Thứ Tư, 3 tháng 5, 2023

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân: Giá trị lý luận và thực tiễn.

 “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân” đã trở thành di sản tinh thần thiêng liêng, quý giá, luôn được các thế hệ Công an nhân dân quán triệt, học tập, thực hành một cách nghiêm túc, tự giác; là cội nguồn sức mạnh, động lực tinh thần to lớn cổ vũ, động viên lực lượng Công an nhân dân tu dưỡng, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cùng các đại biểu nữ công an nhân dân _Ảnh: VGP

1- Công an Việt Nam là Công an nhân dân (CAND) từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc. Ra đời trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (ngày 19-8-1945), được Đảng và Bác Hồ chăm lo giáo dục, rèn luyện; được nhân dân hết lòng tin yêu, giúp đỡ, lực lượng CAND đã thể hiện bản chất anh hùng, bản lĩnh kiên cường, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, lập nên nhiều chiến công hiển hách, khẳng định được vị thế, vai trò nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đóng góp rất quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước, nâng cao vị thế dân tộc trên trường quốc tế...

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta, người cha thân yêu của lực lượng CAND, đã để lại cho lực lượng CAND di sản vô giá có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, mà tiêu biểu trong đó là “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”. Theo đó, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra gay go, ác liệt; để động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu, xây dựng và rèn luyện đội ngũ cán bộ, chiến sĩ CAND, tháng 3-1948, trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an khu XII, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra tư cách của người Công an cách mạng là: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc, phải tận tụy. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”(1).

“Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân” là một chỉnh thể thống nhất, hàm chứa những giá trị tư tưởng, cách mạng, đạo đức nhân văn cao quý; không chỉ có giá trị lịch sử to lớn, mà còn có giá trị thời đại; là di sản tinh thần vô giá, là chuẩn mực về đạo đức, phong cách, phương châm hành động và thái độ ứng xử có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với toàn lực lượng và mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND, là “kim chỉ nam” chỉ dẫn, định hướng về tư tưởng và hành động của lực lượng CAND nói chung, của mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND nói riêng trong rèn luyện, học tập, công tác, chiến đấu, cần được tiếp tục vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vừa mang tính bao quát, vừa phù hợp với từng đối tượng, lực lượng cụ thể. Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là 4 đức tính cần có của người cán bộ cách mạng nói chung và người cán bộ, chiến sĩ CAND nói riêng. Cần “là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”(2), không lười biếng, ngại khó, ngại khổ, làm việc qua loa, đại khái; Cần còn là làm việc một cách thông minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học và hiệu quả. Kiệm “là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”(3), phải tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái lớn, không phô trương hình thức, không lãng phí thời gian, của cải của mình và của nhân dân. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, bởi cần mà không kiệm thì như gió vào nhà trống, như nước đổ vào thùng không đáy. Liêm “là trong sạch, không tham lam”(4), sống trong sạch, lành mạnh, quang minh, chính đại, không tham chức quyền, địa vị, không tham ô, tham nhũng, tiêu cực. Chính là việc phải, việc đúng, việc nghĩa, việc thiện; người cán bộ công an luôn ủng hộ và bảo vệ cái đúng, cái thiện, tôn trọng lẽ phải, làm theo lẽ phải, đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chống mọi biểu hiện bàng quan, vô trách nhiệm, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh.

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, chiến sĩ CAND luôn đề cao và coi trọng nghề nghiệp của mình; muốn thế, trước hết cần rèn luyện đạo đức làm người, biểu hiện ở lòng thương yêu, quý trọng con người một cách thấu tình, đạt lý, sống với nhau có nghĩa có tình, có lòng nhân ái vị tha, giúp đỡ đồng đội, đồng sự vượt qua khó khăn, khắc phục mọi khuyết điểm, hạn chế, yếu kém để vươn lên cùng nhau tiến bộ và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, người cán bộ, chiến sĩ CAND phải tuyệt đối trung thành với Chính phủ cũng đồng nghĩa với tuyệt đối trung thành với Đảng. Bởi lẽ, Chính phủ của ta là Chính phủ của nhân dân, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Công an nhân dân là công cụ chuyên chính sắc bén của Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; vì vậy, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Chính phủ là một yêu cầu, một nguyên tắc không thể thiếu trong phẩm chất của người cán bộ, chiến sĩ CAND.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, chiến sĩ CAND cần hiểu rõ, “làm công an không phải là làm quan cách mạng”, làm công an là để giữ gìn trật tự, an ninh cho nhân dân, mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Người thường xuyên căn dặn cán bộ, chiến sĩ CAND: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”(5), hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, dựa vào nhân dân mà làm việc, có như vậy, CAND mới xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Công an nhân dân là con em của nhân dân; vì vậy, kính trọng, lễ phép với nhân dân, xưng hô, ứng xử đúng mực với nhân dân, có trách nhiệm với nhân dân, lắng nghe ý kiến góp ý của nhân dân để hoàn thiện bản thân, mỗi ngày làm nhiều việc tốt vì nhân dân, “gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, dựa vào nhân dân” là quan điểm, thái độ, nguyên tắc xử thế của cán bộ, chiến sĩ CAND.

Đối với công việc, Người luôn yêu cầu cán bộ, chiến sĩ CAND phải tận tụy, toàn tâm, toàn ý, hết lòng, hết sức với công việc; luôn xây dựng ý thức làm việc tự giác, có kỷ luật, kỷ cương, có trách nhiệm; thường xuyên đổi mới, cải tiến phương pháp làm việc, hình thành tác phong làm việc chu đáo, nền nếp, cẩn thận, có tính khoa học và hiệu quả thiết thực.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn công tác, lực lượng CAND phải luôn giữ vững nguyên tắc: “Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”. Cương quyết, khôn khéo là hai yêu cầu, hai nội dung, hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, bổ sung qua lại lẫn nhau. Cương quyết đối với địch là thể hiện tinh thần, ý chí sắt đá, thái độ cứng rắn, quyết đoán, không khoan nhượng, thà hy sinh chứ nhất định không lùi bước trước bất kỳ kẻ thù nào. Còn khôn khéo là cách ứng xử thông minh, nhanh nhẹn, linh hoạt, sáng tạo của người cán bộ, chiến sĩ CAND với địch. Sự cương quyết và khôn khéo không thể tách rời nhau, cương quyết phải dựa trên cơ sở khôn khéo; ngược lại, sự khôn khéo là để giữ vững sự cương quyết, là cách thức, phương pháp thể hiện sự cương quyết. Đây là cách đánh bại kẻ địch mang tầm chiến lược, là nghệ thuật đánh địch mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy cho lực lượng CAND.

“Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân” là nền tảng tư tưởng, “kim chỉ nam” cho công cuộc xây dựng lực lượng CAND vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Để xây dựng lực lượng CAND vững về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn”(6). Do tính chất hoạt động đặc thù của lực lượng CAND nên phải thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ toàn lực lượng về nhiệm vụ chính trị của mình, củng cố niềm tin, sự kiên định, lòng trung thành với Đảng, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo CAND tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; mỗi cán bộ, chiến sĩ phải xây dựng lý tưởng, mục tiêu phấn đấu, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện lời dạy của Người: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”.

Đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng CAND về tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là cơ sở để xây dựng lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là nền móng để xây dựng lực lượng CAND đoàn kết, thống nhất, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Người khẳng định: “Về tư tưởng, nhất định phải học tập lý luận Mác - Lênin... giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng”(7). Theo Người: “... mỗi cán bộ công an phải cố gắng, gương mẫu trong học tập, trong công tác, gương mẫu về đạo đức cách mạng”(8); thường xuyên nâng cao tính tổ chức, đề cao kỷ luật, tinh thần cảnh giác cách mạng, dũng cảm, mưu trí, đối với địch phải “cương quyết, khôn khéo”.

Xây dựng lực lượng CAND về tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu xây dựng bộ máy CAND tinh, gọn, thiết thực, coi trọng tính hiệu quả, tiết kiệm; “Cách tổ chức công an phải giản đơn, thiết thực, tránh cái tệ quá hình thức, giấy má”(9). Đồng thời, Người nhấn mạnh tập trung xây dựng lực lượng CAND vững về chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ, am hiểu trên mọi lĩnh vực, bộ máy công an phải trong sạch là nhiệm vụ cấp thiết và chỉ rõ: “... phải xây dựng một bộ máy công an rất tốt, rất chắc chắn. Ai phải xây dựng? Mỗi một cán bộ công an đều có trách nhiệm vào đấy”(10).

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải chăm lo xây dựng bộ máy công an ở địa phương, biên giới, hải đảo: “Phải củng cố thật tốt công an khu phố, huyện và xã. Đó là những cơ sở của công an”(11). Để xây dựng bộ máy công an thật sự trong sạch, luôn phải nêu cao “cần, kiệm, liêm, chính”, xây dựng bộ máy công an đoàn kết, có lề lối làm việc dân chủ; tăng cường công tác quản lý, thường xuyên kiểm tra, giám sát, giúp đỡ cán bộ, phòng ngừa sai phạm. Người yêu cầu: “Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh”(12)

Xây dựng lực lượng CAND về đạo đức: Người nhấn mạnh đạo đức là gốc, là nhân cách của người công an cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người”(13). Trong tư cách người công an cách mạng, điều đầu tiên Người nhắc đến là: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”. Đây là phẩm chất đạo đức cốt lõi trong hệ thống chuẩn mực đạo đức, là một trong những điều kiện để cán bộ, chiến sĩ công an nâng cao tri thức, nêu cao kỷ luật, tính tổ chức, làm gương cho cấp dưới, gương mẫu trước nhân dân, một lòng một dạ vì nước quên thân, vì dân phục vụ.

Học tập, thấm nhuần “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”, 74 năm qua (1948 - 2022) lực lượng CAND đã nỗ lực phấn đấu, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành về mọi mặt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong mọi tình huống.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thực hiện lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(14), lực lượng CAND tuy còn non trẻ, nhưng đã đoàn kết thống nhất, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, các tầng lớp nhân dân, sát cánh cùng Quân đội nhân dân dũng cảm chiến đấu, lập nhiều chiến công oanh liệt, đập tan mọi âm mưu phá hoại của địch, giữ vững an ninh, trật tự vùng tự do, các khu căn cứ, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, tổ chức lực lượng đánh sâu vào vùng địch tạm chiếm, phá tề, trừ gian, diệt ác, trấn áp kịp thời bọn phản cách mạng... góp phần quan trọng làm nên chiến thắng trên các chiến trường, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, ở miền Bắc lực lượng CAND đã thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh, trật tự, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; đánh bại chiến tranh gián điệp, biệt kích của Mỹ - Ngụy phá hoại miền Bắc; tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam. Ở miền Nam, lực lượng an ninh cách mạng sớm được hình thành và không ngừng củng cố, phát triển, kiên cường bám trụ, bám đất, bám dân, diệt ác, phá kìm, tổ chức công tác điệp báo, tình báo, đấu tranh làm thất bại các kế hoạch tình báo, gián điệp, các hoạt động “bình định”, “chiêu hồi” của địch; bảo vệ các phong trào quần chúng, căn cứ địa kháng chiến, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo; chiếm lĩnh, tiếp quản các cơ quan tình báo, cảnh sát của địch ở vùng mới giải phóng, triệt phá các tổ chức địch “cài cắm” vào nội bộ ta, góp phần đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch, làm nên những chiến thắng vang dội, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Tổ quốc thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội rất phức tạp, nhất là vùng mới giải phóng. Trước tình hình đó, lực lượng CAND đã gắn bó mật thiết với nhân dân, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, các cấp, các ngành, đấu tranh làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, trấn áp kịp thời các loại tội phạm, làm tốt vai trò nòng cốt, xung kích trên mặt trận bảo vệ an ninh, trật tự, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định cuộc sống của nhân dân. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, cán bộ, chiến sĩ CAND đã kề vai, sát cánh cùng bộ đội và nhân dân các tỉnh biên giới dũng cảm chiến đấu chống quân xâm lược, giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc; hỗ trợ, giúp đỡ lực lượng công an non trẻ của nước bạn với tinh thần quốc tế cao cả.

Bước vào thời kỳ đổi mới, bối cảnh đất nước hết sức khó khăn, tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, trong đó có lực lượng CAND. Trước tình hình đó, lực lượng CAND đã chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu cho Đảng và Nhà nước nhiều chủ trương, quyết sách có ý nghĩa chiến lược về an ninh, lợi ích quốc gia, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước; chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động kích động gây rối an ninh, trật tự, gây bạo loạn ở các vùng chiến lược, các thành phố lớn; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Chiến sĩ cảnh sát phòng cháy, chữa cháy cứu người trong hỏa hoạn_Nguồn: thanhnien.vn

2- Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết các Đại hội Đảng và các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Công an đã có nhiều chủ trương, kế hoạch, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng CAND đẩy mạnh việc học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy gắn với việc học tập và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương về xây dựng Đảng. Ngành công an đã tập trung triển khai có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”... Ngành tổ chức thực hiện thường xuyên việc tự soi, tự sửa, tự nhận diện biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng phong cách, tác phong người đứng đầu của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định có liên quan về trách nhiệm nêu gương(15).

Bộ Công an đã gương mẫu, đi đầu trong điều chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15-3-2018, của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị định số 01/2018/NĐ-CP, ngày 6-8-2018, của Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, theo hướng “Bộ tinh gọn, tỉnh vững mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”. Đối với cơ quan Bộ, từ 6 Tổng cục, 2 Bộ tư lệnh, 8 đơn vị trực thuộc Bộ và 103 đơn vị cấp Cục, đã được sắp xếp lại thành 48 đơn vị trực thuộc Bộ, 4 Bệnh viện CAND và 11 học viện, trường CAND; sáp nhập 20 cảnh sát phòng cháy, chữa cháy cấp tỉnh vào Công an tỉnh; sắp xếp lại tổ chức bộ máy bảo đảm “một việc chỉ một người làm”, “một việc chỉ do một cơ quan chủ trì thực hiện”, “một người làm nhiều việc”, và triển khai thực hiện khung tiêu chuẩn, tiêu chí, bố trí cán bộ theo 4 cấp công an. Đến nay, ngành đã bố trí đủ 100% là công an chính quy đảm nhận chức danh công an xã, thị trấn, bước đầu đem lại hiệu quả tích cực, tình hình an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở được bảo đảm và có những chuyển biến rõ rệt. Tính đến ngày 14-8-2022, Công an 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã bố trí được 49.664 cán bộ/8.864 Công an xã, thị trấn (trung bình mỗi xã, thị trấn bố trí 5,6 cán bộ); về chức vụ: Có 8.538 trưởng Công an xã, thị trấn; 10.375 phó trưởng Công an xã, thị trấn; 30.751 công an viên.

Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an đã chỉ đạo xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy định, quy trình, quy chế và tiêu chí nêu gương trong lực lượng CAND; yêu cầu cam kết, giao ước thực hiện tiêu chí gương mẫu của người lãnh đạo, chỉ huy trong việc giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tu dưỡng, rèn luyện “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”. Qua thực tiễn công tác đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh “thức cho dân ngủ ngon, gác cho dân vui chơi, lấy hạnh phúc của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của mình”. Cụ thể, trong cuộc phòng, chống đại dịch COVID-19, niềm tin của nhân dân vào lực lượng CAND ngày càng được khẳng định, khi hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ bị lây nhiễm trong khi thực hiện nhiệm vụ, 11 đồng chí đã hy sinh, trong đó có những đồng chí tuổi đời, tuổi nghề còn rất trẻ; đối với lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, trong 5 năm (2017 - 2021) có 8 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh và nhiều đồng chí bị thương trong khi làm nhiệm vụ; trong cuộc đấu tranh chống tội phạm về ma túy có 27 cá nhân là cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng CAND, bộ đội biên phòng và quần chúng nhân dân đã hy sinh, hơn 700 đồng chí bị thương hoặc bị phơi nhiễm HIV.

Trong thực hiện nhiệm vụ được giao, lực lượng CAND đã chủ động nắm, đánh giá, dự báo tình hình, kịp thời tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp đề ra các chủ trương, giải pháp quan trọng, chiến lược về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch, phản động; không để xảy ra khủng bố, bạo loạn, hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong nội địa, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Ngành đã kiên quyết đấu tranh, trấn áp kịp thời các loại tội phạm, nhất là tội phạm về kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm trên tinh thần “Thượng tôn pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình, ổn định, an toàn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngành chủ động xây dựng và thực hiện các phương án bảo vệ an toàn đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng; bảo vệ an toàn bầu cử Quốc hội khóa XV và bầu cử hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026; triển khai thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống dịch COVID-19. Nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số trong ngành Công an được đẩy mạnh thực hiện theo đúng chương trình, kế hoạch. Bên cạnh đó, ngành cũng tập trung đầu tư trang thiết bị, hiện đại hóa một số lực lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Hiện nay và trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp với nhiều vấn đề mới nảy sinh, tác động trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh, trật tự của đất nước. Trước tình hình đó, để bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước; lực lượng CAND kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, trấn áp kịp thời các loại tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Ngành công an nỗ lực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đến năm 2025 về cơ bản xây dựng lực lượng tinh gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu đến năm 2030 xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”.

Công an Thành phố Hồ Chí Minh làm căn cước công dân gắn chíp cho người dân_Nguồn: plo.vn

Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và cấp thiết, đòi hỏi Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an phải tập trung xây dựng nhiều đề án tổng thể, với lộ trình và bước đi phù hợp, cụ thể, trên từng lĩnh vực công tác; chuẩn bị chu đáo về nhân lực, vật tư, thiết bị, tài chính... để tổ chức thực hiện thành công những nội dung Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, của Bộ Chính trị đề ra cho lực lượng CAND từ nay đến năm 2030. Về lĩnh vực xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng, xây dựng người Công an cách mạng theo Sáu điều Bác Hồ dạy, lực lượng CAND cần tập trung triển khai thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trước mắt như sau:

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với công tác công an và xây dựng lực lượng CAND. Tiếp tục học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, của Bộ Chính trị. Đồng thời, đẩy mạnh phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy” gắn chặt với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị;  ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng, gắn với phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc”, thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Định kỳ tổ chức liên hệ, kiểm điểm việc tự soi, tự sửa, nhận diện 27 biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra, gắn với kiểm điểm việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”, Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Lấy kết quả đó làm một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên hằng năm, nhất là đánh giá cán bộ để quy hoạch, luân chuyển, điều động, đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ.

Chú trọng tuyên truyền những tấm gương mưu trí, dũng cảm trong đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm; những tấm gương tận tụy trong học tập, công tác, vì nhân dân phục vụ; những tấm gương liêm khiết, hình ảnh đẹp của người cán bộ, chiến sĩ CAND trong cuộc sống. Tập trung xây dựng, củng cố các tổ chức đảng trong CAND trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đề cao trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là năng lực tổ chức học tập, quán triệt và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của ngành Công an.

Hai là, xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy Bộ Công an khoa học, hợp lý, chính quy, hiện đại; tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tăng cường tính chất vũ trang, tính kỷ cương, kỷ luật; bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đặt trong tổng thể về kiện toàn tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, nhưng không hành chính hóa hoạt động của lực lượng CAND. Bố trí lực lượng, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ và lãnh đạo, chỉ huy, cơ cấu biên chế trong nội bộ một cách hợp lý, bảo đảm nguyên tắc “một việc chỉ một đơn vị chủ trì thực hiện”, theo hướng “Bộ tinh gọn, tỉnh vững mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”, tăng cường cho lực lượng trực tiếp chiến đấu, hướng về cơ sở và chính quy hóa lực lượng công an xã, thị trấn.

Ba là, tập trung tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, bảo đảm có nguồn nhân lực trình độ cao, năng lực toàn diện, tinh thông nghiệp vụ, có tư duy chiến lược, chiến thuật sắc sảo, tác phong chuyên nghiệp, khả năng làm chủ và sử dụng thành thạo các loại phương tiện được trang bị; đủ trình độ ngoại ngữ, kiến thức phục vụ công tác công an thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục - đào tạo, đổi mới công tác tuyển sinh, điều chỉnh nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng cán bộ; nghiên cứu xây dựng mô hình đại học thông minh, sử dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào phục vụ giảng dạy và huấn luyện. Tập trung nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ trong các lĩnh vực của ngành công an, nhất là công nghệ số, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo; xây dựng các dự án trọng điểm, cấp bách để đưa một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.

Bốn là, đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, nhất là thanh niên CAND. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống; xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ CAND tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, có lập trường tư tưởng vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có trình độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ, nắm vững pháp luật, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc học tập và thực hiện “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các tập thể và cá nhân vi phạm. Định kỳ 3 năm, 5 năm tiến hành sơ kết, tổng kết, đề xuất khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy” nhằm nhân rộng điển hình tiên tiến, tạo sức lan tỏa sâu, rộng trong toàn lực lượng làm cho việc học tập, thực hiện “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân” ngày càng có chất lượng và hiệu quả hơn.

Năm là, tiếp tục tổng kết, đổi mới lý luận xây dựng lực lượng CAND. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND, ngành tập trung xây dựng, phát triển, hoàn thiện hệ thống lý luận về xây dựng lực lượng CAND, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là trách nhiệm của cấp ủy, lãnh đạo công an các cấp và toàn thể cán bộ, chiến sĩ. Đây là cơ sở khoa học, định hướng đúng đắn cho công tác xây dựng lực lượng trong toàn ngành, góp phần bổ sung, phát triển lý luận bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong thời kỳ mới. Theo đó, nội dung cơ bản là phải đổi mới sâu sắc, toàn diện công tác nghiên cứu lý luận xây dựng lực lượng CAND trong thời kỳ đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, nâng tầm nhận thức, trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, trước hết và đặc biệt là người đứng đầu công an các đơn vị, địa phương./.

--------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 498 – 499
(2), (3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 118, 122, 126
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 5, tr. 499
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 12, tr. 269
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8, tr. 279
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 11, tr. 250
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 312
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 11, tr. 250
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 14, tr. 72
(12), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 312, 117
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 534
(15) Như: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị và Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; Quy định số 136-QĐ/ĐUCA, ngày 6-8-2012 và Quy định số 01-QĐi/ĐUCA, ngày 28-1-2019, của Đảng ủy Công an Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Ủy viên Ban Thường vụ và người đứng đầu Công an các đơn vị, địa phương”

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục đặt ra yêu cầu nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để định hình một nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính quốc gia

Một là, xây dựng nền hành chính hợp hiến, hợp pháp

Chế độ dân chủ cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(1). Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến là nhà nước của dân, do dân và vì dân; mang bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Do vậy, nền hành chính nhà nước phải phù hợp với bản chất của nhà nước, của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, gắn bó với quần chúng nhân dân, phục vụ nhân dân và lấy lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc làm cơ bản.

Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”(2). Điều này cho thấy vai trò, tầm quan trọng của hiến pháp trong xây dựng một nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền, trước hết là hiến định chủ quyền của quốc gia - dân tộc, ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.

Với tính chất quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, lập Chính phủ chính thức cũng như ban hành Hiến pháp. Cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 được tiến hành thắng lợi với chế độ phổ thông đầu phiếu. Qua bầu cử Quốc hội khóa I và các kỳ bầu cử Quốc hội sau đó, các quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của công dân từng bước được thực thi. Bản Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được Quốc hội thông qua với sự đồng thuận gần như tuyệt đối của các đại biểu (240/242 phiếu). Hiến pháp năm 1946 khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chế định bản chất cách mạng, tính dân chủ, nhân dân và pháp quyền thành những điều khoản cụ thể. Đây chính là quá trình hiện thực hóa, pháp chế hóa, thể hiện tính ưu việt của một chế độ mới luôn mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân.

Cùng với Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cao nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Trước đó, từ rất sớm, Người đã yêu cầu: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(3). Pháp luật là tối thượng và phải có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, bất kể cá nhân hay tổ chức đều phải tuân theo. Việc xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp gắn với xây dựng một nền hành chính dân chủ, liêm chính, khoa học luôn là vấn đề thường trực trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm hướng tới xây dựng “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt” của nhân dân.

Hai là, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân

Lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất khi thiết kế nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “1- Làm cho dân có ăn; 2- Làm cho dân có mặc; 3- Làm cho dân có chỗ ở; 4- Làm cho dân có học hành”(4). Đây cũng chính là ham muốn tột bậc của Người, rằng: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(5). Do vậy, nền hành chính nhà nước phải vì: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đây là cơ sở để hướng mọi nỗ lực của các cơ quan hành chính vào phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngày 3-6-1955, tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trước nhân dân: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(6). Điều đó có nghĩa là Đảng và Chính phủ không chỉ lo những vấn đề lớn, mà còn cả những vấn đề thiết thực đối với nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền hành chính phục vụ, một nền hành chính của dân, do dân và vì dân; công chức hành chính là đầy tớ của dân, phục vụ nhân dân, chứ không phải “đè đầu cưỡi cổ” nhân dân như trong thời phong kiến, thực dân. Cá nhân hay tổ chức làm hại dân thì dân có quyền phê bình, thậm chí “đuổi cổ” họ. Với tư tưởng đó, nền hành chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự độc đáo, sáng tạo và mang tính dân chủ sâu sắc. Một nền hành chính mạnh mẽ, sáng suốt là nền tảng cho việc tổ chức nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, làm cho hiệu lực pháp luật được triển khai trong thực tế.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Ba là, xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả

Xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của đất nước.

Trong quá trình xây dựng nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại các tiêu cực nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, liêm chính, tinh gọn và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thể hiện bản chất nhà nước kiểu mới, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ra sức phục vụ nhân dân. Hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước phụ thuộc lớn vào hiệu quả hoạt động của các thành phần cấu thành nên nó. Do vậy, cần phải xây dựng một bộ máy hành chính đồng bộ, khoa học, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra một phương châm nhất quán: gọn nhẹ, có cơ cấu hợp lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”(7). Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Để có nền hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần có quy trình tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ phù hợp, đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng. Về số lượng, trước yêu cầu ngày càng lớn của cách mạng, Người rất quan tâm đến số lượng cán bộ, công chức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hình thức chọn cán bộ để bảo đảm về số lượng, như qua kỳ thi, qua xét học bạ hay văn bằng và đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Cùng với đó, Người đã ra thông lệnh Tìm người tài đức để tuyển chọn cán bộ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức... các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”(8)Ngoài ra, Người còn chỉ ra các nguồn nhân tài từ các nhân sĩ, trí thức trong chế độ cũ có tinh thần yêu nước; từ các tổ chức đoàn thể cách mạng và rộng rãi trong nhân dân.

Về chất lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Thứ nhất, cán bộ phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, với Tổ quốc. Đây là phẩm chất đạo đức cao nhất đối với người cách mạng bởi trong các mối quan hệ thì mối quan hệ với Tổ quốc, với dân tộc là thiêng liêng và cao quý nhất. Cán bộ nhận thức đúng đắn được vấn đề này thì họ mới có thể toàn tâm, toàn ý phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cách mạng và đặt quyền lợi của Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, trước hết. Lòng trung thành của cán bộ phải được thể hiện qua công việc hằng ngày, trong mọi lĩnh vực và trong hiệu quả công tác. Trong lịch sử, rất phổ biến tâm lý làm quan để “cả họ được nhờ”, rồi nghiễm nhiên trở thành “dân chi phụ mẫu”. Còn trong xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “trả lại” cán bộ, công chức nhà nước về đúng vị trí là công bộc của nhân dân. Mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động trong sáng, vì lợi ích của nhân dân và dân tộc. Cán bộ phải hiểu rằng, quyền lực mình đang có trong tay là do dân uỷ thác chứ không phải tự nhiên mà có, phải dùng quyền lực đó để phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Nhân dân mới là người có quyền lực to nhất, do vậy, mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động theo phương châm: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(9).

Thứ hai, cán bộ phải có năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức, viên chức phải bảo đảm trình độ về chuyên môn, đạo đức. Ngày 20-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76-SL, ban hành Quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòà, Điều 17 của Sắc lệnh quy định rõ: “Tùy nhu cầu công việc, cấp quản trị công chức sẽ mở những kỳ thi tuyển dụng nhân viên. Kỳ thi phải công bố trước ngày thi ít nhất là 2 tháng. Thể lệ và chương trình thi vào mỗi ngạch sẽ do nghị định Bộ sở quản ấn định, sau khi thỏa thuận với Bộ Quốc gia Giáo dục và Bộ Nội vụ”. Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 10-NV2, quy định rõ các phần thi, gồm: “phần 1: một bài luận về văn chương, công dân, giáo dục và thường thức (làm bài trong 2 giờ, được tính hệ số 3); phần 2: một bài địa lý và sử ký (theo chương trung trung học phổ thông, 1 giờ 30 phút, hệ số 2); phần 3: một bài về tổ chức bộ máy chính quyền, Hội đồng nhân dân tỉnh, xã và ủy ban kháng chiến hành chính các cấp (3 giờ, hệ số 3); phần 4: một bài đánh máy chữ (30 phút, hệ số 2); phần 5: một bài tốc ký (Nếu thí sinh tình nguyện) và một giờ dịch ra tiếng Việt (hệ số 2); đồng thời, giới hạn nội dung cụ thể cho từng phần thi và quy định thang điểm là từ 0 đến 20 điểm. Thí sinh phải đạt 12/20 điểm mới trúng tuyển”(10). Thông qua hình thức thi tuyển công chức theo Sắc lệnh 76 và Hướng dẫn số 10 của Bộ Nội vụ, Nhà nước sẽ có được đội ngũ cán bộ nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, có tri thức cơ bản trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng với tinh thần xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên”.

Thứ ba, cán bộ phải là người dám phụ trách, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ phải luôn có tinh thần dám phụ trách, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn cán bộ, đảng viên “phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(11).

Thứ tư, cán bộ phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động vì sự trong sạch, vững mạnh của nhà nước, của nền công vụ. Việc thường xuyên tự phê bình và phê bình là nhằm giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng và nâng cao năng lực công tác, đồng thời để chăm lo xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục vụ. Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải thực sự liêm khiết. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ nghĩa cá nhân là thứ “giặc trong lòng”, “giặc nội xâm”, là căn bệnh gốc sinh ra thói “quan cách mạng”, quan liêu, tham ô, lãng phí, ăn cắp của công. Người cho rằng, nếu Đảng, Chính phủ, đồng bào và chiến sĩ “ra sức chống giặc ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm” là chưa làm tròn bổn phận của người cách mạng, người yêu nước.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nền hành chính nhà nước ở nước ta qua hơn 36 năm đổi mới.

Qua hơn 36 năm đổi mới, việc cải cách hành chính trên một số lĩnh vực có bước đột phá(12). Hệ thống thể chế hành chính nhà nước được cải cách, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, tinh thần dân chủ trong cải cách hành chính được đề cao. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính trong từng giai đoạn cụ thể, đồng thời tiến hành đánh giá, xếp loại công tác cải cách hành chính và công bố kết quả rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hệ thống tổ chức hành chính nhà nước từng bước được tinh gọn từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm, chính phủ số, nền hành chính số từng bước định hình hướng tới một nền hành chính hiện đại. Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Chính phủ đã tiến hành tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Các nguồn lực vật chất cần thiết được bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước; các cơ quan, đơn vị đã chủ động tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động...

Cán bộ, công chức Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn người dân nộp hồ sơ dịch vụ công trực tuyến_Nguồn: baoquangninh.com.vn

Mặc dù vậy, việc cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước(13), nhiều hạn chế chậm được khắc phục, như tính đồng bộ chưa cao giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chất lượng thể chế thấp, thủ tục hành chính còn rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh, chất lượng đội ngũ cán bộ còn hạn chế, việc tinh giản biên chế có nơi, có chỗ còn mang tính hình thức, chế độ, chính sách tiền lương chưa có đột phá. Chính phủ số và nền hành chính số còn phát triển chậm và chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương...

Trước tình hình đó, Đảng ta yêu cầu: “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”(14). Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng nền hành chính nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phải trên cơ sở giữ vững được bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ấy phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, chăm lo đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Pháp luật phải có tính nhân văn, hướng thiện, vì con người. Công tác xây dựng, cải cách nền hành chính phải gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, phát huy vai trò giám sát của nhân dân. Đây là giải pháp mang tính tất yếu, khách quan để khắc phục những bất cập, hạn chế của nền hành chính. Từ đó, nâng cao tính chuyên môn và đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức để việc cải cách hành chính hướng đến công khai, minh bạch và dân chủ ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Đây cũng là mục tiêu của cải cách hành chính ở nước ta hiện nay, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao khả năng phối hợp giữa các cấp, các ngành để đạt hiệu quả cao trong quá trình hoạt động.

Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước đòi hỏi hết sức chú trọng công tác cải cách, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho nhân dân. Cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước, như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, có lời nói, hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực với nhân dân, gây bức xúc trong xã hội. Đồng thời, phải lấy hiệu quả công việc và sự hài lòng, sự tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí đánh giá quan trọng đối với tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.

Bên cạnh đó, cần bảo đảm công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, chống các hiện tượng tiêu cực gây phiền hà, mất thời gian, công sức của nhân dân. Điều đó sẽ góp phần đổi mới, cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính nhà nước phải đề cao trách nhiệm cá nhân trong giải quyết khiếu kiện của công dân đúng quy định của pháp luật. Cải cách thủ tục hành chính phải được thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, với quyết tâm cao nhằm xóa bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.

Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng bước hoàn thiện các tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là chủ, làm chủ của nhân dân.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phải hướng tới giữ vững chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa vì thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Chỉ có phát huy dân chủ mới giúp cho cán bộ đề ra nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công tác. Hơn thế, việc phát huy dân chủ là để phát huy quyền là chủ và làm chủ của nhân dân theo luật định. Do đó, các mục tiêu, giải pháp xây dựng, cải cách và hoàn thiện nền hành chính phải vì lợi ích chính đáng của nhân dân và gắn bó chặt chẽ với quá trình đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ vững trật tự, kỷ cương, được bảo đảm bằng pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật, khác hoàn toàn với thứ dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(15).

Xây dựng Luật về đạo đức công vụ và thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức.

Khi đề cập đạo đức công vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến các chuẩn mực: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; phải có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao; có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc; chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, xây dựng Luật về đạo đức công vụ. Đây là công cụ để điều chỉnh hành vi đạo đức cho cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà nước hiện nay và từng bước tiến tới xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.

Đồng thời, trong quá trình cải cách hành chính cần thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức; từng bước hiện đại hóa nền công vụ nước nhà, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong nền hành chính, xây dựng bộ máy hành chính thành bộ máy phục vụ, kiến tạo, của dân, do dân, vì dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Từ những tư tưởng chỉ đạo của Người, nền hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cùng với dân tộc hoàn thành trách nhiệm lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cả dân tộc kháng chiến, kiến quốc và xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành người đặt nền móng cho việc xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Tư tưởng của Người mãi soi đường cho việc xây dựng nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân./.

--------------------------

(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 3, 7
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 473
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 175
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 504
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 21
(10) Công báo Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1-1950): Thông tư số 10-NV2 của Bộ Nội vụ, ngày 20-1-1950
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 – 612
(12) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 72
(13), (14) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 89 - 90, 176
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173


CẢM ĐỘNG, GẶP BỐ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG

 “Bố!". Tôi cất tiếng gọi và đứng lặng đi trong niềm hạnh phúc dâng trào khi được gặp bố tôi-Thiếu tá Trần Công Tính, lúc đó là Phó chính ủy Trung đoàn 102, Sư đoàn 308, Quân đoàn 1”. Ông Trần Công Chương, tay cầm bức ảnh đen trắng kỷ niệm hai bố con gặp nhau vào tháng 12-1967, xúc động kể với chúng tôi như vậy.

Đó là lần duy nhất hai bố con ông Chương gặp nhau trên chiến trường. Khi đó, ông Chương là trinh sát viên pháo binh, thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 45, Đại đoàn Công pháo 351 đóng tại Quảng Trị. Ông Chương kể: "Một ngày giữa tháng 12-1967, khi đang làm việc trên đài quan sát của Trung đoàn 45, tôi được cấp trên thông báo "chuẩn bị hành lý đi nhận nhiệm vụ ở Trung đoàn 102, Sư đoàn 308".
Từ Trung đoàn 45 đến Trung đoàn 102 khoảng 5 giờ đi bộ, theo đường mòn băng ngang rừng. Vừa đi, ông Chương vừa hồi hộp xen lẫn lo lắng vì cấp trên không cho biết nhận nhiệm vụ gì. Đến nơi, ông Chương được vệ binh dẫn vào lán tiếp khách của đơn vị. Ngồi chờ khoảng 30 phút, ông thấy một nhóm khoảng 5 người mặc quân phục đang tiến gần về lán. “Khi họ còn cách tôi khoảng 5m, nhận ra bố tôi đang đi hàng đầu tiên, tôi bật dậy gọi: “Bố!”. Bố đến gần rồi vòng hai tay ôm chầm lấy tôi với hai hàng nước mắt hạnh phúc chảy dài trên gò má”, ông Chương nhớ lại.
Đến lúc đó, ông Chương mới hiểu "nhiệm vụ" mà Trung đoàn 45 giao là tạo điều kiện để hai bố con ông được gặp nhau. Và cũng để tạo sự bất ngờ nên chỉ huy đơn vị không nói rõ điều này. Qua trò chuyện với bố mình, ông Chương được biết, khi nghe tin ông nhận nhiệm vụ ở một đơn vị chiến đấu trên địa bàn Trung đoàn 102 đóng quân, bố của ông có tâm sự với chỉ huy các cấp và được thủ trưởng quan tâm, giúp đỡ tìm được địa chỉ của con trai, đồng thời trao đổi với chỉ huy Trung đoàn 45 để hai bố con ông Chương được gặp nhau. Trong thời chiến tranh, gặp được người thân là món quà vô giá đối với bất kỳ cán bộ, chiến sĩ nào. Những ngày được sống bên bố, ông Chương được bố dạy bảo nhiều điều, đặc biệt là phải khắc ghi hai từ "dũng cảm"-dũng cảm trong chiến đấu, dũng cảm trong cuộc sống.
Ngày chia tay, hai bố con ông Chương được cán bộ tuyên huấn của Sư đoàn 308 chụp ảnh kỷ niệm. Năm 1970, ông Chương được đơn vị cử đi học tại Trường Sĩ quan Pháo binh, sau đó chuyển công tác vào Quân đoàn 3, tham gia chiến trường Tây Nguyên, rồi tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Năm 1989, ông Chương nghỉ chế độ với quân hàm đại úy. Còn bố của ông, Thiếu tá Trần Công Tính ở lại Sư đoàn 308 chiến đấu; năm 1973 bị thương phải đi chữa trị và về hưu năm 1975.
Trở về địa phương, hai bố con ông Chương cùng tham gia công tác thôn, xã. Đến năm 2020, bố của ông bị bạo bệnh qua đời. Những tấm ảnh và kỷ niệm về người bố luôn được ông Chương cất giữ và kể cho con, cháu nghe.

Phát huy vai trò nòng cốt của Bộ đội Biên phòng trong bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống tại khu vực biên giới trong tình hình hiện nay

 TCCS - Phát huy vai trò là lực lượng chuyên trách, lực lượng chiến đấu đầu tiên, bám trụ đến cùng để bảo vệ và giữ vững biên giới quốc gia, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng luôn khắc phục mọi khó khăn, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ và kịp thời ứng phó có hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống. Qua đó, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới của Tổ quốc trong tình hình mới.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với cán bộ, sĩ quan Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng _Ảnh: TTXVN

Những năm qua, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Khủng bố, xung đột vũ trang, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo xảy ra ở nhiều nơi. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 bùng phát tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu. Tình hình vi phạm chủ quyền, an ninh trên các tuyến biên giới, nhất là trên Biển Đông tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định. Ở trong nước, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội. Bên cạnh đó, những thách thức an ninh phi truyền thống, như thiên tai, dịch bệnh, khủng bố có vũ trang, khủng bố bằng vũ khí sinh học, cùng hoạt động của các loại tội phạm xuyên quốc gia, xuyên biên giới, như mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, mua bán người... diễn ra ngày càng tinh vi, manh động và liều lĩnh, đã tác động trực tiếp đến nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia của lực lượng Bộ đội Biên phòng.

Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 28-9-2018, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” xác định: Quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và cả nước,... lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách, lực lượng chiến đấu đầu tiên, bám trụ đến cùng để bảo vệ và giữ vững biên giới quốc gia. Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ được giao, những năm qua, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng lãnh đạo, chỉ đạo toàn lực lượng thực hiện tốt 3 chức năng về an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Qua đó, khẳng định vai trò nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; chủ trì giữ gìn an ninh, trật tự ở khu vực biên giới, vùng biển; bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu; kiểm tra, kiểm soát hoạt động xuất, nhập cảnh tại các cửa khẩu, cảng biển; là thành phần trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng; phối hợp chặt chẽ với lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới, lãnh thổ; chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức lực lượng, phương tiện thực hiện tốt nhiệm vụ ứng phó với các tình huống, nhất là tình huống an ninh phi truyền thống. Có thể kể đến một số kết quả nổi bật như sau:

Một là, chủ động nắm, nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo chính xác tình hình; phối hợp với các lực lượng tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, “Về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”, Luật Biên phòng Việt Nam; đề xuất với Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ban hành các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện các nội dung của Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia. Đồng thời, tham mưu với Bộ Quốc phòng đề xuất Chính phủ ban hành 2 nghị định, Bộ Quốc phòng ban hành 2 thông tư quy định chi tiết thi hành Luật Biên phòng Việt Nam; tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề xuất Ban Bí thư ban hành Kết luận số 68-KL/TW, ngày 5-2-2020, “Về 2 năm thực hiện chủ trương thí điểm tăng thêm cấp ủy viên là cán bộ đồn biên phòng vào cấp ủy cấp huyện biên giới ở tỉnh Quảng Ninh”; tham mưu, đề xuất xây dựng và quyết tâm, quyết liệt tổ chức thực hiện các đề án “Tổ chức lực lượng Bộ đội Biên phòng giai đoạn 2017 - 2021 và những năm tiếp theo”, “Quy hoạch hệ thống đồn, trạm biên phòng đến năm 2021 và những năm tiếp theo”... Đây là những văn bản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, đầy đủ, là tiền đề để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới, tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế, xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Hai là, tổ chức quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; thực hiện nhiều chủ trương, đối sách xử lý hiệu quả các tình huống trên biên giới, không để bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước. Thường xuyên phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng tuần tra, duy trì các hiệp định về quy chế quản lý biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng; tham mưu và trực tiếp tham gia phân giới, cắm mốc, xây dựng các văn bản pháp lý hóa 84% kết quả phân giới, cắm mốc tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia. Duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu; tích cực, chủ động tham gia khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn ở khu vực biên giới, biển, đảo. Năm 2022, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng điều động, tăng cường lực lượng, phương tiện kiểm soát chặt chẽ các cửa khẩu, đường mòn, lối mở; tổ chức 42.112 tổ tuần tra đơn phương/235.028 lượt cán bộ, chiến sĩ; tuần tra song phương với lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng 122 lần/1.387 lượt cán bộ, chiến sĩ; thường xuyên duy trì 1.000 tổ, chốt, với trên 5.000 cán bộ, chiến sĩ ngày đêm khắc phục khó khăn, gian khổ, bám trụ trên biên giới; điều động 10.169 lượt cán bộ, chiến sĩ/321 lượt phương tiện tổ chức ứng cứu, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai được 405 vụ, cứu vớt 385 người/235 phương tiện, tham gia chữa cháy 47,5ha rừng; cử 9 cán bộ cùng 6 chó nghiệp vụ sang Thổ Nhĩ Kỳ giúp bạn cung cấp hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn sau thảm họa động đất...

Ba là, triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Các đơn vị luôn chủ động xây dựng và thực hiện các phương án, kế hoạch phòng, chống hoạt động thu thập tin tức tình báo, xâm nhập, móc nối, tập hợp lực lượng, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở khu vực biên giới; nắm chắc tình hình hoạt động của các loại đối tượng ở trong và ngoài biên giới, xử lý kịp thời nhiều nguồn thông tin, ngăn chặn, vô hiệu hóa nhiều âm mưu và hoạt động xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia. Xây dựng hàng nghìn kế hoạch nghiệp vụ, xác lập nhiều chuyên án đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy, mua bán người, buôn lậu và gian lận thương mại. Chỉ riêng trong năm 2022, Bộ đội Biên phòng triển khai hàng trăm kế hoạch nghiệp vụ nhằm dự báo tình hình và phòng, chống hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, triển khai thành công 5 chuyên án về tổ chức xuất, nhập cảnh trái phép của người nước ngoài; xác minh, xử lý 2 vụ/4 đối tượng thuộc các tổ chức phản động xâm nhập vào địa bàn biên giới và lôi kéo người dân tham gia các tổ chức này; chủ trì, phối hợp phát hiện, xử lý 7.575 vụ/18.290 đối tượng vi phạm pháp luật, trong đó đấu tranh, bắt giữ 879 vụ/1.242 đối tượng tội phạm về ma túy, thu giữ 1.031kg ma túy các loại, 24 súng, 257 viên đạn, 3 lựu đạn; bắt giữ, xử lý 58 vụ/28 đối tượng mua bán người, giải cứu 88 nạn nhân; phát hiện, xử lý 1.311 vụ/1.128 đối tượng buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tạm giữ để điều tra, xác minh số hàng hóa trị giá khoảng 233,9 tỷ đồng... Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân ở khu vực biên giới với nhiều cách làm hiệu quả, như tổ chức thực hiện phong trào “Toàn dân tham gia phòng, chống xuất, nhập cảnh trái phép qua biên giới” và các mô hình “Tiếng kẻng vùng biên”, “Tiếng loa biên phòng”, “Bản làng không có tệ nạn xã hội”, “Câu lạc bộ tình thương”, “Câu lạc bộ pháp luật”, “Đối thoại cùng ngư dân”... Qua đó, góp phần phát huy vai trò của nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới.

Bộ đội Biên phòng cùng đồng bào tuần tra biên giới _Nguồn: laodong.vn

Bốn là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng điều chỉnh và thực hiện nghiêm quy trình kiểm tra, kiểm soát xuất, nhập cảnh trong điều kiện phải phòng, chống dịch bệnh COVID-19; triển khai có hiệu quả các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện thủ tục biên phòng điện tử cảng biển và cửa khẩu theo cơ chế “một cửa” quốc gia, “một cửa” ASEAN. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính kết hợp với ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý, kiểm soát xuất, nhập cảnh, bảo đảm chặt chẽ, thông thoáng. Năm 2022, Bộ đội Biên phòng thực hiện thủ tục cho 4.785.903 người/998.452 phương tiện xuất, nhập cảnh; phối hợp kiểm tra, giám sát 304.721.685 tấn hàng hóa xuất, nhập khẩu; tổ chức tiếp nhận 16.270 người cư trú, lao động trái phép do các nước trao trả qua cửa khẩu. Tích cực đổi mới các hình thức hợp tác, giao lưu hữu nghị biên giới, kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại biên phòng với đối ngoại nhân dân, như giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới; giao lưu “Biên cương thắm tình hữu nghị”. Để phù hợp với điều kiện phòng, chống dịch bệnh COVID-19, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng báo cáo Bộ Quốc phòng phê duyệt kế hoạch và tổ chức hội đàm trên biên giới với lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới của Lào và Cam-pu-chia bảo đảm gọn về số lượng và thành phần đại biểu. Đến nay, đã tổ chức kết nghĩa được 180 cặp đồn, trạm biên phòng và tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức kết nghĩa được 207 cặp cụm dân cư hai bên biên giới,... Qua đó, góp phần củng cố lòng tin, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững.

Năm là, tập trung xây dựng, củng cố lực lượng bảo vệ biên giới rộng khắp theo phương châm “Nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt và Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia”. Theo đó, các đơn vị đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về tư tưởng, hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ tính uy nghiêm, biểu tượng quốc gia ở biên giới, cửa khẩu, bảo vệ nhân dân và các mục tiêu chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới. Đồng thời, giúp cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, quân sự, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị; có khả năng nghiên cứu, nắm và dự báo sớm, sát, đúng, đầy đủ tình hình, xử lý tốt các tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ và chủ động, tích cực tham gia xây dựng, củng cố nền biên phòng toàn dân vững mạnh, thế trận biên phòng toàn dân vững chắc, thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 01/2015/CT-TTg, ngày 9-1-2015, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới”. Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương phát huy tốt phong trào “Tổ tự quản đường biên, mốc giới”, vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong vận động nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Đến nay, các đơn vị Bộ đội Biên phòng đã phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng, củng cố 1.546 tổ tự quản, với 45.354 hộ gia đình và 93.722 cá nhân đăng ký tự quản 4.201km đường biên, 3.285 mốc quốc giới, 111 công trình biên giới; xây dựng, củng cố 3.388 tổ tàu, thuyền, với hơn 25.200 tàu, thuyền và hơn 78.500 thành viên đăng ký tự quản hàng nghìn bến bãi ven biển; duy trì hơn 16.200 tổ an ninh, trật tự, với 320.903 thành viên...

Sáu là, tích cực tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, xây dựng “thế trận lòng dân” ở khu vực biên giới; thực hiện nhiều chương trình, phong trào, mô hình, cuộc vận động để giúp đỡ, hỗ trợ nhân dân, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Bộ đội Biên phòng các cấp tăng cường tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo bền vững, xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở khu vực biên giới; tham gia xây dựng hệ thống chính trị các cấp ở khu vực biên giới vững mạnh về mọi mặt. Đến nay, Bộ đội Biên phòng có 165 đảng viên tham gia cấp ủy cấp huyện; 517 đảng viên tham gia cấp ủy cấp xã; 2.388 đảng viên tham gia sinh hoạt tại chi bộ thôn, bản biên giới; 9.402 đảng viên phụ trách 40.893 hộ gia đình ở khu vực biên giới. Các đơn vị thực hiện có hiệu quả nhiều chương trình, mô hình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới, như: Ngày hội Biên phòng toàn dân; Chương trình “Xuân Biên phòng ấm lòng dân bản”, “Nâng bước em tới trường - Con nuôi đồn biên phòng”, Dự án “Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nâng bước em tới trường”, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030...

Thời gian tới, tình hình an ninh, chính trị thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Tình hình vi phạm chủ quyền quốc gia, nhất là trên Biển Đông, vùng biển Tây Nam và một số địa bàn chiến lược tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Các loại tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, xuyên biên giới có chiều hướng gia tăng với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó nhận diện, cùng với đó là những thách thức an ninh phi truyền thống, như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,... Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ công tác biên phòng ngày càng toàn diện, nặng nề, đòi hỏi Bộ đội Biên phòng phải tiếp tục phát huy vai trò chuyên trách, nòng cốt với nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả. Trong đó, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, biên phòng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; Nghị quyết Đại hội đại biểu Bộ đội Biên phòng lần thứ XV. Các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ cùng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành và toàn dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các điều ước quốc tế có liên quan đến biên giới quốc gia; nhận thức rõ những âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc ở khu vực biên giới. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền cho lực lượng liên quan đến quản lý, bảo vệ biên giới hoạt động tại địa bàn biên giới, cửa khẩu kiến thức về quốc phòng, an ninh, pháp luật về biên giới quốc gia.

Bộ đội Biên phòng vui ngày hội té nước với đồng bào Khmer Nam Bộ _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ hai, chủ động nghiên cứu, phối hợp với các lực lượng nắm tình hình, đánh giá, dự báo chính xác tình hình nội địa, ngoại biên; những động thái, xu thế của các nước trong giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ cũng như hoạt động của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, chủ động, kịp thời báo cáo, tham mưu với Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; chủ trương, đối sách xử lý các tình huống, không để bị động, bất ngờ, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng phá hoại, gây ra vấn đề phức tạp trên các tuyến biên giới, nhất là tại các khu vực còn tồn đọng trong công tác phân giới cắm mốc trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia và các địa bàn chiến lược, trọng điểm. Đồng thời, làm tốt công tác phòng ngừa, chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật trên các tuyến biên giới, vùng biển, nhất là tội phạm về ma túy, mua bán người, buôn lậu và gian lận thương mại, bảo đảm tuyệt đối an toàn về người, vũ khí, trang bị. Tham mưu, đề xuất với Chính phủ sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực xuất, nhập cảnh, xuất, nhập khẩu; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý cửa khẩu, kiểm soát xuất, nhập cảnh theo hướng hiện đại, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, trong đó chú trọng thế trận biên phòng toàn dân ở khu vực biên giới; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh. Tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận số 68-KL/TW, ngày 5-2-2020, của Ban Bí thư nhằm tăng thêm cấp ủy viên cấp huyện là cán bộ đồn biên phòng tại các huyện biên giới, hải đảo trên cả nước; phát huy tốt vai trò của cán bộ biên phòng tăng cường cho các xã khó khăn, đảng viên đồn biên phòng sinh hoạt tại chi bộ thôn, bản và phụ trách hộ gia đình ở khu vực biên giới, không để thôn, bản “trắng” tổ chức đảng và đảng viên. Tiếp tục tham mưu xây dựng các đề án, phương án, cơ chế thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 10-10-2017, của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 23/NQ-CP, ngày 2-3-2022, của Chính phủ, “Về phát triển kinh tế khu vực biên giới đất liền”, gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Phối hợp với các cấp, các ngành triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, phong trào, mô hình giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo ở khu vực biên giới.

Thứ tư, tiếp tục xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều chỉnh tổ chức, biên chế, xây dựng lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch và cán bộ đồn biên phòng. Đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục và đào tạo. Duy trì, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 103/CT-BQP, ngày 28-11-2019, của Bộ Quốc phòng, về “Tiếp tục tăng cường quản lý, giáo dục chấp hành kỷ luật và bảo đảm an toàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam”; chú trọng xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội; xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh. Tiếp tục cải cách hành chính quân sự, triển khai thực hiện ứng dụng chính phủ điện tử trong các cơ quan, đơn vị. Đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống đồn, trạm biên phòng, cửa khẩu, công trình bảo vệ biên giới, công trình chiến đấu liên hoàn, khép kín, kiên cố, vững chắc, bảo đảm đủ khả năng quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia và phòng thủ trong mọi tình huống. Chủ động nghiên cứu, đề xuất đầu tư vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện hiện đại bảo đảm cho hoạt động của Bộ đội Biên phòng, nhất là các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công tác chỉ huy, quản lý, kiểm soát cửa khẩu, trinh sát kỹ thuật, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm...

Thứ năm, đổi mới nội dung, hình thức hợp tác và các hoạt động giao lưu hữu nghị giữa lực lượng chức năng và nhân dân hai bên biên giới; xây dựng lòng tin chiến lược, hướng tới hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân trong đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng; thực hiện “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” để bảo vệ biên giới quốc gia là kim chỉ nam cho hoạt động bảo vệ biên giới của lực lượng Bộ đội Biên phòng. Triển khai các mô hình hợp tác bảo vệ biên giới giữa Bộ đội Biên phòng Việt Nam với các nước tiếp giáp và các nước có liên quan, nhất là một số mô hình, như giao lưu hữu nghị quốc phòng, biên giới; giao lưu “Biên cương thắm tình hữu nghị”; kết nghĩa đồn, trạm biên phòng; kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới; duy trì “đường dây nóng”, tuần tra chung, luân phiên gặp gỡ, trao đổi thông tin; phối hợp phòng, chống tội phạm xuyên biên giới, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa ở khu vực biên giới,... Đẩy mạnh thực hiện hợp tác quốc tế với các nước, các tổ chức quốc tế trong đào tạo, tập huấn, đầu tư trang bị, phương tiện kỹ thuật cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới, kiểm soát cửa khẩu và phòng, chống tội phạm./.

BÁC HỒ CHỨ CÒN AI!

 Trong Chiến dịch Biên giới, một lần đi gần tới Đông Khê (Cao Bằng), Bác rẽ vào nhà một đồng bào nghỉ ngơi. Một em bé Nùng gánh đôi bảng nước từ dưới suối đi lên trông thấy cụ già quen quá mà không rõ gặp ở đâu rồi.

Em nghĩ chưa ra thì cụ đã tới gần. Giọng cụ ấm áp:
- Cháu gánh có nặng không?
- Ồ! Không nặng đâu!
Em bé vội đáp, ngạc nhiên trước cử chỉ của cụ. Em xốc lại đòn gánh thong thả bước. Cụ già bước theo lên cầu thang. Vào nhà, cụ hỏi em bé:
- Cháu tên là gì?
- Là Phấn.
Cụ già xoa đầu Phấn.
- Pá (bố) đi dân công phải không? Cháu làm việc nhiều quá.
- Pá đi dân công phục vụ chiến dịch. Cháu ở nhà giúp mế (mẹ) gánh nước. Không mệt đâu.
Cụ già lại hỏi:
- Cháu có biết đi dân công để làm gì không?
- Đi dân công để giết Tây.
Phấn trả lời cụ già, rồi kể:
Thằng Tây nó ác hơn ông cọp ông à! Tàu bay nó bắn cháy trường cháu ba lần. Bây giờ trường phải dời vào lũng xa lắm. Nó bắn chết cả Pu, con trưởng thôn.
Cụ già đặt tay lên vai Phấn, đôi mắt hiền từ nhìn Phấn, khẽ nói:
- Bao giờ hết giặc, cháu sẽ không phải vất vả như thế này nữa.
Hai Bác cháu nói chuyện thêm một lát nữa. Rồi Bác nhắc Phấn đi ngủ.
Đêm gần về sáng. Phấn còn đang yên giấc ngủ thì cụ già đã cùng mấy người khác đi. Lúc tỉnh dậy, thấy nhà trống trải, vắng vẻ quá, Phấn bật lên khóc. Nhìn lọ thuốc ho, chiếc khăn quàng cổ cụ già cho, lòng Phấn càng nhớ cụ khôn xiết.
Cho đến lúc ấy, Phấn chưa nhận ra cụ già trọ ở nhà mình là ai? Mãi đến khi Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, bố Phấn đi dân công về nghe chuyện mới quả quyết với con rằng:
- A lúi! Bác Hồ chứ còn ai!
Và hai bố con rất tiếc, nhưng rất sung sướng là Cụ Hồ đã đến ở nhà mình.