ngày ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973 – 27/1/2023); kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2023).

          Sự kiện có sự tham dự của Đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Cục Gìn giữ hòa bình, các ban, bộ, ngành Trung ương, các Đại sứ quán, tổ chức quốc tế, các bảo tàng, di tích trên địa bàn Hà Nội. Các khách mời đã chia sẻ với công chúng những câu chuyện xúc động trong quá trình đấu tranh, cống hiến và chung tay góp sức vì một nền hòa bình ở Việt Nam và thế giới. Khai mạc sự kiện, bà Nguyễn Thị Minh Hương, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chia sẻ: “Nửa thế kỷ đã trôi qua, sự kiện ký kết Hiệp định Paris (vẫn được xem là thắng lợi của khát vọng hòa bình, của ý chí, tinh thần Việt Nam cùng sự đồng hành của nhân dân yêu chuộng hòa bình khắp năm châu. Trong thông điệp năm mới, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres nhấn mạnh: “Năm 2023, chúng ta hãy đặt hòa bình làm trọng tâm trong mọi lời nói và hành động của mình. Chúng ta cần hòa bình hơn bao giờ hết…”. Có thể thấy, khát vọng về một nền hòa bình luôn là mong muốn của mọi người dân trên thế giới ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ thời điểm nào”. Với một đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến trong lịch sử để bảo vệ nền độc lập, mỗi người Việt Nam hiểu sâu sắc ý nghĩa thiêng liêng của hai tiếng hòa bình. Khát vọng hòa bình đã trở thành lẽ sống của dân tộc, được bao thế hệ người Việt Nam, trong đó có lớp lớp phụ nữ nối tiếp nhau không tiếc công sức và xương máu để vun đắp, gìn giữ. Tại tọa đàm, các khách mời đã chia sẻ với công chúng những câu chuyện xúc động trong quá trình đấu tranh, cống hiến và chung tay góp sức vì một nền hòa bình ở Việt Nam và thế giới. Câu chuyện khi họ ở lứa tuổi thanh niên đầy nhiệt huyết trong cuộc đấu tranh vì hòa bình; khi họ trở thành những “sứ giả hòa bình” trên đất nước bạn hay khi trải qua những giây phút hạnh phúc, tự hào của ngày 27/1/1973 lịch sử. Triển lãm cũng hé lộ câu chuyện của những người phụ nữ Việt Nam đã hy sinh vì lý tưởng, quyết đưa đất nước giành lại độc lập, tự do, từ đó, gợi nhắc người xem về những người phụ nữ anh hùng và vai trò của họ cho nền hòa bình hôm nay. Đỉnh cao là việc ký kết Hiệp định Paris với vai trò đặc biệt của bà Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hiệp định Paris năm 1973 được ký kết, có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân Việt Nam, tạo mọi tiền đề để Việt Nam kết thúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và là niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Triển lãm “Khát vọng hòa bình” thể hiện khao khát hòa bình cho đất nước, cho dân tộc thông qua những hình ảnh, tư liệu về các hoạt động đấu tranh vì hòa bình của nhân dân Việt Nam cùng sự đồng hành, ủng hộ của bạn bè quốc tế thông qua nhiều câu chuyện lịch sử và những hành trình tiếp nối thực hiện sứ mệnh hòa bình của phụ nữ Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ bài học lịch sử về một Việt Nam anh dũng với những người phụ nữ bản lĩnh và đầy trí tuệ, triển lãm ngợi ca giá trị của hòa bình, truyền đi thông điệp: Hãy cùng chung tay vun đắp, dựng xây vì một nền hòa bình cho nhân loại. Bà Nguyễn Thị Minh Hương, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cho rằng qua bài học lịch sử về một Việt Nam anh dũng với những người phụ nữ bản lĩnh và trí tuệ, triển lãm muốn ngợi ca giá trị của hòa bình và lan truyền thông điệp: “Hãy cùng chung tay vun đắp, dựng xây vì một nền hòa bình cho nhân loại”./.

 

KHÔNG BAO GIỜ MẮC MƯU NHỮNG KẺ LỪA BỊP, MỊ DÂN

 


           Các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị cho rằng, con đường “ngắn nhất, phù hợp nhất” để Việt Nam “cất cánh” là bắt tay “làm ăn” với các nước TBCN phát triển như: Mỹ, Nhật, châu Âu chứ không phải “quy hàng Trung Quốc, theo đuôi một vành đai, hai con đường”…, Việt Nam phải nhờ sự giúp đỡ của phương Tây, dựa vào các tập đoàn kinh tế, tài chính lớn thì mới phát triển nhanh, bền vững. Để minh chứng cho luận điểm này, họ cho rằng các nước từng là XHCN ở Đông Âu trước đây, đã từ bỏ con đường XHCN, bắt tay với Mỹ, Nhật, châu Âu, được các tập đoàn kinh tế, tài chính lớn trợ giúp nên đã “lột xác” phát triển thần tốc, sau 30 năm đã mang bộ mặt hoàn toàn mới, người dân có cuộc sống sung sướng, tại sao Việt Nam lại không?.Từ đó, họ khẳng định “đi theo con đường TBCN là “thượng sách”, là “khách quan”, là “mốt, rất hợp thời đại”, “là sự lựa chọn thông minh, duy nhất đúng đắn”; Việt Nam sẽ nhanh chóng thu hút nguồn vốn đầu tư, thành tựu khoa học, công nghệ và chuyên gia giỏi để phát triển đất nước; tránh “tụt hậu. Với sự lựa chọn này, Việt Nam không phải lo đối phó với “thù trong, giặc ngoài”. Vì vậy, họ đã gửi “tâm thư”, “kiến nghị” yêu cầu Đảng, Nhà nước ta phải đổi mới tư duy, phải mạnh dạn huỷ bỏ lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, từ bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để sớm kết thúc thời kỳ quá độ đầy “đau khổ”. Khi những bức “tâm thư” không được Đảng, Nhà nước chấp nhận, lập tức họ “quay lưng”, “trở mặt”, nói xấu Đảng, Nhà nước, xuyên tạc sự thật ở Việt Nam, đưa ra các luận điệu sai trái, phủ định “sạch trơn” thành quả hơn 35 năm đổi mới đất nước.

          Từ đó, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng; cố tình tạo ra “một khoảng trống” về chính trị, hình thành dư luận xấu trong xã hội; làm xói mòn bản sắc nền văn hóa dân tộc. Qua đó, tập hợp các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, phản động để thành lập hội, nhóm, lực lượng độc lập, tạo dựng ngọn cờ với hy vọng khi đủ mạnh thì gây áp lực, ép buộc Đảng, Nhà nước ta phải từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên CNXH. Trước âm mưu, thủ đoạn hướng lái nước ta đi theo con đường TBCN của các thế lực thù địch, trong quần chúng nhân dân, không phải tất cả mọi người đều nhận thức đầy đủ, sâu sắc và nhìn thấy thực chất vấn đề. Do giới hạn của nhận thức và trình độ hiểu biết còn hạn chế, họ đã rơi vào “trạng thái lệch lạc”, bị “lây nhiễm cái xấu”, từ hoang mang, nghi ngờ, đến dao động lập trường, từ bỏ quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH, vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ nhìn sang các nước tư bản phát triển với sự tò mò, mơ ước hão huyền, mong sớm được đổi đời nhờ “phép mầu” nên dễ bị mua chuộc bởi đồng đô la, đã “lóa mắt” và mắc phải căn bệnh sùng ngoại, tẩy chay nội. Cùng với sự lây nhiễm tin giả, sự “bơm tin” xấu, độc để bài xích, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận CNXH hiện thực, họ đã rơi vào sai lầm chính trị do không phân biệt được điều hay lẽ phải, cái đúng, cái sai, cố tình bóp méo sự thật, trà đạp lên các giá trị đạo đức, nhân văn. Họ đã mắc mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thoái hóa, biến chất; chống lại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta nên ngày càng lún sâu vào “vũng bùn” của nhận thức sai lầm và những hành vi sai trái chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, không thể chấp nhận. Trong cuộc đấu tranh sinh tử vì CNXH, vì lẽ phải, công bằng vì hạnh phúc của nhân dân hiện nay thì cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì “còn Đảng còn mình”, “còn Đảng còn chế độ”, “còn có hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc”. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định hạnh phúc là đấu tranh; đi lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ, bởi nó là xã hội vừa thoát thai từ chế độ xã hội cũ, cho nên các mặt kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa… còn mang những dấu vết của chế độ xã hội cũ mà nó đã lọt lòng. Vì vậy, nó là một thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, có thể phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều nấc thang và các bước trung gian. Ai đó mong muốn có ngay cuộc sống sung túc, đầy đủ, hạnh phúc mà không chịu lao động, đổ mồ hôi, rơi nước mắt thì sự đòi hỏi của họ thật là phi lý, không thể chấp nhận. CNXH cần có quá trình sinh thành, phát triển và khẳng định; không thể duy ý chí, nóng vội, chủ quan, muốn là có ngay được. Biết là như vậy, nhưng vì lợi ích và cuộc sống mưu sinh, một số người đã cố tình làm ngơ, khước từ lẽ phải, chà đạp lên sự thật ấy, đã theo đuôi, “nói leo”, bênh vực cho CNTB, đứng ra bảo vệ con đường đẫm máu và nước mắt do giai cấp bóc lột gây ra, dù biết việc làm ấy là sai trái. Họ thật đáng trách. Đối với Việt Nam, đi theo con đường CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là thực hiện chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, là làm cho mọi người dân được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, được học hành, tiến bộ. Chỉ có thể đi theo con đường CNXH thì mới xóa bỏ được tận gốc tệ nạn người áp bức, bóc lột người, mới thật sự có hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Ai cũng biết rằng, việc xóa bỏ chế độ xã hội cũ đã lỗi thời, lạc hậu để xây dựng chế độ xã hội mới XHCN tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn không thể làm tức thời, mong muốn là có ngay được, mà cần phải có thời gian nhất định, phải trải qua một thời kỳ quá độ để từng bước xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu còn rơi rớt lại. Đồng thời, xây dựng và nuôi dưỡng những cái mới, cái tốt đẹp của chế độ XHCN. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu đó còn phải trải qua một quá trình dài lâu, đầy khó khăn, phức tạp, có nhiều rào cản lớn và các điểm “nghẽn” cần tháo gỡ. Để xây dựng thành công CNXH, phải chủ động và tích cực “xây” và “chống”, phải tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ cái đúng, cái tốt; quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giữ sạch phẩm chất, thanh danh người cán bộ, đảng viên, làm gương cho dân tin yêu Đảng, noi theo và làm theo Đảng. Cần nghiên cứu, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong các bài phát biểu: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”. Bài viết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, thể hiện rõ quyết tâm chính trị rất cao của Đảng và nhân dân ta, góp phần định hướng chính trị thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về đường lối đổi mới ở nước ta hiện nay. Qua đó, chúng ta vững tin, kiên định hơn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Sự “giáo đầu về lý luận chính trị” thông qua xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng để dễ bề thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạt lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam, tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch đã bị “bắt bài”, hoàn toàn “lộ tẩy”. Tuyệt đại đa số người dân Việt Nam “không tin đài địch”, không bao giờ mắc mưu “diễn biến hòa bình” của những kẻ xấu./.

 

LIÊN HỢP QUỐC ỦNG HỘ VIỆT NAM THÀNH LẬP TRUNG TÂM GÌN GIỮ HÒA BÌNH CỠ KHU VỰC

 


            Sau hơn 8 năm tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận cũng như có những bước phát triển vững chắc. Quá trình này có sự đồng hành, hỗ trợ của nhiều đối tác quốc tế, trong đó có Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam.

         Ghi nhận thành tích đặc biệt của Việt Nam trong thời gian qua, bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đánh giá, Việt Nam đã đạt được tỷ lệ rất ấn tượng về phụ nữ tham gia vào các hoạt động hòa bình dù là quốc gia tham gia gìn giữ hòa bình với thời gian chưa dài. Kể từ khi Chương trình nghị sự về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh – một khuôn khổ mở rộng hướng tới sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động hòa bình của Liên hợp quốc chính thức được thông qua vào năm 2000, Việt Nam đã trở thành quốc gia thành công đảm bảo tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các tiến trình hòa bình. Cùng với Liên hợp quốc, Chính phủ Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh vào năm 2020. Cũng trong năm 2020, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 130/2020/QH14 về việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc với 100% đại biểu Quốc hội bỏ phiếu tán thành, trong đó có nội dung vấn đề về giới. Thời gian qua, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc đã đồng hành với Việt Nam trong nhiều hoạt động góp phần tạo cơ sở và nâng cao năng lực cho lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình như: Cùng Bộ Quốc phòng đồng tổ chức Hội nghị chuyên đề quốc tế “Vai trò của phụ nữ và phòng, chống đại dịch COVID-19 trong hoạt động gìn giữ hòa bình” vào năm 2020; tổ chức tọa đàm nhân kỷ niệm 75 năm thành lập Liên hợp quốc, nhằm truyền cảm hứng cho giới trẻ tham gia vào các vấn đề quốc tế. Tháng 11/2022, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc tại Việt Nam cũng phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị quốc tế về Phụ nữ với hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, nhân chuyến thăm Việt Nam của Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc Jean-Pierre Lacroix. Hội nghị đã thảo luận, đề xuất những nội dung góp phần tạo nên nền tảng vững chắc để nâng cao năng lực tham gia và lãnh đạo của phụ nữ trong các hoạt động hòa bình, là bước tiến đáng khích lệ trong quá trình thực hiện mục tiêu thành lập trung tâm gìn giữ hòa bình mang tầm cỡ khu vực tại Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu đáng chú ý ở cấp độ chính sách quốc gia và quốc tế, Bộ Quốc phòng và Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam đã ưu tiên thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động vì hòa bình thông qua các hoạt động thực tiễn. Các số liệu thống kê về sự tham gia của phụ nữ trong các sứ mệnh gìn giữ hòa bình bao gồm cả đội hình đơn vị Công binh năm 2022 đều rất khả quan. Với mục tiêu do Liên hợp quốc đề ra là có 15% nữ trong đội hình đơn vị và 25% nữ sỹ quan tham mưu vào năm 2028, bà Caitlin Wiesen cho rằng, điều này khả thi đối với Việt Nam nếu Việt Nam tiếp tục thực hiện các bước đi đáng khích lệ để đạt được các chỉ số này. Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam khẳng định Liên hợp quốc ủng hộ cam kết của Việt Nam trong việc đóng vai trò quan trọng hơn nữa đối với hòa bình và an ninh toàn cầu và với mục tiêu của Việt Nam là thành lập trung tâm gìn giữ hòa bình mang tầm cỡ khu vực, trong đó tập trung đào tạo, nâng cao năng lực nói chung và cho lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình là nữ nói riêng. Liên hợp quốc cũng sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật và huy động nguồn lực để tiến hành đánh giá rào cản giới nhằm xác định những thách thức chính đối với việc triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình nữ trong tương lai. Ngoài ra, Liên hợp quốc có thể hỗ trợ Việt Nam về chuyên môn, kỹ thuật, năng lực quốc tế và tạo ra một môi trường chính sách trong nước thuận lợi để đạt được tiến bộ đối với phụ nữ và hoạt động gìn giữ hòa bình, như bằng cách khuyến khích việc tuyển dụng, duy trì, thúc đẩy thăng tiến đối với phụ nữ trong lực lượng vũ trang…/.

 

LUẬN ĐIỆU “ĐẢNG KHÔNG CÓ NĂNG LỰC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG”

 

 

           Từ sau hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 của Đảng ta (tháng 6-2021) đến nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cấu kết với nhau đẩy mạnh công kích, bài xích, chống phá Đảng, Nhà nước ta về công tác nhân sự và công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực nhằm hạ thấp uy tín, vị thế của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài điệp khúc “Đảng Cộng sản Việt Nam không đủ uy tín lãnh đạo đất nước”, chúng còn tung ra nhiều luận điệu sai trái để vu cáo, buộc tội Đảng, Nhà nước ta “có tội với dân”, đã “tham nhũng nặng nên không đủ năng lực lãnh đạo đất nước”, “không thể phòng, chống tham nhũng, tiêu cực” bởi tham nhũng là “căn bệnh nan y”, không thể chữa trị của “chế độ một đảng độc quyền, toàn trị”. Từ đó, chúng kêu gọi nhân dân vùng lên “chấm dứt chế độ độc tài do một đảng cầm quyền”, “thực hiện chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị”. Cùng với đó, thực hiện ngay chế độ “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực.

          Chúng triệt để khai thác những hạn chế, khuyết điểm của vụ Việt Á, chuyến bay giải cứu và các vụ án tham nhũng khác để thổi phồng “sai phạm của đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Vin vào cái cớ: Đảng đã thi hành kỷ luật một số cán bộ có chức, có quyền vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm, đã xử lý pháp luật để quy hiện tượng thành bản chất, coi đó là vấn đề có tính quy luật, mang tính phổ biến của chế độ XHCN và kết luận một cách cực đoan: Đảng ta đã suy thoái, tha hóa, biến chất; tham nhũng đã trở thành “căn bệnh nan y”, mang tính “kinh niên” nên Đảng không còn đủ tư cách lãnh đạo đất nước và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; “Đảng phải rút lui khỏi chính trường, nhường quyền lãnh đạo cho một đảng khác” do chúng dựng lên. Quan điểm sai trái và thái độ ngạo mạn đã làm chúng “lóa mắt”, rơi vào quan điểm duy tâm, phương pháp siêu hình, “chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng” nên đã “phủ định sạch trơn” kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng do Đảng ta lãnh đạo. Một số kẻ quá khích cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã thất bại trong cuộc chiến chống tham nhũng” vì tệ nạn này đang tăng lên mỗi ngày, cán bộ vi phạm kỷ luật “năm sau cao hơn năm trước”, “lò Tổng Trọng củi tươi đang đỏ rực” và chúng phán bừa rằng, chống tham nhũng ở Việt Nam thực chất là “cuộc đấu đá nội bộ” ngày càng thêm tàn khốc, sự “thanh trừng phe phái đang lên cao”. Rõ ràng là quan điểm sai trái nêu trên mang tính áp đặt chủ quan, duy ý chí đến mức cực đoan, đã bộc lộ rõ dã tâm đen tối là bôi nhọ thanh danh, hạ thấp uy tín đội ngũ cán bộ của Đảng, gây hoang mang, nghi ngờ, mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phủ nhận tính ưu việt của chế độ ta. Về thực chất, đây là sự giáo đầu về tư tưởng, kích hoạt âm mưu “diễn biến hòa bình” để chuẩn bị cho “một cuộc cách mạng về chính trị”, thúc đẩy bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đón rước giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản về Việt Nam. Dã tâm này thật nguy hiểm và hết sức vô lý không có căn cứ khoa học; chúng ta không bao giờ chấp nhận. Trên thực tế, nó đã bị vạch mặt và chắc chắn sẽ bị đập tan vì ở Việt Nam, tuyệt đại đa số người dân không tin, không dung tha chúng; đạo lý và luật pháp Việt Nam không chứa chấp chúng và chúng chẳng có chỗ dung thân.

Trước đây, khi chúng còn có tổ chức, lực lượng, lại được phương Tây hà hơi, tiếp sức nhưng đã không thể làm gì cách mạng dù điên khùng quậy phá, thì nay âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta của chúng đã bại lộ, được nhân dân cảnh giác cao. Vì thế, chúng càng giở trò xấu xa, thì chúng càng chuốc lấy thất bại, cho dù chúng là ai, được thế lực nào chống lưng bởi làm sai thì phải chịu hậu quả.

NIỀM TIN ĐỐI VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

          Xuân Quý Mão 2023, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục sắt son niềm tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

           Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn sử dụng chiêu trò kích động, phá hoại hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chia cắt mối quan hệ giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Chúng còn trắng trợn kêu gọi, kích động người dân “đứng lên tìm con đường mới”, vì cho rằng con đường cách mạng của Đảng đề ra đã “sai lầm”, “không còn phù hợp với dân tộc và nguyện vọng của nhân dân”. Nhưng sự thật 93 năm qua, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam trưởng thành, phát triển là sự thật đanh thép đập tan sự chống phá của các thế lực xấu. Ngày 3 - 2 - 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đến ngày 18 - 12 - 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi, trong đó nêu rõ: “Hỡi công nhân, nông dân, binh sĩ, thanh niên, học sinh! Anh chị em bị áp bức, bóc lột! Đảng Cộng sản ở Đông Dương đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay, anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng…”.Từ lời kêu gọi ấy, Đảng đã cùng cả dân tộc vững bước đi lên thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Đảng đã cùng toàn dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, đập tan chế độ thực dân phong kiến, đã đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào, giành và giữ vững độc lập, tự do của đất nước. Đảng đã cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng như lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất độc lập, là hòa bình ấm no”. Tư tưởng, lời dạy quý báu của Hồ Chủ tịch với tinh thần trọn đời vì nhân dân, tất cả vì nhân dân phục vụ được Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì, thực hiện xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến, trong hòa bình, nhân dân đoàn kết thống nhất, một lòng một dạ tin theo Đảng, đi theo Đảng, Đảng vững vàng lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong mọi công việc, Đảng đã thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, ngày 5 - 1 - 1960: “Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”. Trong tình hình thực tiễn hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang tăng cường đoàn kết thống nhất, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, trong đó có nội dung: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”… thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”. Với một Đảng luôn đặt mục tiêu cao nhất là vì đất nước, vì nhân dân, tất cả vì nhân dân phụng sự thì thật dễ hiểu khi nhân dân một lòng một dạ, đoàn kết thống nhất, tự nguyện, tự giác, kiên quyết, kiên trì, tuyệt đối tin tưởng vào Đảng, đi theo Đảng. Trước lúc đi xa, Hồ Chủ tịch đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta Bản di chúc lịch sử, trong đó Người khẳng định và căn dặn: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

          Có thực tế hết sức tốt đẹp, rất trân trọng, tự hào là càng trong gian nan, thử thách, dẫu khó khăn trở ngại, cho dù các thế lực thù địch chống phá, chia rẽ thì mối quan hệ Đảng với dân, dân với Đảng vẫn thủy chung vẹn toàn, vẫn keo sơn gắn bó tạo ra sức mạnh của ý Đảng, lòng dân để cách mạng Việt Nam vẫn vững vàng tiến bước đi lên. Hiện nay, Đảng ta đang kiên quyết, kiên trì đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiêu cực, lãng phí với những kết quả thiết thực, qua đó củng cố và tăng cường niềm tin yêu của nhân dân với Đảng, để Đảng vững vàng hơn, đất nước giàu mạnh hơn, nhân dân hạnh phúc hơn. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam chính là: “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”. Thành công của Đảng và của đất nước 93 năm qua là cơ sở quan trọng, là nguồn động lực to lớn để dân thêm tin Đảng, Đảng thêm tin dân, vững bước đi lên trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn: con đường chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI

 


Bước sang năm mới, người Việt Nam dù ở trong nước hay ở nước ngoài đều háo hức chuẩn bị đón Tết cổ truyền 2023. Không khí đón Tết năm nay đặc biệt hơn vì 2 năm đại dịch Covid-19 khiến cuộc sống của nhiều gia đình bị ảnh hưởng nặng nề, việc đi lại, về thăm quê hương của kiều bào gặp nhiều khó khăn.

Những chuyến bay từ khắp các châu lục đưa kiều bào ta về nước trong những ngày đầu năm mới đã phần nào cho thấy cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng gắn bó và hướng về quê hương, thực sự trở thành một bộ phận không tách rời và một nguồn lực quan trọng của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đóng góp tích cực cho quá trình xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập của đất nước. Hiện có khoảng 5,3 triệu người Việt Nam đang sinh sống, làm việc tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Được trở về quê hương ăn Tết, hay hồi hương sinh sống lâu dài là một nhu cầu lớn và dần trở thành xu thế tất yếu đối với các kiều bào. Hiểu được nhu cầu, tâm tư, tình cảm của bà con ta, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tạo điều kiện để kiều bào trở về, đồng thời ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp của họ vào quá trình phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực. Qua hơn 35 năm đổi mới đất nước, các chủ trương và chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng, Nhà nước ngày càng được bổ sung và hoàn thiện nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu thực tiễn. Một trong những dấu mốc quan trọng đó có thể kể đến Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 29/11/1993 của Bộ Chính trị về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó khuyến khích bà con kiều bào đầu tư phát triển kinh doanh và dịch vụ trong nước. Đặc biệt Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Nghị quyết 36) ban hành ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị như một cú huých, tạo sự chuyển biến tích cực đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, góp phần tích cực vào việc tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ, động viên người Việt Nam ở nước ngoài nâng cao ý thức tự hào dân tộc, lòng yêu nước, gắn bó với quê hương, đất nước, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau vươn lên trong cuộc sống, hội nhập vào nước sở tại, thể hiện rõ nét trách nhiệm, tình cảm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho đồng bào ta ở nước ngoài… Đất nước ngày càng có nhiều chính sách cởi mở, thông thoáng với kiều bào. Giới truyền thông, báo chí và cộng đồng người Việt ở Mỹ cũng rất quan tâm, mạnh dạn tìm hiểu, tiếp cận các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thông qua nhiều kênh thông tin, nhất là từ các cán bộ của Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán, Tổng Lãnh sự, nhằm tìm hiểu thêm luật pháp, các thủ tục hành chính về đầu tư, du lịch thăm thân hay lưu trú, làm việc lâu dài ở Việt Nam. Ngày 19/5/2015, Chỉ thị số 45-CT/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, được ban hành. Chỉ thị thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào ổn định đời sống, hội nhập vào nước sở tại, đồng thời chung tay đóng góp mọi nguồn lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị 45 đã được nhiều người Việt Nam sống ở nước ngoài đón nhận và hưởng ứng. Ngày 12/8/2021, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 12-KL/TW về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, trong đó chỉ rõ: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khuyến khích và tạo điều kiện để đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính và triển khai đồng bộ các chính sách liên quan người Việt Nam ở nước ngoài khi về nước làm việc, thường trú; tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh…; giải quyết nhu cầu chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài liên quan quốc tịch phù hợp quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và tinh thần của Nghị quyết 36; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi, vận dụng và phát huy hiệu quả các sáng kiến, ý kiến đóng góp của các chuyên gia, đội ngũ trí thức, cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài. Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng lớn mạnh về số lượng và mở rộng hơn về địa bàn. Vai trò, vị thế, uy tín của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong xã hội sở tại ngày càng được nâng cao. Người Việt ở nước ngoài ngày càng tin cậy, nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò đóng góp tích cực của mình đối với Tổ quốc dù sống ở trong hay ở ngoài nước bằng những việc làm cụ thể. Bất chấp thực tế đó, một bộ phận người Việt cực đoan vẫn tìm mọi cách để lập ra các ban đại diện cộng đồng, các hội nhóm chống cộng,… đồng thời tìm mọi âm mưu, thủ đoạn hòng xuyên tạc những chính sách, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phủ nhận thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đã đạt được. Bản thân tôi, rời đất nước ra đi năm 1988, sống tại Mỹ. Đến năm 2013, tôi quyết định trở về Việt Nam sống và làm việc. Tôi đã xin được Hộ chiếu công dân Việt Nam rất dễ dàng. Ở Việt Nam, tôi được đối xử rất công bằng, được bảo đảm các lợi ích xã hội như mọi công dân Việt Nam khác trên các phương diện. Nhờ vậy, tôi đã an cư lạc nghiệp ở thành phố Yên Bái. Sống ở Việt Nam, tôi luôn chấp hành các quy định luật pháp, sống an nhiên, hài hòa với bà con hàng xóm. Các cán bộ, công an khu vực khi biết tôi là kiều bào trở về Việt Nam sinh sống, họ quý mến, tôn trọng và tạo điều kiện, giải thích cặn kẽ những gì tôi không hiểu trong các thủ tục hành chính, giúp tôi hòa nhập cuộc sống bình thường. Ngôi nhà nhỏ của tôi đã đón tiếp hàng trăm lượt khách, kể cả người thân, bạn bè là người nước ngoài về thăm cũng như lưu trú. Ai trong họ cũng đều mong muốn có ngày được về sống an vui tại quê nhà. Tết đến, xuân về, bà con Việt từ khắp các châu lục lại háo hức trở về Việt Nam ăn Tết, đoàn viên với người thân, gia đình, bạn bè, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài cũng tổ chức lễ hội Xuân Quê hương vô cùng đặc sắc giúp kiều bào tham dự được trải nghiệm một cái Tết truyền thống đúng nghĩa. Trên truyền thông đại chúng, các thông tin chính thống về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn được chú trọng. Các tin, bài, hình ảnh sinh động về đất nước, phản ánh kịp thời những biến chuyển tích cực trong đời sống kinh tế, xã hội ở Việt Nam giúp bà con sống xa quê hương có thể nắm bắt mọi thông tin nhanh chóng, chính xác; nhờ đó, góp phần xóa bỏ những mối nghi hoặc, bẻ gãy những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo, sai sự thật, kích động của các thế lực thù địch, âm mưu phá hoại các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước gây chia rẽ, mất lòng tin trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với đất nước.

Bước sang năm 2023, từ những thành tựu gặt hái được trong năm qua, tinh thần của người dân Việt Nam ở trong nước và nước ngoài rất phấn khởi, tự hào và an tâm đón một mùa xuân tràn đầy niềm vui và lạc quan. Niềm vui ấy như tia nắng của mùa xuân mang nguồn năng lượng tích cực, lan tỏa đến mọi miền, đến các quốc gia và vùng lãnh thổ, nơi có người Việt Nam sinh sống, giúp nhân lên tình yêu, sự gắn kết và trách nhiệm với Tổ quốc.

 

THÊM MỘT CHIÊU TRÒ XUYÊN TẠC NHIỀU TỘI ÁC CHẤT CAO

 


         Vào thời khắc nhân dân cả nước vui Xuân, đón Tết Quý Mão, trên mạng xã hội lại rộ lên một số quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Đáng kể là quan điểm cho rằng, Đảng ta “vội vàng cho nghỉ hưu” một số cán bộ lãnh đạo cao cấp, kể cả nguyên thủ quốc giavì “không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ” chỉ là cái cớ để “thanh trừng nội bộ”, gạt bỏ những cán bộ “tài đức”, “thân phương Tây”, “không hợp cạ”, “không thuận cho ê kíp lãnh đạo”, là lực cản, gây khó cho việc “duy trì quyền lực, đặc quyền, đặc lợi của phần đông cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng”.

        Vì thế, quan điểm này cho rằng, để khắc phục “tận gốc tình trạng đặc quyền, đặc lợi trong Đảng” nhất thiết “phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, “phải để cho dân bầu lãnh đạo chứ không phải Đảng cử”, “Đảng chia nhau ghế chóp bu”. Theo chúng, đây là cách tốt nhất để kìm chế, kiểm soát quyền lực cũng như ngăn chặn việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để mưu cầu lợi ích cho cá nhân, gia đình, người thân hưởng đặc quyền, đặc lợi; vơ vét tiền bạc, lấy của chung làm của riêng, làm giầu bất chính, sống xa hoa, trụy lạc. Hai vấn đề lớn trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta đã bị chúng chộp lấy “đồn thổi”, “khuếch đại” và trắng trợn bóp méo sự thật, xuyên tạc; đó là công tác xây dựng chính sách, pháp luật để vu cáo Đảng ta “bẻ cong chân lý theo hướng có lợi cho phe nhóm, người có chức, có quyền” và “công tác nhân sự có nhiều sai lầm, nhất là vấn đề bổ nhiệm cán bộ”, quy kết Đảng ta “phải chịu trách nhiệm trước dân tộc vì kéo lùi lịch sử”. Những người có quan điểm đối lập với Đảng ta còn cho rằng trong nền chính trị Việt Nam: việc “việc chạy đua vào các vị trí quan trọng từ cấp xã trở lên”, nhất là giữ các “ghế chủ chốt” không phải là do “tài năng, đức độ”, cũng không phải “vì dân, vì nước” mà vì “tranh quyền, đoạt ghế”, chiếm giữ “đặc lợi, đặc quyền” để ban phát bổng lộc cho “phe cánh”, người thân, “tiền nhiều thì mua được ghế cao”, “quan hệ rộng thì phe cánh mạnh”. Tình trạng “một người làm quan cả họ được nhờ”, “cả nhà, cả họ, cả làng cùng vi phạm pháp luật” là do việc ban phát ơn huệ theo kiểu “nhất quan hệ, nhì tiền tệ, ba hậu duệ” sinh ra nên đã có chuyện bố mẹ, chú bác, cô dì và con cháu dễ dàng leo lên vị trí cao, nắm giữ quyền lực quan trọng. Câu chuyện “thái tử đảng” được “bổ nhiệm thần tốc”, “đúng quy trình” ngày càng đông đúc trong bộ máy của Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Và họ “phất lên như diều”, “giầu nứt đố, đổ vách”; có đặc quyền, đặc lợi ở mọi lĩnh vực, nhất là việc mua xe sang, xây nhà lầu, nhiều điền thổ, cho con cháu đi học nước ngoài, có mức sống cao hơn mặt bằng của cán bộ, nhân dân trong khi “đồng lương thì còm cỏi, không đủ sống”, sinh hoạt của cấp dưới và nhân dân còn khó khăn, cực khổ. Cùng với đó, chúng còn xiên xẹo rằng, một số cán bộ lãnh đạo còn cậy chức, cậy quyền nên có quan hệ nam nữ không trong sáng, ăn chơi trụy lạc, hách dịch, xa dân, tự cho mình là “ông trời”, coi “dân như cỏ rác”. Hơn thế, chúng còn “vơ đũa cả nắm” khi cho rằng: “Tuyệt đại đa số cán bộ lãnh đạo không giữ được phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, đã thoái hóa, biến chất, làm sai lời Cụ Hồ dạy”. Rồi chúng quy kết: Tất cả sai lầm, khuyết tật ấy là do “chế độ độc tài, toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra”. Từ đó, chúng kêu gọi nhân dân “giải tán Đảng”, “từ bỏ con đường đi lên CNXH do Đảng vạch ra” để đi theo phương Tây, xây dựng đất nước theo mô hình các nước G7, G20 mà các quốc gia TBCN phát triển đang có cuộc sống giàu sang. Đằng sau các chiêu trò, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta là việc cố tình bôi nhọ, làm xấu hình ảnh, hạ thấp uy tín, vị thế người cán bộ, đảng viên, chĩa mũi nhọn vào các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước ta; gây ra sự nghi ngờ, hoang mang, dao động của một bộ phận người dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta đều biết cái đích cần đến của chiêu trò này là chia rẽ mối quan hệ Đảng - Dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là âm mưu cực kỳ nguy hiểm, độc ác của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cần nhận diện đúng và hết sức cảnh giác. Chiêu thức này không mới vì chúng đã khai thác, sử dụng từ lâu để đánh vào niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng, nay được làm mới bằng cách dựa vào một số sự kiện chính trị vừa diễn ra năm 2022 và trước Tết Quý Mão để thêu dệt, đánh tráo khái niệm; qua đó, cố ý đánh sập “tượng đài niềm tin”, thành tựu, uy tín, vị thế của Đảng trong lòng nhân dân. Chúng cho rằng nếu nhân dân ta mất hết niềm tin vào Đảng, rời xa Đảng; không còn ủng hộ Đảng thì “Đảng sẽ bị cô lập”, “mất chỗ dựa vững chắc là nhân dân” và do đó, chúng dễ bề “tấn công triệt hạ Đảng”, chia rẽ Đảng với Nhà nước, Quân đội và Công an. Chiều sâu của sự chống phá này là chúng dựng lên câu chuyện hoang đường về việc cán bộ Đảng xa dân, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng; “phản bội dân tộc”, “đặc lợi, đặc quyền” để tuyên truyền sai trái nhằm đào hố sâu ngăn cách giữa Đảng với Dân, cho rằng cán bộ, đảng viên không còn đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân. Việc đối lập ý Đảng với lòng Dân là một âm mưu thâm độc đánh vào niềm tin, sự kỳ vọng, sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với Đảng và đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Với các luận điểm phản động và nhiều hành vi sai trái, ngang ngược, chúng không những chỉ chống phá Đảng mà còn chống lại nhân dân ta, gieo sự hoài nghi, bi quan trong nhân dân. Chúng đã lấy hiện tượng cá biệt để quy kết thành bản chất; phá bỏ tính ưu việt của chế độ ta; chà đạp lên thành quả cách mạng do Đảng ta lãnh đạo hơn 90 năm qua. Đặc biệt, chúng đã và đang chà đạp lên Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phủ nhận vai trò của đội ngũ cán bộ “người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Luận điệu vu khống cán bộ của Đảng là người “đặc quyền, đặc lợi” là hết sức sai trái, đầy tính vu khống. Tung ra luận điệu này, chúng cố tình chia rẽ mối quan hệ Đảng - Dân, tước bỏ nhân tố cốt lõi quyết định vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội ta. Ai cũng biết rằng nếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước mà “đặc quyền, đặc lợi; không đại diện cho lợi ích của nhân dân thì làm sao Đảng ta quy tụ, tập hợp, phát huy và nhân lên sức mạnh để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh thắng những kẻ thù hung bạo nhất, nhì thế giới là thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và quân bành trướng xâm lược; tiến hành công cuộc đổi mới đất nước 37 năm qua, giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, để chúng ta cơ cơ ngơi, tiền đồ, tiềm lực, uy tín, vị thế quốc tế to lớn như ngày nay. Thực tế cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, trong các giai đoạn khác nhau của cách mạng, tuyệt đại đa số nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; một lòng một dạ đi theo Đảng làm cách mạng. Nhân dân đã bảo vệ, che giấu, nuôi dưỡng cán bộ và ngược lại, cán bộ của Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân. Vì thế, họ đã xả thân chiến đấu, hy sinh vì nước, vì dân; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để làm cách mạng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Họ luôn xứng đáng là người đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Trước sau như một, đảng viên của Đảng ta là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc, suốt đời phấn đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; không bao giờ phản bội nhân dân. Họ trở thành đảng viên của Đảng không phải để “làm quan phát tài” mà tự giác, tự nguyện suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của quốc gia - dân tộc lên trên hết và trước hết. Vì vậy, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, tiêu cực, các thói hư, tật xấu, chủ nghĩa cá nhân là những điều “cấm kỵ” đối với đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhắm vào vấn đề đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, tiêu cực - những vấn đề mà Đảng ta đang quyết liệt đấu tranh, loại bỏ nó; lấy hiện tượng cá biệt quy thành cái phổ biến, cái bản chất; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã “bôi đen bức tranh xã hội Việt Nam”, “chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”; đã chọn thời điểm và vấn đề “nhạy cảm” nhất để khêu gợi, thu hút sự quan tâm của một bộ phận người dân “hiếu kỳ”, “thích của lạ”; qua đó, tung tin xấu, độc để nói xấu, hạ bệ Đảng, nhất là làm mất uy tín, danh dự của cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước ta theo kiểu “té nước theo mưa”, “mượn gió bẻ măng” với những chiêu trò xấu xa, bỉ ổi cốt để phủ định sạch trơn công tác cán bộ của Đảng; chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ. Nhân dân ta đã nhìn rõ bản chất, bộ mặt thật của những kẻ “giả nhân giả nghĩa”, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng nên không dễ gì mắc mưu, bị chúng lừa gạt, cho dù chúng đã và đang mượn một số sự kiện có thật như Đảng, Quốc hội vừa triệu tập một số phiên họp bất thường để giải quyết các vấn đề cần thiết về quốc kế, dân sinh và công tác cán bộ để phao tin, đồn thổi, khuếch đại nó, biến “con muỗi thành con voi”; quy kết Đảng ta rơi vào “lợi ích nhóm”, “thanh trừng nội bộ”; “chia chác lợi ích cho các phe cánh”, Đảng duy trì “đặc quyền”, “đặc lợi”, v,v..

Những luận điệu vu khống ấy thật lố bịch, hoàn toàn bịa đặt, thiếu căn cứ bởi do sự áp đặt ý muốn chủ quan, duy ý chí của một số kẻ thâm thù với Đảng, Nhà nước và chế độ ta nên đã “đâm vại thóc, chọc vại gạo” tung ra các quan điểm sằng bậy chỉ vì sự ích kỷ của chúng. Cứ nhìn việc vui Xuân, đón Tết Quý Mão của nhân dân cả nước ta thì biết rõ ý Đảng - lòng Dân bền chặt biết chừng nào; nhân dân tin tưởng vào sựu lãnh đạo của Đảng đến mức nào và phản đối đám “ruồi nhặng” quấy phá ra sao. Thực tế chỉ ra rằng, những cán bộ, đảng viên của Đảng ta nếu vi phạm khuyết điểm, chót “nhúng tay vào chàm”, “làm những điều sai trái” đến mức phải truy tố, chịu trách nhiệm hình sự thì đương nhiên họ không còn đủ tư cách làm người lãnh đạo, phải chịu các hình thức kỷ luật tương xứng về Đảng và chính quyền theo Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước đã quy định. Điều đó nói rõ rằng, trong Đảng, Nhà nước và chế độ ta “không có đất” cho cỏ dại mọc, không có chỗ cho “đặc lợi, đặc quyền, tham nhũng, tiêu cực; xa hoa, trụy lạc” tồn tại, phát triển. Ai đó, tổ chức đảng nào không còn đủ uy tín lãnh đạo thì phải đứng sang một bên, nhường chỗ cho cán bộ, đảng viên khác có đủ điều kiện về phẩm chất, năng lực gánh vác việc nước, việc dân. Đây là việc làm khách quan, cần thiết để cách mạng tiếp tục tiến lên. Đó là điều lý giải tại sao Đảng ta lại phải thường xuyên chỉnh đốn Đảng, “chặt cành sâu mọt để cứu cây”; chăm lo tẩy trừ, gọt bỏ những thói hư, tật xấu của một số cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh và coi đây là nhiệm vụ sống còn của Đảng ta. Quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, chống đặc lợi, đặc quyền để làm cho Đảng ta mạnh lên; loại bỏ hết những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng; chủ động phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; không để xảy ra tình trạng quyền lực bị tha hóa, lộng quyền đến mức xảy ra đặc quyền, đặc lợi; không đủ điều kiện về đức, tài, phẩm chất và năng lực nắm giữ quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao. Vì thế, Đảng đẩy mạnh thực hiện cơ chế “tự kiểm soát quyền lực” bằng hình thức sinh hoạt Đảng là “tự phê bình và phê bình”, giữ nghiêm kỷ luật Đảng cũng như tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành Điều lệ Đảng là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta. Không thể có và không bao giờ có chuyện Đảng ta cho một số lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước ta thôi giữ chức vụ, nghỉ hưu theo nguyện vọng cá nhân là “đấu đá nội bộ”, “thanh trừng lẫn nhau” do mâu thuẫn lợi ích nhóm, đặc lợi, đặc quyền sinh ra như nhũng kẻ xấu tung tin đồn thổi nhảm nhí. Những luận điệu xuyên tạc, những lời nói thiếu trách nhiệm, phát ngôn bừa bãi, hay những thông tin chưa được kiểm chứng đã tung lên mạng xã hội là sai quy định, nhiều thứ là “rác rưởi”, hoàn toàn không có cơ sở để tin cậy. Chúng ta không nên lãng phí thời gian, công sức vì sự đồn thổi nhảm nhí, vô bổ ấy xâm hại đến cuộc sống an vui, lành mạnh của chúng ta. Sự thật nói lên tất cả; phẩm giá khẳng định niềm tin; phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên khẳng định ở sự cống hiến, kết quả phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ghi nhận những cống hiến quan trọng của Đảng, nhân dân cả nước rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Và những ngày này, đang phấn khởi đón Tết Quý Mão, cùng đất nước vào Xuân. Chưa bao giờ ý Đảng - lòng Dân lại đầy tình người, tình đời, tỏa sáng như hiện nay. Vững tin tiến bước theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã vạch ra, chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi./.

 

XUYÊN TẠC MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN - THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM CỦA VIỆT TÂN

 

Mới đây trên trang phản động Việt Tân có bài viết “Mãi võ… để bảo vệ Đảng” với sự tự biện, suy diễn nảy sinh từ đầu óc những kẻ “dốt nát” về chính trị, điên cuồng về sự chống phá, nham hiểm về thủ đoạn và biểu hiện sự “bất lực” trước hiện thực sinh động của đất nước.

Ai cũng hiểu rằng, trước mỗi sự kiện chính trị trọng đại của bất cứ nước nào trên thế giới thì công tác bảo đảm an ninh, an toàn đều được coi trọng. Chúng ta tổ chức diễn tập để thực hành các phương án bảo đảm an toàn và xử trí những tình huống dự kiến phát sinh do các lực lượng phản động, trong đó có Việt Tân và các tổ chức ngoại vi của nó gây ra nhằm mục đích chống phá. Hoạt động ấy hoàn toàn không phải cái gọi là “nghi ngại, sợ hãi nhân dân” như Việt Tân đặt điều.

Và sự “đặt điều” của Việt Tân càng bộc lộ rõ bản chất chống phá điên cuồng của chúng. Những lời lẽ, giọng điệu “lập lờ đánh lận con đen” rất nguy hiểm của chúng càng chứng tỏ chúng không từ một thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nào để đạt được mục đích là XUYÊN TẠC mối quan hệ mật thiết giữa Đảng ta với nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi vai trò lãnh đạo của Đảng, xa Đảng, đối lập, chống lại Đảng, thủ tiêu nguồn sức mạnh vô địch và sức sống của Đảng, để đi đến thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam 91 năm qua, đã chứng minh mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với nhân dân Việt Nam là mối quan hệ gắn bó trong một chỉnh thể thống nhất. Tính thống nhất đó, được thể hiện tập trung ở chỗ: Sự ra đời, tồn tại và mục tiêu hoạt động của Đảng là vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; nguồn sức mạnh bất tận và vô địch của Đảng là từ nhân dân, ở trong nhân dân. Đảng là của dân, vì dân, dân một lòng, một dạ theo Đảng. Đảng luôn quan tâm chăm lo cho lợi ích của nhân dân và nhân dân cũng luôn sẵn sàng chiến đấu, xả thân vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đảng luôn quan tâm chăm lo cho lợi ích của nhân dân và nhân dân cũng luôn sẵn sàng chiến đấu, xả thân vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Quá trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định sức mạnh dời non, lấp biển của sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân; đồng thời, thể hiện sức mạnh của sự thống nhất giữa lý tưởng của Đảng với khát vọng không có gì quý hơn độc lập, tự do của nhân dân. Sự thống nhất đó, là nhân tố cơ bản, sức mạnh chủ yếu tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng làm nên những thắng lợi vĩ đại, huy hoàng của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây và công cuộc đổi mới đất nước hiện nay./.

 

TĂNG CƯỜNG BỒI DƯỠNG BẢN CHẤT CÁCH MẠNG CHO THẾ HỆ TRẺ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Quân đội là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước. Bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam là những giá trị tinh thần to lớn, được hình thành và phát triển trong quá trình ra đời, xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Từ ngày thành lập đến nay, dù trong gian khổ, chiến đấu hy sinh đầy bom đạn của chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hay trong học tập, huấn luyện, lao động sáng tạo khi đất nước hoà bình, quân đội ta luôn luôn phấn đấu thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

 Thông qua lời dạy của Bác Hồ đã toát lên lập trường, bản lĩnh chính trị và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta. Lập trường, bản lĩnh và sức mạnh đó được thể hiện cụ thể ở danh hiệu mà nhân dân đã tặng cho quân đội ta là: "Bộ đội Cụ Hồ". "Bộ đội Cụ Hồ" là bộ đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là một di sản, một giá trị tinh thần và đạo đức cao quý, một thành tựu tốt đẹp mà lớp lớp các thế hệ cha anh đã dày công vun đắp, xây dựng. Thế hệ trẻ quân đội ngày nay phải luôn luôn trân trọng, học tập và phát huy tinh thần truyền thống đó trong thời kỳ mới.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chính trị của quân đội ta có bước phát triển mới. Quân đội thực hiện các chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân lao động sản xuất, đội quân công tác và làm nhiệm vụ quốc tế trong hoàn cảnh mới khác rất nhiều với giai đoạn cách mạng trước đây. Đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, vừa đứng trước những thời cơ, vận hội, vừa phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tác động rất mạnh đến nhận thức, tâm tư, tình cảm của từng người. Sự giao thoa văn hóa giữa môi trường quân đội với bên ngoài bên cạnh yếu tố tích cực cũng không tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực từ những dòng văn hóa xấu độc, xa lạ với bản chất, truyền thống văn hóa của dân tộc nói chung và của quân đội nói riêng. Hơn nữa, quân đội ta còn là một đối tượng chủ yếu trong chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Âm mưu “phi chính trị hóa" quân đội của chúng thực chất là nhằm triệt tiêu bản chất, truyền thống cách mạng, vô hiệu hóa vũ khí chính trị - tinh thần sắc bén, từ đó vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội ta.

Phát huy bản chất truyền thống của Quân đội, trước những khó khăn, thách thức, những năm qua quân đội ta vẫn phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của mình, xứng đáng là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ quân đội vẫn luôn luôn có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất, sát cánh cùng cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cùng nhân dân xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đẩy mạnh sản xuất, xoá đói giảm nghèo, phòng chống thiên tai, bão lũ,... Những hành động đó đã làm ngời sáng thêm bản chất cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân. Thế hệ trẻ trong quân đội đã phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xứng đáng là lực lượng  xung kích, thực hiện có hiệu quả các yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, bên cạnh thực tế đáng tự hào đó, vẫn còn tình trạng một bộ phận thế hệ trẻ trong quân đội có những dấu hiệu sa sút ý chí chiến đấu, suy giảm niềm tin, thoái hóa về đạo đức, lối sống,... làm ảnh hưởng đến bản chất cách mạng trong sáng và uy tín của “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong khi đó, ở một số đơn vị, có lúc, có nơi, việc chăm lo vun đắp bản chất, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ bị xem nhẹ hoặc thiếu tính hiệu quả.

Vì vậy, việc chăm lo xây dựng, bồi dưỡng bản chất cách mạng cho thế hệ trẻ trong quân đội là một yêu cầu vừa mang tính thường xuyên, lâu dài, vừa là đòi hỏi bức thiết, trước mắt, mà tổ chức Đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp đều phải hết sức quan tâm.

Trước hết, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị - tư tưởng nâng cao lòng yêu nước, giáo dục sâu sắc lòng yêu CNXH, đưa tình cảm cao quý đó lên một tầm cao mới - yêu Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất, XHCN. Giáo dục các quân nhân lòng trung thành vô hạn và niềm tin không gì lay chuyển được vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn; giữ gìn và phát huy tinh hoa bản sắc dân tộc. Đó là quá trình xây dựng làm cho thế hệ trẻ quân đội nắm vững mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân trong thời kỳ mới; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹ lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ CNXH, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ gìn sự ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Mục tiêu trên đây phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa quyền lợi giai cấp và quyền lợi dân tộc, giữa độc lập dân tộc và CNXH, giữa dân tộc và quốc tế. Để có được bản chất cách mạng trên, lãnh đạo và chỉ huy các cấp cần chăm lo giáo dục để thế hệ trẻ quân đội luôn luôn đứng vững trên nền tảng chính trị của Đảng, bảo vệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục chính trị - tư tưởng phải luôn bám sát sự phát triển mới của thực tiễn cách mạng, chú trọng đi sâu phân tích để cán bộ, chiến sĩ có nhận thức đầy đủ hơn về thời cơ và nguy cơ, nhất là những khó khăn, thách thức đặt ra đối với đất nước, quân đội, trực tiếp là đối với thế hệ trẻ trong quân đội, từ đó chủ động ngăn ngừa những tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược " diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội ta. Phải coi trọng đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, phê phán sâu sắc những quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền lừa bịp của các thế lực phản động, thù địch; đấu tranh, uốn nắn kịp thời những nhận thức lệch lạc, những hành vi và thói quen không phù hợp với bản chất cách mạng và truyền thống vẻ vang của quân đội.

Giáo dục bản chất, truyền thống quân đội phải gắn liền với giáo dục lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử quân đội, lịch sử và truyền thống đơn vị, đồng thời coi trọng giáo dục truyền thống địa phương, nơi sinh trưởng của cán bộ, chiến sĩ và nơi đứng chân của đơn vị. Bởi lẽ quá khứ, hiện tại và tương lai là một dòng chảy liên tục. Tuy nhiên, giáo dục không phải chỉ để ca ngợi quá khứ, mà như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói, phải làm cho quá khứ sống lại đẹp đẽ hơn bao giờ hết trong bản anh hùng ca của hiện tại.

Giáo dục truyền thống cần coi trọng giáo dục gương đấu tranh cách mạng của các đảng viên tiền bối và gương chiến đấu của các anh hùng, dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân ta. Đặc biệt là cần học tập tấm gương và cuộc đời hoạt động của Bác Hồ, đây là một yêu cầu cấp thiếp đối với sự nghiệp giáo dục,  rèn luyện các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội, phù hợp với nguyện vọng và tình cảm thiêng liêng của quân đội ta đối với Bác. Vì Người là kết tinh những giá trị tinh thần, văn hóa của nhân dân ta, dân tộc ta qua suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Ở Bác, tinh hoa của dân tộc được kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao của tư tưởng nhân loại trong thời đại mới. Người là tấm gương tuyệt vời về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân, chí công vô tư, khiêm tốn giản dị... thực hiện tốt những yêu cầu nội dung giáo dục đó, mới động viên và khơi dậy được mạnh mẽ  lòng tự hào dân tộc, tình cảm thiêng liêng gắn bó của thế hệ trẻ quân đội đối với Đảng, với lãnh tụ, với quân đội và đơn vị mình, từ đó củng cố quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Cùng với giáo dục chính trị - tư  tưởng, giáo dục lịch sử, truyền thống, phải coi trọng trau dồi thường xuyên về đạo đức cách mạng cho bộ đội. Bởi lẽ, nhịp sống trong cơ chế thị trường tác động rất mạnh đến thị hiếu, tác phong, lối sống, đạo đức của tuổi trẻ. Hiện nay, do cơ cấu giai cấp trong xã hội có sự phát triển, xuất thân của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cũng biến đổi theo, vì vậy nhận thức, tư tưởng của mỗi người cũng đa dạng, phức tạp hơn. Thậm chí, so với trước đây, ngày nay sự nhìn nhận, đánh giá về nhân cách, phẩm giá của con người cũng có những thay đổi, phát triển mới. Tuy nhiên, không vì thế những giá trị đạo đức truyền thống như: chủ nghĩa tập thể, tinh thần sống mình vì mọi người, trọng danh dự, tình đồng chí đồng đội, "đồng cam cộng khổ", sẵn sàng nhường thuận lợi cho bạn, nhận khó khăn về mình, v.v., từng được bao thế hệ cán bộ chiến sĩ trân trọng giữ gìn, lại bị coi nhẹ hay hạ thấp đi. Ngày nay, quân đội ta vẫn còn khó khăn, thiếu thốn; còn phải tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ không kém phần gay go, phức tạp, thậm chí phải đổ máu, hy sinh vì lợi ích Tổ quốc và nhân dân. Để làm được nhiệm vụ đó, cần luôn quán triệt quan điểm" xây đi đôi với chống"; tích cực đấu tranh với những biểu hiện chạy theo cuộc sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, coi vật chất, lợi ích cá nhân, cụ bộ nặng hơn danh dự, nhân  cách quân nhân. Kỷ luật quân đội phải được tôn trọng và duy trì nghiêm túc, tự giác, không dung thứ  cho những hành vi trái với luật pháp và điều lệnh quân đội. Việc giáo dục sâu rộng về đạo đức cách mạng, phong cách Hồ Chí Minh cần phải được tiến hành một cách  rộng khắp, thường xuyên, sâu sắc đối với thế hệ trẻ trong quân đội.

Để xây dựng bản chất cách mạng cho thế hệ trẻ trong quân đội, đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp phải luôn luôn là tấm gương sáng về nhân cách để mọi người noi theo. Thực hiện những di huấn quý báu của Bác Hồ, người chỉ huy các cấp phải thực sự phấn đấu để có "trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung", "giàu sang không thể quyến rũ, uy vũ không thể khuất phục"; người cán bộ chính trị phải thực sự "thân thiết như người chị, công bình như người anh". Bởi lẽ, thế hệ trẻ thường học không chỉ trong sách vở, mà chủ yếu học trong đời thường, nhất là từ đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chính trị trực tiếp tại đơn vị.

Ngoài ra, để bồi dưỡng bản chất cách mạng cho thế hệ trẻ trong quân đội, các đơn vị, cơ quan, nhà trường quân đội, dù đóng quân trên địa bàn nào, cũng cần chú trọng thắt chặt mối liên hệ với cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục thanh niên, tăng cường bồi dưỡng lòng yêu nước XHCN, bản chất, truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân cho thế hệ trẻ, tạo điều kiện thuận lợi để thanh niên khi bước vào quân ngũ có nhận thức đúng, tình cảm tốt đẹp về quân đội, từ đó xác định động cơ tham gia xây dựng quân đội đúng đắn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.

QUÂN ĐỘI VỚI VIỆC BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

 

Mối quan hệ giữa quân đội với nhà nước là mối quan hệ khách quan, vốn có gắn với quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước và quân đội. Mối quan hệ giữa quân đội với nhà nước đã được hình thành, tồn tại gắn chặt với sự ra đời, tồn tại và phát triển của quân đội trong mối quan hệ gắn bó với nhà nước. Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng ngự”.

Sự ra đời, tồn tại và phát triển của quân đội gắn bó chặt chẽ với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Nhà nước tổ chức và sử dụng quân đội phục vụ lợi ích của nhà nước. Điều đó đã được khẳng định không chỉ về mặt lý luận mà còn cả trong thực tiễn tồn tại và phát triển của các kiểu quân đội, các kiểu nhà nước trong lịch sử, từ quân đội đầu tiên của nhà nước nô lệ, đến quân đội của nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước vô sản. Tuy nhiên, do bản chất giai cấp của nhà nước, của quân đội khác nhau cho nên mối quan hệ giữa quân đội với nhà nước của các kiểu quân đội và nhà nước khác nhau cũng không giống nhau về nội dung biểu hiện của mối quan hệ đó.

Mối quan hệ giữa quân đội xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác về chất trong nội dung biểu hiện với mối quan hệ giữa các kiểu quân đội và các kiểu nhà nước trong lịch sử. Sự khác nhau đó được cắt nghĩa bởi sự khác nhau về bản chất giữa quân đội của nhà nước xã hội chủ nghĩa với quân đội của các nhà nước nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Bản chất của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện những mục tiêu phù hợp với sự phát triển tiến bộ của xã hội, đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Mối quan hệ giữa quân đội xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác về chất trong nội dung biểu hiện với mối quan hệ giữa các kiểu quân đội và các kiểu nhà nước khác trong lịch sử còn được thể hiện ở chỗ: quân đội xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân. Theo đó, giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản, thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ trực tiếp quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của quân đội xã hội chủ nghĩa, mà còn quyết định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; hệ tư tưởng; nguyên tắc tổ chức, xây dựng quân đội. Mối quan hệ giữa quân đội xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại trong mối quan hệ “kép”, quan hệ giữa Đảng Cộng sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa và quan hệ giữa Đảng Cộng sản với quân đội xã hội chủ nghĩa. Đây là nét đặc thù, quy định sự khác nhau về chất trong mối quan hệ giữa quân đội xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa so với các mối quan hệ giữa các kiểu quân đội với các kiểu nhà nước đã có trong lịch sử.

Mối quan hệ giữa quân đội xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân đã quy định những đặc điểm của quân đội xã hội chủ nghĩa - quân đội kiểu mới trong lịch sử. Những đặc điểm đó là:

- Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức của nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà sức mạnh lãnh đạo, hướng dẫn và tổ chức của các quân đội đó là các Đảng mácxít - lêninnít. Tuy trình độ phát triển có khác nhau nhưng các quân đội ấy đều có cùng một kiểu quan hệ xã hội và nhà nước. Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa đều theo một hệ tư tưởng thống nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin.

- Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa là quân đội nhân dân thực sự. Các quân đội đó bảo vệ lợi ích của công nhân và nông dân, của nhân dân lao động, mật thiết liên hệ với nhân dân và bảo vệ những thành quả vĩ đại của chủ nghĩa xã hội, là sự thể hiện của khối liên minh công - nông - trí. Tính chất nhân dân thực sự của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa biểu hiện ở chức năng, nhiệm vụ mà nó thực hiện; ở sự nhất trí giữa quân đội với nhân dân và ở tính chất xã hội, quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ.

- Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa là quân đội của tình hữu nghị và anh em giữa các dân tộc, thống nhất thành một khối trong Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa được giáo dục tinh thần bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc trong Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa chiến đấu quên mình để bảo vệ tự do, độc lập, hạnh phúc của nhân dân các dân tộc trong Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa là quân đội của tình hữu nghị giữa các dân tộc của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, thấm nhuần tinh thần quốc tế vô sản xã hội chủ nghĩa, được xây dựng và phát triển trong sự đoàn kết chặt chẽ và tương trợ anh em. Dựa trên sự thống nhất của những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng, quân đội các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và tương trợ anh em trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự.

Những đặc điểm nổi bật trên đây của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác về chất với những đặc điểm của quân đội các nhà nước bóc lột trong lịch sử. Sự khác nhau về chất đó là do đặc điểm về sự ra đời, tồn tại và phát triển của quân đội xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ chặt chẽ giữa quân đội xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước kiểu mới trong lịch sử, và mối quan hệ đó lại được quy định bởi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân quy định. Đảng Cộng sản quy định việc tổ chức và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo đó cũng quy định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; hệ tư tưởng; nguyên tắc tổ chức, xây dựng quân đội.

Những đặc điểm trên đây của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa quy định chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong mối quan hệ với nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác về chất với các mối quan hệ giữa các quân đội với các nhà nước trong lịch sử. Chức năng, nhiệm vụ của quân đội xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ với nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được xem xét, tiếp cận từ các khía cạnh: thứ nhất, quân đội thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa; thứ hai, quân đội thực hiện chức năng bạo lực trấn áp và tổ chức xây dựng của nhà nước xã hội chủ nghĩa; thứ ba, quân đội thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều khẳng định là, dù tiếp cận ở góc độ nào, thì quân đội xã hội chủ nghĩa bao giờ cũng phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ và tham gia xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thông qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ và tham gia xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa để khẳng định bản chất giai cấp công nhân, những đặc điểm của quân đội xã hội chủ nghĩa so với các kiểu quân đội trong lịch sử.

Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quân đội nhân dân Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Quân đội nhân dân Việt Nam cũng mang đầy đủ những đặc điểm của quân đội kiểu mới - quân đội xã hội chủ nghĩa.

Trong mối quan hệ với nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là công cụ bạo lực vũ trang sắc bén để bảo vệ nhà nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng vững mạnh. Quá trình bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thể hiện rõ nét thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của quân đội. Trong điểm 2 điều 25 của Luật Quốc phòng năm 2018 đã chỉ rõ Quân đội có 4 chức năng nhiệm vụ cơ bản:.

Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực vũ trang sắc bén trong việc góp phần bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược trước đây, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là đội quân chiến đấu trên mặt trận vũ trang, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng biện pháp vũ trang để bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân mà còn là đội quân chiến đấu trên mặt trận phi vũ trang chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và chống lại cả những nguy cơ “nội sinh” đang hàng ngày, hàng giờ tấn công vào bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta, bảo vệ vững chắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Thực hiện công tác vận động, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị quan trọng góp phần tuyên truyền, giáo dục những chủ trương, chính sách của nhà nước, góp phần quan trọng vào việc thực hiện phương châm “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” của Nhà nước ta trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là lực lượng quan trọng trong việc góp phần bảo vệ và xây dựng chính quyền các cấp, nhất là trong việc góp phần bảo vệ và xây dựng chính quyền cơ sở ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Thực tiễn đã chứng minh rằng, thông qua thực hiện chức năng đội quân công tác, quân đội ta đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và tham gia xây dựng, củng cố chính quyền ở các cấp, nhất là ở những địa bàn khó khăn, xung yếu.

Lao động sản xuất…, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh. Điều đó được thể hiện qua việc Quân đội nhân dân Việt Nam góp phần tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước ta. Sự vững mạnh của cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội chính lại là điều kiện quan trọng để củng cố chính quyền nhà nước. Trong điều kiện hiện nay của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng việc góp phần thực hiện chủ trương, chính sách của nhà nước trong việc xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo ra những cơ sở xã hội cho việc xây dựng và củng cố chính quyền nhà nước.

Thực hiện nghĩa vụ quốc tế, cả trong thời chiến hay trong thời bình, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn phát huy bản chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; thường xuyên có mặt ở những nơi khó khăn nhất để thực hiện mục tiêu chung của thời đại “vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của nhân dân thế gới”. Những hình ảnh của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Nam Su Đăng đã thể hiện rất rõ chức năng, làm nhiệm vụ Quốc tế hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam

Như vậy là, cả lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng, quân đội kiểu mới - quân đội xã hội chủ nghĩa nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng là công cụ bạo lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quân đội đó ra đời, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khác với các kiểu quân đội của các nhà nước bóc lột trong lịch sử, quân đội kiểu mới, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng trong việc góp phần bảo vệ và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội kiểu mới, và cũng chính thông qua quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà quân đội kiểu mới nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng tiếp tục khẳng định bản chất giai cấp công nhân của quân đội, khẳng định những đặc điểm riêng biệt, hoàn toàn khác về chất của quân đội xã hội chủ nghĩa với các kiểu quân đội trong lịch sử. Đây chính là cơ sở quan trọng để chống lại quan điểm sai trái, thù địch đòi phi chính trị hóa quân đội nhằm chống phá cách mạng việt Nam. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần nâng cao tinh thần cảnh giác, đáu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới.