Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

Để phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” mãi mãi là biểu tượng sáng ngời với bạn bè quốc tế

Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” không phải là sản phẩm tự phát, bất biến, mà là kết quả tất yếu của quá trình lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện không ngừng và luôn vận động, phát triển phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và yêu cầu xây dựng Quân đội qua từng giai đoạn cách mạng. Trong tình hình hiện nay, ngoài nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, Quân đội ta còn nhiệm vụ hết sức vẻ vang đó là tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đây là nhiệm vụ mới, mang ý nghĩa đặc biệt, nhưng đầy khó khăn, với nhiều khâu, nhiều bước quan trọng liên quan đến vị thế quốc gia nên Quân đội nhân dân được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao cho đảm nhận.



Đặc phái viên của Liên hợp quốc tặng huy chương "Vì sự nghiệp gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc" cho sĩ quan QĐND Việt Nam làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi. Ảnh: baoquocte.vn

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chúng ta phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, như: các lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc hoạt động trong môi trường đa quốc gia; địa bàn hoạt động xa đất nước, điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội, tình hình an ninh phức tạp, tiềm ẩn rủi ro, thậm chí có thể bị thương vong; lực lượng của Quân đội được cử đi làm nhiệm vụ phải đặt dưới sự chỉ huy của Phái bộ nước sở tại, v.v. Đặc biệt, các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hoá” Quân đội, hòng làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, niềm tin vào Đảng, chế độ trong mỗi cán bộ, chiến sĩ. Tất cả điều đó, chi phối không nhỏ đến việc rèn luyện, giữ vững phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của Quân đội ta nói chung và lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc nói riêng. Bởi vậy, tiếp tục phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” với lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là hết sức cần thiết, góp phần làm cho phẩm chất tốt đẹp này luôn tỏa sáng, mãi mãi là biểu tượng sáng ngời với bạn bè quốc tế.

Trước hết, làm tốt công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân viên về đường lối đối ngoại của Đảng, nhiệm vụ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và sự cần thiết phải giữ vững, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc nhận thức sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại của Đảng. Đồng thời, quán triệt, nắm vững “Đề án tổng thể về việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc” và “Đề án Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc năm 2014 - 2020 và những năm tiếp theo”. Từ đó, làm cho họ nhận thức rõ nhiệm vụ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là nhằm thiết thực góp phần vào duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực cũng như trên thế giới. Đây là sứ mệnh của Liên hợp quốc và là vấn đề được nhiều nước quan tâm cử đoàn tham gia nhằm khẳng định vị thế, vai trò đối với quốc tế. Trên cơ sở nhận thức đúng, đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, với tinh thần, ý chí Việt Nam và vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, nâng tầm vị thế, uy tín Việt Nam, vấn đề đặt ra là phải làm cho cán bộ, nhân viên tham gia Phái bộ nhận thức được sự cần thiết phải giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong quá trình tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Công tác tuyên truyền, giáo dục tập trung làm rõ tiêu chí về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới; đi sâu phân tích yếu tố tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, nhân viên tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc để có biện pháp ngăn ngừa biểu hiện không tốt làm ảnh hưởng đến uy tín Quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. “Xây” đi liền với “chống”, đảm bảo cho cán bộ, nhân viên tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, phẩm chất đạo đức tốt, hòa đồng, thân thiện với nhân dân nước sở tại; không dao động trước khó khăn và tác động, lôi kéo của các thế lực thù địch; có thái độ không thiên vị, trung lập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các đơn vị tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta, bảo đảm giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong xây dựng, phát triển của Quân đội. Bởi vậy, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đối ngoại, hội nhập quốc tế; xác định đây là một nhiệm vụ chính trị của Quân đội trong thời kỳ mới. Cấp ủy, chỉ huy các cấp đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo sát đúng, phù hợp, hiệu quả; công tác đảng, công tác chính trị đối với nhiệm vụ này luôn được chú trọng; công tác kiểm tra, giám sát, rút kinh nghiệm, nhân lên những mặt làm được, khắc phục những mặt chưa làm được cần được tăng cường. Cùng với đó, làm tốt việc lựa chọn hình thức, quy mô, phái bộ, địa bàn,... tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng, lợi ích quốc gia - dân tộc, Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Trong tình hình hiện nay, việc chọn Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi - những quốc gia châu Phi đang phải đối mặt với đói nghèo, sự mất kiểm soát của chính quyền và xung đột giữa các bộ tộc, phe phái trong nội bộ là phù hợp. Tăng cường công tác quán triệt, giáo dục, lựa chọn nhân sự tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đảm bảo chất lượng về chính trị, đạo đức, lối sống và chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, v.v. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, luôn thể hiện tính tích cực, chủ động, nhưng thận trọng, chắc chắn; tham gia vào các lĩnh vực ta có kinh nghiệm, thế mạnh, tại các quốc gia, khu vực đã có thỏa thuận hòa bình, có quyết định của Liên hợp quốc, được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.



Bạn bè quốc tế tham quan và học hỏi kinh nghiệm trồng và chăm bón rau ở Trung Phi của sĩ quan Việt Nam. Ảnh: qdnd

Ba là, thông qua hoạt động thực tiễn để rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” cho lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Phẩm chất, nhân cách, bản lĩnh “Bộ đội Cụ Hồ” được hình thành và hoàn thiện thông qua hoạt động thực tiễn của bộ đội trong môi trường quân sự. Thực tiễn càng phong phú, sinh động, sát chức năng, nhiệm vụ của Quân đội thì phẩm chất, bản lĩnh của người quân nhân cách mạng - “Bộ đội Cụ Hồ” càng tỏa sáng. Bởi vậy, cần tổ chức cho bộ đội tích cực tham gia các nhiệm vụ: Huấn luyện, tuần tra, trao đổi chuyên môn, diễn tập, tiến hành công tác dân vận, đảm bảo phù hợp với quy định của Liên hợp quốc và thực tế nước sở tại; đồng thời, phối hợp tổ chức các hoạt động: văn hóa văn nghệ, tăng gia, cải thiện đời sống, giúp dân bản địa phòng, chống dịch bệnh, thiên tai,… để bộ đội rèn luyện, phấn đấu và phát huy thế mạnh, sở trường trong công tác. Tích cực tham gia các hoạt động hỗ trợ, khắc phục hậu quả chiến tranh, kiến tạo hòa bình, vì mục đích nhân đạo; không tham gia nhiệm vụ cưỡng chế và các hoạt động tác chiến; bảo đảm quyền độc lập chỉ huy lực lượng của Quân đội ta khi tham gia các phái bộ theo Bản ghi nhớ (MOU) với Cơ quan gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đặc biệt, trong tình hình đại dịch Covid-19 diễn ra hết sức phức tạp trên toàn cầu hiện nay, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam ngoài thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch đã xác định, cần tích cực tham gia phòng chống đại dịch này với tinh thần, trách nhiệm cao nhất, góp phần dập tắt nạn dịch, hạn chế tối đa sự tử vong, mang lại cuộc sống bình yên cho người dân bản địa. Qua đó, kịp thời phát hiện, động viên, khen thưởng tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”; khắc phục nhận thức, hành vi không đúng làm ảnh hưởng đến phẩm chất, nhân cách người quân nhân cách mạng - “Bộ đội Cụ Hồ”.

Bốn là, đề cao vai trò cán bộ, sĩ quan, nhân viên trong giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” khi tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Việc giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” được thể hiện trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, cũng như trong cuộc sống sinh hoạt, giao tiếp hằng ngày. Quá trình đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, sĩ quan, nhân viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực, chủ động, sáng tạo trong huấn luyện, học tập nâng cao trình độ ngoại ngữ, pháp luật, chuyên môn, các quy định, kỹ năng ứng xử quốc tế, bổ sung những nội dung còn hạn chế, còn thiếu được rút ra từ thực tiễn. Đồng thời, nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện theo các tiêu chí thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/TVQU của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong môi trường mới. Cấp trên làm gương cho cấp dưới, cán bộ, đảng viên làm gương cho nhân viên; chấp hành nghiêm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, các quy định của quốc tế và luật pháp nước sở tại; xây dựng mối đoàn kết nội bộ, giúp đỡ nhau trong công tác, thể hiện rõ bản lĩnh, vị thế, phong cách người quân nhân cách mạng.

Năm là, phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành, cơ quan Liên hợp quốc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Để đạt hiệu quả cao cả trong giai đoạn chuẩn bị (ở trong nước), giai đoạn thực hiện nhiệm vụ (tại Phái bộ) và sau khi hoàn thành nhiệm vụ, việc phối hợp giữa Cục Gìn giữ hòa bình và đơn vị tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc cần được tiến hành chủ động, chặt chẽ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Các cơ quan chức năng: Cục Tác chiến, Cục Quân huấn, Cục Tuyên huấn,… phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện, trang bị kiến thức cần thiết về công tác tham mưu tác chiến, kinh nghiệm tham gia hoạt động trong Phái bộ, xây dựng kế hoạch tác chiến theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc cho các đối tượng. Đồng thời, làm cho họ phân biệt rõ sự khác nhau về bản chất giữa lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc với các lực lượng liên quân đa quốc gia; mục đích hoạt động của lực lượng gìn giữ hòa bình là phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cùng với đó, cần phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm với các cơ quan có liên quan của Liên hợp quốc nhằm giúp đỡ trang bị, phương tiện, đào tạo tiếng Anh, tài trợ kinh phí,… tạo điều kiện cho ta hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các cơ quan báo chí Quân đội bám sát thực tiễn, tích cực, chủ động triển khai bài viết nêu gương điển hình tiên tiến trong rèn luyện phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; tuyên truyền sâu rộng việc Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, bằng biện pháp hòa bình. 

“Bộ đội Cụ Hồ” là danh hiệu, phẩm chất cao đẹp của Quân đội ta, được xây đắp nên từ tinh thần chiến đấu dũng cảm, không quản hy sinh, gian khổ của nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ, cùng sự giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự thương yêu, đùm bọc của nhân dân. Kế thừa, phát huy phẩm chất cao đẹp đó, cán bộ, sĩ quan Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc nêu cao tinh thần trách nhiệm trong tu dưỡng, rèn luyện, làm cho phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục tỏa sáng trên lĩnh vực, nhiệm vụ mới, mãi mãi là biểu tượng sáng ngời đối với bạn bè quốc tế./.

ST.

Tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” ở Cộng hòa Trung Phi và Nam Xu-đăng

Hình ảnh những “sứ giả hòa bình” của Việt Nam đang hoạt động trong Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi, Nam Xu-đăng và cán bộ, nhân viên Bệnh viện dã chiến cấp 2 (số 1, số 2), đội công binh,… đã làm cho phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” với những giá trị vốn có được phát triển, nâng lên tầm quốc tế, phản ánh tinh hoa văn hóa, truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Họ thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức trách nhiệm cao, năng lực chuyên môn tốt, tác phong chuyên nghiệp; luôn nhiệt tình, năng động, sáng tạo, độc lập trong xử lý công việc và làm chủ các trang thiết bị được giao; vượt khó vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ. Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy cán bộ, nhân viên của Việt Nam trong Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc hoàn thành tốt nhiệm vụ, tạo thiện cảm với các lực lượng trong Phái bộ và nhân dân nước sở tại, góp phần làm lan tỏa hình ảnh về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đến với bạn bè quốc tế.



Các cá nhân xuất sắc của Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 nhận Bằng khen của Tư lệnh các lực lượng quân sự Phái bộ. 

Để làm được điều đó, ngay sau khi Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 được thành lập (ngày 25/11/2014), được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, các cơ quan, đơn vị có liên quan đã tích cực phối hợp triển khai làm công tác chuẩn bị. Về con người, theo yêu cầu của Liên hợp quốc, các thành viên của Bệnh viện dã chiến cấp 2 đều được tuyển chọn kỹ từ các cơ quan, đơn vị thuộc các bệnh viện Quân y lớn của Quân đội, đảm bảo đủ sức khỏe, trình độ, năng lực chuyên môn theo yêu cầu của Liên hợp quốc. Về huấn luyện - đào tạo, mặc dù nhân sự đầu vào của Bệnh viện dã chiến rất cao, nhưng vẫn phải trải qua các khóa huấn luyện - đào tạo theo quy chuẩn hết sức khắt khe của Liên hợp quốc. Theo đó, cùng với tăng cường huấn luyện chuyên môn, Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam, Bệnh viện Quân y 175 đã chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan và thông qua kênh hợp tác quốc tế về quốc phòng để hợp tác với các đối tác, như: Anh, Ốt-xtrây-li-a, Niu Di-lân trong đào tạo ngoại ngữ, tổ chức các đợt huấn luyện chuyên sâu, huấn luyện bổ sung theo yêu cầu của Liên hợp quốc. Điển hình là các khóa huấn luyện kỹ năng về cấp cứu đường không, chăm sóc thương vong quốc tế (ITLS), hỗ trợ chăm sóc thương vong cao cấp (ATLS), xử lý tình huống khẩn cấp khi tiếp nhận, xử lý số lượng thương vong lớn, kỹ năng phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các loại bệnh truyền nhiễm thường gặp ở Phái bộ, v.v. Cùng với các nội dung huấn luyện về chuyên môn, ngoại ngữ, Bệnh viện dã chiến còn được huấn luyện thuần thục các hoạt động tiền triển khai, đảm bảo hoạt động hiệu quả ngay khi có lệnh triển khai tại Phái bộ. Điều đáng nói là, tất cả các nội dung trên đều do các chuyên gia quốc tế trực tiếp huấn luyện và sát hạch; qua kiểm tra các nội dung, đoàn kiểm tra của Liên hợp quốc đánh giá: 100% cán bộ, chiến sĩ, nhân viên Bệnh viện dã chiến cấp 2 có đủ tiêu chí và năng lực để triển khai thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình tại Nam Xu-đăng.

Cùng với đó, việc chuẩn bị sẵn sàng về trang bị và các bước triển khai cho Bệnh viện dã chiến cũng được Bộ Quốc phòng cùng các cơ quan, đơn vị liên quan hết sức chú trọng. Theo quy định của Liên hợp quốc, bộ trang bị cho Bệnh viện dã chiến cấp 2 phải đảm bảo theo tiêu chuẩn chung, được trang bị trước thời điểm triển khai quân tới Phái bộ ít nhất 4 tháng, nhằm phục vụ Phái đoàn kiểm tra trang bị tiền triển khai của Liên hợp quốc và phục vụ thao diễn thực địa. Ngoài ra, việc triển khai Bệnh viện này phải theo hai đợt chính: đợt 1 được triển khai tới Phái bộ gần 50% quân số và khoảng 30 tấn hàng hóa bằng đường hàng không; đợt 2 được triển khai với toàn bộ lực lượng, vật chất, trang bị còn lại bằng phương tiện vận tải quân sự là chủ yếu.

Như vậy, có thể nói, với khối lượng công việc đồ sộ, trong thời gian rất ngắn, chúng ta đã nỗ lực hết mình để chuẩn bị thật kỹ, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của Liên hợp quốc. Nhờ đó, việc triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 của Việt Nam tại Phái bộ Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng đã thành công rực rỡ, được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Những kết quả sau gần 5 năm cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc nói chung, triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 tại Nam Xu-đăng nói riêng tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm không chỉ xây dựng lòng tin, sự hiểu biết và thúc đẩy các kênh hợp tác với các nước, mà còn mang thông điệp hòa bình đến bạn bè quốc tế; đồng thời, thực hiện đúng cam kết với Liên hợp quốc nói riêng, quốc tế nói chung về một Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là cơ hội để chúng ta khẳng định, Việt Nam có đủ khả năng, năng lực tổ chức, thực hiện các nhiệm vụ mang tầm quốc tế; Quân đội ta không chỉ anh hùng trong chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, mà còn rất giỏi trong hoạt động ở lĩnh vực mới và rất nhân văn trong bảo vệ hòa bình.

Trong lần đầu Việt Nam cử Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, mặc dù chưa có kinh nghiệm, nhất là làm các thủ tục, chuẩn bị cơ sở vật chất bảo đảm, trong khi Nam Xu-đăng thời tiết, khí hậu khắc nghiệt (ban ngày nắng nóng hơn 50 độ C, ban đêm nhiệt độ giảm xuống còn 11 đến 12 độ C); đường giao thông đi lại khó khăn; công tác ở xa nhà,… nhưng với ý chí quyết tâm, bản lĩnh “Bộ đội Cụ Hồ”, các chiến sĩ “mũ nồi xanh” Việt Nam đã khắc phục khó khăn, triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 tại tỉnh Bentiu (Nam Xu-đăng) kịp thời, đảm bảo từ lúc triển khai đến khi đi vào hoạt động chỉ trong vòng 24 ngày. Trong khi nhiều quốc gia khác từ lúc triển khai đội hình đơn vị tới phái bộ hoạt động được thường phải mất từ hai đến ba, thậm chí là sáu tháng. Đặc biệt, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng, Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 còn mang thêm một số máy móc, trang, thiết bị khám, chữa bệnh hiện đại không thuộc diện bồi hoàn của Liên hợp quốc và đưa sang một bác sĩ chuyên khoa giỏi, các trang thiết bị hiện đại về khoa sản. Đây là lần đầu tại Phái bộ Nam Xu-đăng có bác sĩ khoa sản và máy móc đi cùng để khám, chữa bệnh cho nữ nhân viên Liên hợp quốc và nhân dân bản địa. Vì vậy, lượng bệnh nhân đến khám, chữa bệnh tại Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 của Việt Nam rất đông, nhiều gấp bốn lần Bệnh viện dã chiến cấp 2 của nước bạn trước đây. Tháng đầu đi vào hoạt động, ta đã khám, chữa bệnh cho 120 lượt bệnh nhân là cán bộ, nhân viên của Liên hợp quốc và người dân; trong đó, thực hiện thành công ba ca mổ và cứu chữa nhiều ca sốt rét. Từ khi đi vào hoạt động đến khi kết thúc nhiệm kỳ, Bệnh viện dã chiến cấp cấp 2 số 1 đã tiếp nhận, điều trị gần 800 bệnh nhân; trong đó, có hơn 30 ca phẫu thuật, 22 ca trung đến đại phẫu, chuyển thương đường không lên tuyến trên 3 ca, v.v.

Hiện nay, Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 2 sau khi tiếp nhận nhiệm vụ gìn giữ hòa bình tại Phái bộ Nam Xu-đăng đã và đang thực hiện tốt yêu cầu đề ra. Chỉ trong 3 tháng thực hiện nhiệm vụ tại Bentiu, Nam Xu-đăng, Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 2 đã tiếp nhận 527 lượt bệnh nhân khám và điều trị; thực hiện thành công 4 ca tiểu phẫu, 1 ca trung phẫu và 1 ca đại phẫu; vận chuyển đường không thành công 3 bệnh nhân nặng lên Bệnh viện dã chiến cấp 3 tuyến trên, v.v.

Thực tế trên, không những gây ấn tượng tốt đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên các cơ quan Phái bộ của Liên hợp quốc làm việc tại Phân khu Bắc tiền phương (Bentiu), mà còn được Phòng y tế toàn Phái bộ Nam Xu-đăng đánh giá cao tinh thần tích cực, chủ động của Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 của Việt Nam trước đây và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 2 hiện nay. Do đó, nhiều đại diện của các Bệnh viện dã chiến cấp 1 của một số nước trên địa bàn, các đoàn công tác của tổ chức phi chính phủ đã đến thăm Bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm. Với những kết quả đạt được, Bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam đã được lãnh đạo Liên hợp quốc đánh giá cao, 2 lần gửi thư tới Chính phủ Việt Nam để cảm ơn và khen ngợi. Cảm phục trước trình độ chuyên môn, khả năng tổ chức làm việc hiệu quả, ý thức kỷ luật cao,… của các sĩ quan Việt Nam ở từng Phái bộ, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon (lúc đó) đã dùng từ “tuyệt vời” để ngợi ca lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam khi ông đến thăm Hà Nội vào tháng 5/2015.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trong Phái bộ, dù ở bất kỳ cương vị, hoàn cảnh, lĩnh vực công tác nào, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm, năng lực chuyên môn, không dao động trước những khó khăn, thách thức; tạo được niềm tin, sự đồng tình, ủng hộ của Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế. Ngoài thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, trong điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng kéo dài, rau xanh khan hiếm, để bảo đảm nguồn thực phẩm cho bữa ăn hằng ngày, các chiến sĩ “mũ nồi xanh” của Việt Nam đã mang theo hạt giống, trồng nhiều loại rau; đồng thời, hướng dẫn người dân bản địa tự trồng rau xanh, cải thiện đời sống. Cùng với đó, các chiến sĩ “mũ nồi xanh” Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ Cộng hòa Trung Phi còn tổ chức dạy học cho trẻ em. Đây là hoạt động chưa từng có tại Phái bộ nước này, nên đã trở thành điểm sáng, được Phái bộ đánh giá cao và nhiều lần nêu gương trong các hội nghị, cuộc họp. Việc dạy học của sĩ quan Việt Nam còn lan tỏa, nhận được sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, như: Quỹ hỗ trợ trẻ em Liên hợp quốc (UNICEF), tổ chức phi chính phủ (NGO) và các cơ quan của Cộng hòa Trung Phi, như: Viện nghiên cứu Pasteur, Đại học Bangui, Phòng hải quan sân bay quốc tế (MPOKO) và nhiều cộng đồng người dân Trung Phi.

Vượt qua trở ngại về ngoại ngữ, phong tục, tập quán địa phương, đoàn cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc tích cực tham gia các hoạt động với nhân dân nước sở tại và bạn bè quốc tế bằng nhiều hình thức thiết thực, như: tổ chức dạy học cho các cháu; gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm với sinh viên trường Đại học Bangui về thành lập câu lạc bộ sinh viên tình nguyện; phối hợp tổ chức các hoạt động thiện nguyện, văn hóa, văn nghệ; hướng dẫn người dân bản địa nấu các món ăn Việt Nam, v.v. Qua đó, tuyên truyền, giới thiệu với bạn bè quốc tế và chính quyền, nhân dân nơi đây về đất nước, con người Việt Nam; lịch sử truyền thống hào hùng của dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Thực tiễn cho thấy, càng trong những hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” càng tỏa sáng, có sức thuyết phục đối với nhân dân và bạn bè quốc tế về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng./.

ST.

Sứ giả hòa bình” của Việt Nam ở phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc

Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là một quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đồng thời, khẳng định Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, nỗ lực thực hiện nghĩa vụ của một quốc gia thành viên Liên hợp quốc ở lĩnh vực hoạt động quan trọng, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc Việt Nam cử lực lượng Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu hết sức thận trọng và chắc chắn để bảo đảm việc triển khai thực hiện nhiệm vụ đúng với đường lối đối ngoại quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam và chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở “Đề án Tổng thể về việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc” và “Đề án Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc giai đoạn 2014 - 2020 và những năm tiếp theo”, ngày 27-5-2014, Bộ Quốc phòng thành lập Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam (nay là Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam) và cử 02 sĩ quan Quân đội đi làm nhiệm vụ sĩ quan liên lạc tại Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Xu-đăng. Đến nay, chúng ta đã cử hơn 30 lượt cán bộ, sĩ quan thực hiện các nhiệm vụ: sĩ quan liên lạc, tham mưu trang bị, phân tích thông tin, quan sát viên quân sự,… tại 02 phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng và Cộng hòa Trung Phi. Đặc biệt, Quân đội ta đã triển khai thành công Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 01, gồm 63 cán bộ, nhân viên tới Ben-tiu, Nam Xu-đăng, với tinh thần, trách nhiệm cao, bảo đảm an toàn tuyệt đối, hoạt động hiệu quả, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và nhân dân nước sở tại đánh giá cao. Ngay sau đó, chúng ta tiếp tục triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 02, với 84 cán bộ, chiến sĩ lên đường làm nhiệm vụ ở Nam Xu-đăng, bảo đảm chu đáo, đủ các điều kiện theo yêu cầu của Liên hợp quốc đối với lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình. Việc cử lực lượng Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 02 triển khai thay thế Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 01 là bước tiến quan trọng của Việt Nam khi tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần thể hiện vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế của Việt Nam; đồng thời cho thấy, nước ta hoàn toàn có đủ khả năng tham gia nhiệm vụ quan trọng này.



 Các sĩ quan Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 chụp hình lưu niệm trước giờ xuất quân thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc
tại Nam Xu-đăng. (Ảnh: qdnd)

Với chủ trương: Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc để góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới, trong quá trình hoạt động, chúng ta luôn thực hiện nghiêm tôn chỉ, mục đích của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Theo đó, ta chỉ tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình khi có Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tại các khu vực đã có thỏa thuận hòa bình giữa các bên liên quan, các hoạt động vì mục đích hòa bình, nhân đạo, tái thiết; không tham gia các nhiệm vụ cưỡng chế và hoạt động tác chiến. Chỉ sử dụng vũ lực vì mục đích tự vệ chính đáng, trong trường hợp không còn biện pháp nào khác; mọi quyết định khi tham gia phải đảm bảo nguyên tắc độc lập, tự chủ, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc, điều kiện và khả năng của Việt Nam, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp công việc nội bộ của các quốc gia khác. Trong quá trình tham gia, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam, ở bất kỳ cương vị, hoàn cảnh, lĩnh vực công tác nào đều có trách nhiệm, sáng tạo, chủ động khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhờ thực hiện nghiêm nguyên tắc và sự nỗ lực, cố gắng toàn diện, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định được bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm, năng lực chuyên môn; tạo được lòng tin, sự đồng tình, ủng hộ của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

Thông qua môi trường hoạt động thực tiễn, trình độ ngoại ngữ, kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn về lĩnh vực gìn giữ hòa bình của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ Quân đội ta đã có bước tiến bộ vượt bậc. Hiện nay, chúng ta không chỉ tự huấn luyện cho cá nhân và đơn vị của mình tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, mà còn có đủ uy tín, năng lực để tổ chức các khóa huấn luyện theo tiêu chuẩn quốc tế1. Trong quá trình làm nhiệm vụ, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn phát huy phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, làm cho các đồng nghiệp quốc tế, nhân dân bản địa, nhất là lực lượng quân đội các quốc gia hiểu thêm về đất nước, quân đội, truyền thống, văn hóa, quan điểm, phương châm hoạt động, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam; từ đó, họ thực sự yêu quý, tôn trọng và ủng hộ chúng ta.

Là dân tộc, quốc gia từng chịu nhiều hy sinh, gian khổ trong các cuộc chiến tranh, Việt Nam thấu hiểu và quý trọng giá trị cao cả của hòa bình. Trong điều kiện quốc tế hiện nay, muốn bảo vệ được nền hòa bình, xây dựng, phát triển đất nước, phải tạo được môi trường hòa bình chung quanh ta và đóng góp cho hòa bình thế giới. Tuy nhiên, khi bước vào làm công tác chuẩn bị cử lực lượng tham gia hoạt động giữ gìn hòa bình, Việt Nam gặp không ít khó khăn, bởi nhận thức của toàn quân và xã hội về vấn đề này còn chưa đồng thuận; điều kiện thời tiết, khí hậu, môi trường sống nơi đoàn đến làm việc khắc nghiệt. Khu vực ta tham gia thực hiện nhiệm vụ diễn biến phức tạp về quốc phòng, an ninh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, thậm chí cả trong các vùng có chiến sự, nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng của lực lượng gìn giữ hòa bình. Trong khi đó, việc tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là nhiệm vụ mới, yêu cầu cao, kinh nghiệm chưa nhiều; hoạt động trong môi trường đa quốc gia, đòi hỏi mỗi cán bộ, nhân viên phải có trình độ, kiến thức, năng lực làm việc về ngoại ngữ, luật pháp quốc tế, quy định của Liên hợp quốc, sự hiểu biết về phong tục, tập quán của nước sở tại, v.v. Công tác hậu cần, kỹ thuật, đảm bảo thông tin liên lạc,… phải sử dụng các trang, thiết bị hiện đại theo chuẩn của Liên hợp quốc. Ngoài ra, lực lượng Quân đội được cử đi làm nhiệm vụ này thì công tác chỉ huy, tham mưu phải đặt dưới sự chỉ huy của Phái bộ nước sở tại và tổ chức đảng, tổ chức quần chúng của ta bên đó; đồng thời, phải chấp hành mệnh lệnh, chỉ huy, chỉ đạo từ Bộ Quốc phòng Việt Nam; thực hiện chế độ, nền nếp theo Điều lệnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong điều kiện khó khăn, phức tạp, cán bộ, nhân viên của ta cần được huấn luyện chặt chẽ trên tất cả các mặt theo yêu cầu của Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; kết hợp giữa huấn luyện, bồi dưỡng ngoại ngữ, trang bị kỹ năng ứng xử quốc tế, kiến thức cơ bản về hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc với tổ chức truyền thụ kinh nghiệm, bổ sung những nội dung cần thiết được rút ra từ thực tiễn hoạt động qua các nhiệm kỳ của cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ. Thông qua đó, trang bị cho họ có thêm kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng xử lý tình huống độc lập cũng như hiệp đồng xử lý các tình huống theo thông lệ, quy tắc ứng xử quốc tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc trong môi trường đa quốc gia. Tăng cường giáo dục xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần khắc phục khó khăn cho bộ đội; tổ chức giao nhiệm vụ chặt chẽ, quy định người phụ trách, chế độ báo cáo kết quả hoàn thành nhiệm vụ hằng tuần, tháng, cả nhiệm kỳ về Cục Gìn giữ hòa bình và Ban Chỉ đạo. Trong quá trình thực hiện, luôn bảo đảm liên lạc thông suốt với Liên hợp quốc, các bộ phận của ta để phục vụ công tác chỉ huy, chỉ đạo, hiệp đồng; tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ để có biện pháp chỉ đạo kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với việc Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng và Cộng hòa Trung Phi đã thể hiện rõ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Qua quá trình hoạt động, các quân nhân Việt Nam đã thực sự trở thành “sứ giả hòa bình” ở những nơi còn nhiều khó khăn, phức tạp về quốc phòng, an ninh và xung đột sắc tộc. Với thành tích đạt được, các quân nhân Việt Nam đã được Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng trao huy chương “Vì sự nghiệp gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc” ngay khi họ kết thúc nhiệm kỳ một năm theo Phái bộ Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định là các quân nhân Việt Nam tham gia Phái bộ luôn phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, vượt qua khó khăn, thử thách, góp phần đem lại sự ổn định cho khu vực và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nước sở tại./.

ST.

Phòng, chống lãng phí trong Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: lãng phí là vấn nạn rất nguy hại cho Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Hiện nay, Đảng ta xác định lãng phí là một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và đặt ra yêu cầu phải kiên quyết phòng, chống ở các cấp, các ngành, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới.

Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói riêng. Ngay từ những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Người đã căn dặn phải thực hành tiết kiệm để kháng chiến, kiến quốc, đồng thời phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Khi nói về vấn nạn lãng phí, Người diễn đạt một cách đơn giản, dễ hiểu làm cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào ai cũng có thể thực hành và đấu tranh phòng, chống được. Theo Hồ Chí Minh, lãng phí bao gồm sức lao động, thời giờ, tiền của, v.v. Lãng phí là không biết thương tiếc mồ hôi nước mắt của nhân dân ta, không biết quý trọng sự giúp đỡ chí tình của nhân dân các nước anh em; lãng phí có mối liên hệ “đồng minh” với các căn bệnh khác như quan liêu, tham ô. Người viết: “Tuy không trộm cắp của công như tham ô, nhưng lãng phí cũng làm cho nhân dân và Chính phủ thiệt thòi, hao tổn, kết quả thì lãng phí cũng có tội như tham ô”; phải xem quan liêu, tham ô, lãng phí là những tội lỗi đối với Tổ quốc, đối với đồng bào; “Không khác gì gián điệp giết hại đồng bào”.

Từ khi ra đời đến nay, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn khắc ghi, học tập và làm theo lời dạy của Người, chú trọng đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang “Bộ đội Cụ Hồ”. Tuy nhiên, trong từng cơ quan, đơn vị, đâu đó vẫn còn hiện tượng lãng phí, gây thất thoát vật tư, tài chính, tài sản của Nhà nước, nhân dân, thời gian, công sức của bộ đội. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội. Vì vậy, phòng, chống căn bệnh lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ cấp bách, cơ bản, lâu dài của toàn quân. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này, góp phần xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị toàn quân cần tiến hành đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

Trước hết, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ toàn quân về nhiệm vụ phòng, chống lãng phí. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội: lãng phí là có tội với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và việc đấu tranh khắc phục, loại bỏ cũng quan trọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. Để phòng, chống hiệu quả những biểu hiện lãng phí, các cơ quan, đơn vị phải tăng cường công tác giáo dục, làm rõ tính chất nguy hại của tình trạng lãng phí tiền của, tài sản của Nhà nước, Nhân dân, lãng phí công sức của bộ đội; đấu tranh với tư tưởng “cha chung không ai khóc”, “nước sông, công lính”, biểu hiện phô trương, hình thức và phải kiên quyết sửa chữa những ý nghĩ sai lầm đó. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ coi lãng phí cũng là một loại “giặc trong lòng ta” cần kiên quyết phòng, chống, đấu tranh loại bỏ, làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc rằng cơ sở vật chất, vũ khí trang bị... đều do mồ hôi, nước mắt, công sức, thậm chí cả máu của nhân dân làm ra và cung cấp cho Quân đội, nên không được lãng phí. Vì thế, các đơn vị cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; cụ thể hóa thực hiện chỉ thị, chương trình hành động về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của Bộ Quốc phòng bằng những việc làm cụ thể gắn với từng vị trí, cương vị công tác. Đặc biệt, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường lãnh đạo đối với vấn đề này, xác định đây là nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh “Mẫu mực tiêu biểu”.

Hai là, tiếp tục triển khai sâu rộng trong toàn quân phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chống lãng phí và tiết kiệm có quan hệ khăng khít với nhau, thực hành tiết kiệm thực chất đã là chống lãng phí và ngược lại, muốn phòng, chống lãng phí có hiệu quả thì phải thực hành tiết kiệm. Trên thực tế, Quân đội ta đã và đang đẩy mạnh thực hiện các phong trào “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, “Xây dựng đơn vị quản lý tài chính tốt”, Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”, “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật”, v.v. Các phong trào, cuộc vận động trên là việc làm thiết thực góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống lãng phí. Tuy nhiên, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, lãng phí không chỉ có tiền của, tài sản của nhân dân, mà lãng phí thời gian học tập, rèn luyện của cán bộ, chiến sĩ cũng rất nguy hại. Theo Người, thời gian là vàng bạc, phải biết quý trọng, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả thời gian làm việc, chống làm việc chiếu lệ, “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”, “được chăng hay chớ”. Đặc biệt, trong hoạt động quân sự, thời gian còn quý hơn vàng, bởi nó liên quan trực tiếp đến vấn đề nắm thời cơ, làm chủ trên chiến trường, xương máu, tính mạng bộ đội. Chính vì thế, cùng với xây dựng, chuẩn hóa các tiêu chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật trong hoạt động quân sự, quốc phòng, thực hiện tốt các quy chế, quy định về kiểm tra, giám sát, dân chủ, công khai, minh bạch, phân cấp, phân nhiệm trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản, vật tư, vũ khí, trang bị, các cơ quan, đơn vị cần quan tâm chống lãng phí thời gian, công sức bộ đội. Để phòng, chống lãng phí nguồn lực con người trong hoạt động quân sự hiện nay, phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng con người, có cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ có đức, có tài để tránh lãng phí nguồn nhân lực của đất nước và Quân đội. Mặt khác, các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh thực hành tiết kiệm trong mọi lúc, mọi nơi, mọi công việc, lĩnh vực hoạt động; kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện xa hoa, phô trương, hình thức, v.v.

Ba là, nâng cao hiệu quả đấu tranh tự phê bình và phê bình trong phòng, chống bệnh lãng phí. Một trong những biện pháp để chống lãng phí được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng và nhấn mạnh là phải “Dùng cách thật thà tự phê bình và phê bình, để tẩy trừ những thói tham ô lãng phí và bệnh quan liêu, để cùng nhau tiến bộ”. Thực hiện vấn đề này, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện đợt sinh hoạt chính trị “Tự soi, tự sửa”, xác định đây là trọng tâm trong thực hiện Chỉ thị 05 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để đạt hiệu quả cao, việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình - “Tự soi tự sửa” phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, tiến hành từ trên xuống dưới. Cấp trên, người chủ trì tự giác, gương mẫu kiểm điểm trước để cấp dưới học tập, làm theo. Ở từng cấp, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Nội dung tự phê bình và phê bình phải từ trong tư tưởng, nhận thức đến hành vi; có hay không nhận thức sai lệch về lãng phí, có hay không tư tưởng “nước sông, công lính”, hoặc tư tưởng quan liêu, tham ô, lãng phí, v.v. Cách phê bình phải vì mục đích giúp đỡ nhau, sửa sai cùng tiến bộ, khắc phục mọi biểu hiện của sự lãng phí; tránh lợi dụng phê bình để “hạ uy tín của nhau”,… gây mất đoàn kết nội bộ. Trên từng cương vị công tác, trong mọi hoạt động, cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy, người chỉ huy phải tích cực rèn luyện đạo đức: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tạo thói quen quý trọng tài sản của Nhà nước, nhân dân, công sức của bộ đội; xây dựng ý thức chi tiêu có mục đích, có kế hoạch, không hoang phí; đưa việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí vào nội dung kế hoạch công tác cá nhân hằng tuần, tháng và phấn đấu thực hiện để làm gương. 

Bốn là, kết hợp chặt chẽ phòng, chống lãng phí với phòng, chống bệnh quan liêu, tham nhũng. Theo Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu và nạn tham ô có quan hệ chặt chẽ với bệnh lãng phí. Người chỉ rõ: “Bệnh quan liêu là bệnh giấy tờ, bệnh hình thức, không thực tế, là xa cách quần chúng, không theo đường lối quần chúng, làm không đúng chính sách của Chính phủ và của Đoàn thể”. Còn “Tham ô là lấy của công làm của tư. Là gian lận tham lam. Là không tôn trọng của công. Là không thương tiếc tiền gạo do mồ hôi nước mắt của đồng bào làm ra, do xương máu của chiến sĩ làm ra”. Do đó, phòng, chống những biểu hiện lãng phí trong Quân đội phải kết hợp chặt chẽ với phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Để kết hợp chặt chẽ phòng, chống lãng phí với phòng, chống quan liêu, tham nhũng, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Trong đó, tập trung thực hiện nghiêm Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Quyết định số 166/QĐ-TTg, ngày 23/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2020”; Nghị quyết số 915-NQ/QUTW, ngày 25/8/2018 của Quân ủy Trung ương về “Đổi mới cơ chế tài chính Quân đội giai đoạn 2018 - 2025 và những năm tiếp theo”; Quyết định số 3500/QĐ-BQP, ngày 26/8/2018 phê duyệt Đề án “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính Quân đội theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, giai đoạn 2018 - 2025 và những năm tiếp theo”. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị chủ động rà soát, hoàn thiện các cơ chế, quy định về quản lý tài chính, ngân sách; thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm ngân sách quốc phòng; công khai, minh bạch về chế độ, tiêu chuẩn, chính sách của bộ đội, trong mua sắm tài sản công, tài sản doanh nghiệp, mua sắm trang thiết bị, sử dụng đất đai. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán việc sử dụng vốn, tài sản,... tránh mọi biểu hiện quan liêu, xa rời nguyên tắc, vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài chính, những biểu hiện tư túi, gian lận nguồn ngân sách, cơ sở vật chất của đơn vị. Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng các nguồn lực, dự án đầu tư, công trình của Quân đội bảo đảm huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân và từng đơn vị,... nhằm bảo đảm nguồn ngân sách dành cho Quân đội không bị thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả. Đồng thời, kiên quyết xử lý nghiêm minh với những cán bộ, nhân viên có hành vi quan liêu, tham ô, lãng phí, với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không hạ cánh an toàn”.

Lãng phí là một trong những biểu hiện của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng chỉ ra. Thấm nhuần tư tưởng và làm theo tấm gương mẫu mực về cần, kiệm, liêm, chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn quân đẩy mạnh hơn nữa công tác phòng, chống lãng phí, góp phần xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới./.

ST.

Thực hành “nói đi đôi với làm” theo phong cách Hồ Chí Minh

Cùng với giá trị tư tưởng và đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã trở thành di sản vô giá, nền tảng văn hóa tinh thần, biểu tượng sáng ngời về tấm gương mẫu mực của vị Lãnh tụ kính yêu trong mỗi con người Việt Nam. Để phong cách của Người tiếp tục thẩm thấu, lan tỏa sâu rộng và hiện hữu trong đời sống xã hội cần tiến hành đồng bộ nhiều nội dung, giải pháp; trong đó, thực hành “nói đi đôi với làm” là giải pháp thiết thực nhất.

Ngay từ khi theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh, Nguyễn Tất Thành đã thắc mắc tại sao thực dân Pháp rêu rao khẩu hiệu: “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” mà lại đàn áp, bóc lột tàn nhẫn nhân dân Việt Nam? Người đã nung nấu ý tưởng được làm quen với nền văn minh Pháp để tìm hiểu xem đằng sau khẩu hiệu ấy ẩn giấu những gì? Vì thế, nước Pháp là điểm dừng chân đầu tiên trong hành trình tìm đường cứu nước của Người thanh niên yêu nước. Khi trực tiếp chứng kiến cuộc sống ở nước Pháp, Bác đã vô cùng thất vọng với một nền văn minh mà ở đó: Tự do – bình đẳng – bác ái chỉ dành cho giai cấp tư sản, còn các tầng lớp nhân dân lao động Pháp cũng bị bóc lột nặng nề, nghĩa là: giữa khẩu hiệu và thực tế không thống nhất với nhau. Qua đó, Người đã lấy hình ảnh “con đỉa hai vòi” để gán cho chủ nghĩa thực dân, đế quốc; trong đó, một vòi hút máu ở chính quốc, vòi còn lại hút máu ở các nước thuộc địa. Đến khi tiếp cận, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, mà khởi đầu là Luận cương của V.I. Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã liên hệ Cách mạng Tháng Mười Nga – cuộc cách mạng giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động với thực tiễn Việt Nam và đã tìm thấy “cẩm nang thần kỳ” soi sáng con đường cứu nước, cứu dân. Vận dụng triệt để nguyên tắc “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn” của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực hành “nói đi đôi với làm”, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lấy đó làm nguyên tắc, phương châm xuyên suốt mọi hoạt động và cũng là biểu hiện thực tiễn về tư tưởng, đạo đức, văn hóa,… làm nên đặc trưng cốt lõi phong cách lãnh tụ vĩ đại.

Để việc học tập Bác trở thành nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân, tổ chức và tạo sự lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội, ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cùng với đó, nghị quyết các hội nghị Trung ương (khóa XII), các chỉ thị, quy định,… của Đảng đều chú trọng đề cập đến nội dung này, nhất là đẩy mạnh học tập và làm theo Bác về “nói đi đôi với làm”. Đây là nội dung quyết định uy tín, hiệu suất công việc của mỗi cá nhân, tổ chức. Có thể nói, Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương là minh chứng về học tập tinh thần của Bác trong rèn luyện và thực hành nhiệm vụ. Những năm qua, các ban, bộ, ngành, các tổ chức và hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã tổ chức quán triệt, cụ thể hóa, triển khai các nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đạt được nhiều kết quả thiết thực; phát hiện, bình chọn và giới thiệu hơn 2.000 điển hình tiên tiến về dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X tại Thủ đô Hà Nội (tháng 12/2020).

Tuy nhiên, việc tổ chức quán triệt, học tập nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương,… còn diễn ra hình thức, làm cho xong; thậm chí ủy viên cấp ủy, cán bộ chủ trì, chủ chốt trực tiếp lên lớp quán triệt cho cơ quan, đơn vị học tập nhưng bản thân lại thực hiện không đúng. Một số nơi, lĩnh vực còn xảy ra tình trạng “thương mại hóa” tình người trong quan hệ xã hội dẫn đến căn bệnh “nói không đi đôi với làm”; cán bộ chủ trì, chủ chốt sống hai nhân cách: trong cuộc họp thường rao giảng rất hay về đạo đức, phong cách, nhưng hành động thực tế lại không đúng với những gì đã nói. Hiện tượng bùng nổ quảng cáo “một tấc đến trời”, lạm phát ngôn từ diễn ra ở nhiều nơi, trên nhiều phương tiện,… gây phản cảm, hoen ố giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống dân tộc, v.v. Để khắc phục tình trạng này, cần đẩy mạnh phong trào tự giác học tập và làm theo Bác về “nói đi đôi với làm” trong toàn xã hội; coi đây là nguyên tắc hàng đầu trong mọi hoạt động. Theo Hồ Chí Minh: “Bất kỳ ở từng lớp nào, giữ địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, sự hoạt động của một người trong xã hội có thể chia làm 3 mặt: 1. Mình đối với mình. 2. Mình đối với người. 3. Mình đối với công việc”. Vì thế, thực hành “nói đi đôi với làm” cần phải được tiến hành nghiêm túc trong tất cả các quan hệ đó.

Thứ nhất, “nói đi đôi với làm” trong quan hệ mình đối với mình. Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn tự đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt và tự thực hành “nói đi đôi với làm” nghiêm túc, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo thực hiện yêu cầu đó. Từ những câu chuyện kể về Bác Hồ cho thấy, Người luôn coi trọng thực hành - tức là làm và hành động, làm nhiều hơn nói, hoặc chỉ lặng lẽ, kiên trì nêu gương mà không nói. Cả cuộc đời, sự nghiệp của Người là những câu chuyện sinh động, tấm gương mẫu mực về “nói đi đôi với làm”, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cùng các phẩm chất: “Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” và phong cách: làm việc, tư duy, diễn đạt, ứng xử, sinh hoạt,… chỉ vì: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Học tập, làm theo tấm gương của Người, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ được giao, tự hình thành ý tưởng, đặt ra những kế hoạch cụ thể, khoa học, phù hợp với khả năng và quyết tâm thực hiện bằng được, nhằm chuyển hóa thành hiện thực. Đây là sự thống nhất giữa suy nghĩ và hành động, giữa ý tưởng, kế hoạch và quyết tâm thực hiện với thước đo là kết quả đạt được trong hoạt động thực tiễn của mỗi chủ thể khi giải quyết mối quan hệ này. Vì vậy, quá trình thực hành, dù là cá nhân hay tổ chức cũng phải thường xuyên tự kiểm điểm, đánh giá chính xác kết quả đạt được, kịp thời bổ sung, điều chỉnh theo hướng đặt ra yêu cầu ngày càng cao, nhưng vừa sức, bảo đảm hiệu quả thực hành “nói đi đôi với làm” ngày càng cao trong quan hệ mình đối với mình.

Thứ hai, thực hành “nói đi đôi với làm” trong quan hệ mình với người khác. Cùng với tấm gương sinh động về “nói đi đôi với làm” trong quan hệ mình với người khác, Hồ Chí Minh còn vận dụng nhuần nhuyễn tinh hoa văn hóa phương Đông về tư tưởng: “dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” - trước hết phải giáo dục bằng tấm gương sống của chính mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói để cảm hóa, giáo dục người khác theo phương châm: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Không chỉ đề cao nêu gương của bản thân, Người còn yêu cầu mỗi cá nhân phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay, sửa đổi khuyết điểm. Đồng thời, phải hoan nghênh người khác phê bình mình; việc gì cũng thiết thực, nói được, làm được. Người dạy thanh niên: “Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết. Như thế thì ai cũng phải yêu mến kính phục thanh niên và phong trào thanh niên nhất định sẽ ăn sâu lan rộng”. Như vậy, học tập và làm theo Bác về “nói đi đôi với làm” trong mối quan hệ mình với người khác đặt ra yêu cầu đối với mỗi cá nhân, tổ chức, nhất là cán bộ, đảng viên, người giữ các trọng trách cao càng phải gắn trách nhiệm, danh dự cá nhân với lời nói của mình và phải quyết tâm thực hiện bằng được những gì đã nói, đã công bố trước tập thể, hoặc người khác. Có như vậy, mới giữ được chữ “tín” của mình đối với người khác, bởi “một sự mất tín, vạn sự mất tin”. Cùng với đó, luôn tự kiểm điểm và nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp, phê bình khi mình có khuyết điểm, chưa thực hiện được những gì đã nói. Kiên quyết đấu tranh với các hành vi xu nịnh, vi phạm nguyên tắc, quy chế làm việc, các biểu hiện: “nói nhiều làm ít”, “nói hay, làm dở”, “nói một đường làm một nẻo”, thậm chí “nói nhưng không làm”, v.v.

Thứ ba, yêu cầu thực hành “nói đi đôi với làm” trong quan hệ mình đối với công việc. Đây là quan hệ quyết định hiệu suất, hiệu quả công việc, uy tín của cá nhân, tổ chức trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh không chỉ là tấm gương sáng, gương mẫu về thực hành nói đi đôi với làm trong mọi công việc mà còn yêu cầu: “Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ” và “Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì vô ích”; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Người chỉ rõ: “Mỗi người công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, viên chức, đều phải hiểu rõ nghĩa vụ vẻ vang của mình là phục vụ sản xuất. Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”. Hồ Chí Minh cho rằng, tổ chức trước hết vẫn là con người, vì thế dù là tổ chức nào thì hạt nhân vẫn là con người và do đó, để mỗi tổ chức hoàn thành tốt phận sự của mình thì hạt nhân của tổ chức phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng mà thực hành: chủ trương một, biệp pháp mười, quyết tâm hai mươi. Đối với mỗi cá nhân, khi được tổ chức giao đảm nhiệm trọng trách nào đó, thì lời nói, việc làm của họ về cơ bản được mặc định là đã vượt qua giới hạn cái riêng của bản thân họ để đại diện cho tổ chức đó. Vì thế, kiên quyết đấu tranh với những người: “Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được. Những người như thế cũng không thể dùng vào công việc thực tế”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương và cuộc đấu tranh phòng, chống giặc nội xâm, đẩy lùi sự tha hóa về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… Đảng ta luôn đặt lên hàng đầu phẩm chất của cán bộ, đảng viên; đặc biệt chú trọng phẩm chất, phong cách “nói đi đôi với làm”. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm”.

Đẩy mạnh thực hành “nói đi đôi với làm” là biểu hiện trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong mọi hoạt động, cần được tiến hành thường xuyên, liên tục góp phần giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và lan tỏa phong cách Hồ Chí Minh trong tình hình mới./.

ST.

Xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Xây dựng, phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của toàn dân là vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn cách mạng. Những tư tưởng của Người về xây dựng, phát huy nhân tố chính trị - tinh thần vẫn còn nguyên giá trị cần vận dụng, phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Chúng ta biết, chính trị - tinh thần gồm tổng thể các yếu tố: lòng yêu nước, ý chí, niềm tin, tinh thần đoàn kết, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, hệ giá trị văn hóa, v.v. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, đó là nhân tố cốt lõi, cội nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc ta trong dựng nước và giữ nước. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu yếu tố chính trị - tinh thần đã được quy tụ, phát huy cao độ, làm nên những chiến công, thành tựu vĩ đại trong lịch sử dân tộc.

Khi nói đến vai trò, sức mạnh của nhân tố chính trị - tinh thần của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Trong Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ, ngày 29/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”. Từ nhận thức sâu sắc đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng, phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của toàn dân tộc. Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương và tổ chức thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử. Sự kiện này thể hiện sự thống nhất ý chí của toàn dân tộc với Đảng và Chính phủ, góp phần thực hiện sách lược “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, bảo vệ, giữ vững chính quyền cách mạng còn non trẻ và chuẩn bị tinh thần, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.  

Không chỉ khẳng định giá trị của sức mạnh chính trị - tinh thần, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phương pháp, cách thức tổ chức để phát huy ưu thế tuyệt đối về mặt chính trị - tinh thần, khơi dậy sức mạnh nội sinh của dân tộc. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Người yêu cầu: “Bổn phận của chúng ta… là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”3.

Thấm nhuần lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố chính trị - tinh thần của toàn dân, toàn quân ta đã được phát huy cao độ hơn bao giờ hết, tạo khí thế hừng hực cả nước lên đường, toàn dân ra trận, tinh thần đó đã trở thành động lực thôi thúc hành động “... thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, v.v. Sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân ta là cơ sở, nền tảng, yếu tố cốt lõi để quy tụ, tập hợp, khơi dậy và nhân lên sức mạnh của mọi nguồn lực, quyết định thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Nói về nguyên nhân của thắng lợi, Người khẳng định “Lòng yêu nước nồng nàn, sự thống nhất về tinh thần và chính trị của nhân dân và quân đội xung quanh Đảng và Chính phủ đã giúp chúng tôi vượt qua những thử thách khó khăn không tưởng tượng được và tạo những điều kiện về chính trị, kinh tế và quân sự để chiến thắng”4.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng, phát huy tiềm lực chính trị - tinh thần, coi đây là nhân tố giữ vai trò đặc biệt quan trọng, tạo cơ sở, nền tảng nâng cao sức mạnh của đất nước và đạt được những thành tựu to lớn. Sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước thường xuyên được tăng cường, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần vẫn còn những hạn chế và đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ. Nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có chiều hướng diễn biến phức tạp. Tác động của mặt trái kinh tế thị trường làm chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, vị kỷ trỗi dậy; xuất hiện tình trạng thờ ơ về chính trị, bàng quan trước lợi ích quốc gia, dân tộc, giảm sút trách nhiệm với xã hội, nghĩa vụ với đất nước, cộng đồng. Một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội công khai phê phán, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, cổ súy cho giá trị kiểu phương Tây,… gây tác động tiêu cực làm giảm xút sức mạnh chính trị - tinh thần, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự nghiệp xây dưng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn trên đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy nhân tố chính trị - tinh thần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:

Một làtăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần. Trước hết, cần nhận thức, Đảng ta vừa là người tổ chức lãnh đạo, vừa là hạt nhân đoàn kết, động viên sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hướng vào xây dựng toàn diện các nhân tố, trong đó có nhân tố chính trị - tinh thần. Do đó, cấp ủy, chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần. Trong đó, đặc biệt coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng “thế trận lòng dân”, đồng thuận xã hội, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chính sách dân tộc, tôn giáo,... bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người trong thực tiễn, xác định đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của địa phương, đơn vị; đồng thời, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong triển khai thực hiện nhằm xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân” vững chắc.

Hai làthực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm”5 và “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất”6. Để làm được điều đó, các ban, bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương đổi mới nội dung, phương phức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục quốc phòng và an ninh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức, tư tưởng cách mạng, khơi dậy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc; củng cố lòng tin với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới, tạo sự đồng thuận, nền tảng tinh thần xã hội vững chắc. Tập trung giáo dục những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, nhất là Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về quốc phòng, an ninh. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội; kích động, gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân của các thế lực thù địch. Đặc biệt, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, xây dựng và củng cố niềm tin, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; xây dựng Quân đội thực sự tinh nhuệ về chính trị, làm nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Ba làđẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đây là vấn đề mấu chốt của lý luận đổi mới, nội dung rất quan trọng trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần hiện nay. Theo đó, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục kiên trì lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển sức sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, bền vững. Tăng cường quản lý nền kinh tế vĩ mô, khuyến khích thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ, thực hiện chuyển đổi số và đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển; bảo đảm trong mỗi chính sách phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần, không quan tâm đúng mức các giá trị văn hóa, xã hội của dân tộc. Cùng với đó, chú trọng hoàn thiện, thực hiện có hiệu quả các chính sách, phúc lợi xã hội, bảo đảm công bằng, hợp lý, không thực hiện cào bằng; làm tốt công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững; đầu tư phát triển y tế, giáo dục, văn hóa; cải thiện an sinh xã hội, bảo đảm thu nhập, giải quyết việc làm cho người lao động, thu hẹp bất bình đẳng xã hội, xây dựng môi trường sống lành mạnh, hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời, thường xuyên công khai, minh bạch các cơ chế, chính sách, quy định của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả việc thực thi pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, ngăn chặn lợi ích nhóm, trục lợi trong thực thi chính sách kinh tế - xã hội.

Bốn làtăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không bao biện, làm thay. Kết hợp chặt chẽ việc đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo sự đồng bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hành dân chủ trong Đảng, xây dựng văn hóa Đảng, coi đây là nền tảng, sức mạnh nội sinh để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Bên cạnh đó, tập trung nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đồng thời, tăng cường công tác phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, kém hiệu quả.

Xây dựng và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, yếu tố cốt lõi đưa cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong điều kiện mới, hơn lúc nào hết phải bồi đắp, gìn giữ, phát triển sức mạnh chính trị - tinh thần của dân tộc lên tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa./.

ST.

QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN ĐỂ PHÒNG, CHỐNG SUY THOÁI

55 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969-2024), những điều Người chỉ dẫn, căn dặn trong tác phẩm vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự đối với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Phòng, chống và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân như Người chỉ dẫn
Là người sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”; “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”” và “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác”... mà còn thường xuyên quan tâm, chú trọng việc rèn luyện đạo đức cách mạng để phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân - nguyên nhân sâu sa của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải là những tấm gương mẫu mực về phẩm chất đạo đức của người cách mạng, sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; luôn luôn: 1) “Tự mình phải “hoà mà không tư”, “cả quyết sửa lỗi mình”, “vị công vong tư”, không hiếu danh, không kiêu ngạo”, “ít lòng ham muốn về vật chất”. 2) Đối người phải “với từng người thì khoan thứ”, “có lòng bày vẽ cho người”, “hay xem xét người”. 3) Làm việc phải “phục tùng đoàn thể”... và đó chính là “làm người đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân”. Đó cũng chính là yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên phòng, chống và đấu tranh với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân để nâng cao đạo đức cách mạng, xứng đáng với vai trò vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Và cũng vì Đảng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc, trên mọi lĩnh vực, nên đại đa số cán bộ, đảng viên là những người “anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang”. Đó là những người “gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác. Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quyét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Tuy nhiên, vì “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra” và “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”. Cho nên, vẫn còn những cán bộ, đảng viên, những tổ chức chưa thực hiện nghiêm việc rèn luyện đạo đức cách mạng để phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nên trong Đảng cũng vẫn còn những người thoái bộ, suy thoái, “đạo đức, phẩm chất còn thấp kém”, lối sống xa rời lý tưởng cách mạng đã được Người chỉ rõ trong tác phẩm này. Đó chính là những người: 1) “Việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. 2) “Ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”. 3) “Mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”...
Thực tế cho thấy, vì chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch “nội xâm”, luôn ẩn giấu trong mỗi con người; là thứ “vi trùng” mẹ, đẻ ra nhiều “virus” con, nên “rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”. Chủ nghĩa cá nhân không chỉ đối lập với đạo đức cách mạng, mà còn là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng; không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, mà còn “là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, cho việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, cho nên “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Vì thế, để xứng đáng với vai trò tiền phong, mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ phải nhận thức sâu sắc về việc kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng một Đảng Mácxít - Lêninnít, mà còn phải chú trọng phòng, chống và đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân từ sớm, từ xa để phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân với tinh thần tận tụy, không tư, không lợi.
Thực tế công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng 94 năm qua cũng cho thấy, chủ nghĩa cá nhân chính là sự biểu hiện tập trung nhất, rõ nét nhất, cụ thể nhất sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi con người, trong từng tổ chức. Chừng nào “vi trùng” chủ nghĩa cá nhân còn tiềm ẩn trong mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; trong mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, thì chừng đó còn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ, còn gây bức xúc trong dư luận xã hội, làm xói mòn lòng tin yêu của nhân dân với Đảng và chế độ. Vì thế, trong mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền và trong mỗi cán bộ, đảng viên, chủ nghĩa cá nhân không chỉ là nguyên nhân sâu sa của những biểu hiện mất dân chủ, bè cánh, địa phương chủ nghĩa, hẹp hòi, ích kỷ, chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, làm suy yếu sức mạnh của từng tập thể, mà còn là những trở lực đối với sự toàn tâm, toàn ý phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của những cán bộ, đảng viên chân chính. Cho nên, nhìn từ chiều cạnh nào cũng thấy chủ nghĩa cá nhân là một trong những nguy cơ lớn đe dọa uy tín, danh dự, vị thế cầm quyền/lãnh đạo hệ thống chính trị và vai trò tiền phong của Đảng; không chỉ ảnh hưởng tới Đảng, từng cán bộ, đảng viên, mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc trên hành trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ những hệ lụy “do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm khuyết điểm” và nhìn vào thực tế những cán bộ, đảng viên vì sa vào chủ nghĩa cá nhân mà vi phạm Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật đã, đang bị xử lý nghiêm minh, có thể thấy không phải ngẫu nhiên 55 năm trước đây trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” viết dịp kỷ niệm thành lập Đảng mùa Xuân năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chỉ rõ yêu cầu: “Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật” trong toàn Đảng và trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Xuyên suốt lịch sử công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, có thể thấy việc phòng, chống và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân để nâng cao đạo đức cách mạng trong toàn Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm; luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng triển khai sâu rộng từ Trung ương tới địa phương. Những nhiệm kỳ gần đây, cùng với việc đẩy mạnh công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, vấn đề phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân cũng như những biểu hiện suy thoái đã trở thành nhu cầu tự thân của mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền và trong mỗi cán bộ, đảng viên.
Thực tế, việc triển khai gắn thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”” với Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””... đã góp phần ngăn chặn những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đồng thời, việc thực hiện các Quy định về nêu gương như Quy định số 55-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”, Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương”… gắn với đẩy mạnh phòng và đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong toàn Đảng, hệ thống chính trị cũng đã góp phần thiết thực vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kịp thời loại trừ những con sâu mọt ra khỏi Đảng.
Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, của lối sống “sủng vật chất”, bị cám dỗ bởi vật chất, trong Đảng vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng viên được trao trọng trách tại các cơ quan công quyền đã lợi dụng, lạm dụng quyền lực được ủy thác để mưu cầu lợi ích riêng cho mình và nhóm lợi ích. Những hành động vụ lợi của họ là biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa cá nhân, của sự suy thoái về đạo đức, lối sống; là minh chứng cho những biểu hiện kinh niên của căn bệnh cá nhân chủ nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Những hành động vụ lợi của họ không màng đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, không màng đến uy tín và danh dự của Đảng, của người đảng viên cộng sản, không chỉ gây thất thoát lớn tiền của của Nhà nước và nhân dân, mà còn đe dọa vị thế tiền phong của một Đảng cầm quyền.
Vì thế, đón Xuân mới Giáp Thìn 2024 và đọc lại những trăn trở, tâm huyết, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng là việc làm vừa cần thiết vừa ý nghĩa. Từ những chỉ dẫn của Người, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ cần thấm nhuần sâu sắc hơn nữa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, mà còn cần phải quán triệt thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng và nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên.
Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm thì xây dựng Đảng luôn là nhiệm vụ then chốt và phòng, đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân luôn là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên, liên tục của Đảng cầm quyền. Vì thế, để Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một khối đoàn kết, thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và luôn gương mẫu về đạo đức, bảo đảm đường lối, chủ trương được chấp hành nghiêm chỉnh thì không thể sao nhãng việc phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân từ sớm, từ xa; không thể sao nhãng việc nhận diện và chỉ ra các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đấu tranh ngăn chặn và phòng ngừa. Đi liền với đó là mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức cơ sở Đảng đều phải tiến hành tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát nghiêm túc để kịp thời phát hiện những cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm; kịp thời đưa ra biện pháp sửa chữa nghiêm túc và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống để Đảng trong sạch, vững mạnh.
Mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ, đảng viên không chỉ phải nhận thức sâu sắc hơn nữa tác hại của chủ nghĩa cá nhân; hiểu rõ đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”, mà còn phải chú trọng thực hiện phòng, chống chủ nghĩa cá nhân đi liền với chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu trên tinh thần nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức, tính kỷ luật, tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Đặc biệt, một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân chính là mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng phải luôn thấu triệt: lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể, nên “nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể” để phát huy tính tiền phong gương mẫu, nói đi đôi với làm. Đồng thời luôn đi sâu, đi sát, gần gũi với nhân dân; tôn trọng, lắng nghe nhân dân; tận tụy phụng sự nhân dân với tinh thần liêm, chính, chí công vô tư để tạo “hệ miễn dịch” với những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa./.
ST.