Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG BỐI CẢNH MỚI

 

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường thì nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch càng có ý nghĩa cấp thiết. 

Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mùa Xuân năm 1930 là dấu mốc lịch sử trọng đại, bước ngoặt quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc. Đến nay, suốt 94 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, 38 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 33 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn phải đối mặt với nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá, công kích của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị. Không từ một thủ đoạn nào, bọn chúng ra sức gây nhiễu, tạo khoảng trống ý thức hệ trong cán bộ, đảng viên, kích động, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm lung lạc niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Năm 1927, từ khi Đảng chưa ra đời, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã khẳng định phải “giữ chủ nghĩa cho vững”(1), “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”(2) và chủ nghĩa chân chính, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tháng 10-1930, trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng ta chỉ rõ: “Giải thích cho công nhân mục đích và đường lối của Đảng Cộng sản trong các vấn đề liên quan đến cuộc sống của công nhân và thái độ đối với các sự kiện lớn diễn ra trong nước. Giải thích cho họ rằng, Đảng Cộng sản là Đảng của họ, vì vậy họ cần phải bảo vệ Đảng”(3). Đến năm 1960, tại Đại hội III, trong Báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nhấn mạnh: “Bất cứ trong tình hình nào, nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi đảng viên là phải bảo vệ Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, tỉnh táo đề phòng và kiên quyết đấu tranh chống mọi mưu đồ đả kích hoặc làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng bất kỳ trên lĩnh vực nào, và núp dưới hình thức nào”(4). Như vậy, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhất quán: “Bảo vệ Đảng là công tác thường xuyên, luôn luôn gắn chặt với các mặt công tác xây dựng đảng trong mọi giai đoạn cách mạng, để bảo đảm cho tổ chức của Đảng được trong sạch và vững mạnh”(5).

Thời gian gần đây, sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(6). Đặc biệt, năm 2022, cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự đánh giá cao, hưởng ứng tích cực của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như bạn bè, các chính đảng, chính trị gia và dư luận quốc tế. Cuốn sách trở thành tài liệu hết sức giá trị, phục vụ việc học tập, giáo dục lý luận chính trị, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Hiện nay, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Song, cần nhận thức sâu sắc rằng, con đường chúng ta kiên định đang và sẽ tiếp tục trải qua vô vàn khó khăn, thách thức. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra một trong những thách thức to lớn mà chúng ta phải đối mặt và giải quyết, đó là: “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(7). Không những thế, lợi dụng tiến bộ của công nghệ thông tin, truyền thông trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nhiều biến động của tình hình thế giới, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh chống phá trên mọi mặt trận, trọng tâm là chĩa mũi nhọn tấn công chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng bằng hàng loạt âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc. Cụ thể:

Về đối tượng, đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta vô cùng đa dạng, phức tạp, có thể phân chia thành ba nhóm chính: (i) Một bộ phận những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn trên thế giới, bài xích tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; (ii) Lực lượng phản động, tàn dư của chế độ ngụy quyền trước đây đang sinh sống, lưu vong ở nước ngoài kết hợp với một số đối tượng chống đối, bất mãn ở trong nước. Nhóm này có số lượng đông đảo, manh động và chống phá trực diện, quyết liệt nhằm thực hiện âm mưu phá hoại công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; (iii) Một bộ phận cán bộ, đảng viên bất mãn, cơ hội, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Về phương thức, thủ đoạn, trong bối cảnh mới, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường tập trung: phủ nhận, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như giá trị khoa học, thời đại, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống phá, xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biển, đảo; lợi dụng hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động người dân tham gia các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội...

Về phương tiện, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thế lực thù địch triệt để tận dụng công cụ truyền thông, báo chí, không gian mạng để đẩy mạnh hoạt động chống phá về tư tưởng. Chúng tăng cường thực hiện nhiều chiêu thức khác nhau, như xuất bản tài liệu, ấn phẩm sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi...; thành lập trang web, blog, các kênh phát thanh truyền hình có chương trình tiếng Việt; tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội thi... thậm chí núp bóng danh nghĩa yêu nước, bảo vệ dân chủ, nhân quyền, vì dân tộc, vì đất nước, thúc đẩy hình thành các hội, nhóm, tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, lợi dụng quá trình “chuyển đổi số”, các thế lực thù địch đã số hóa các dữ liệu không có thật, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ Đảng, lãnh đạo Đảng và Nhà nước...; thiết lập cơ sở dữ liệu, sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn (Big Data)... để tạo ra các dữ liệu, tài liệu giả theo kiểu “có giá trị như thật”, “minh chứng lịch sử”, “nguồn gốc của mọi nguồn gốc”, “tài liệu mật”... nhằm chống Đảng và Nhà nước ta.

Giải pháp đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khiếu kiện

Nhằm vạch trần, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khiếu kiện để xâm phạm ANTT ở nước ta, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau:

 Làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, dứt điểm hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm phạm ANCT-TTATXH hoặc tài trợ, kích động hoạt động khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, khiếu kiện, điểm nóng phức tạp về ANTT ở địa phương, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Thường xuyên đổi mới hình thức, nội dung phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc bảo đảm thiết thực, hiệu quả; chú trọng xây dựng tổ dân phố, khu phố đoàn kết, văn hóa; xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản ANTT ở từng địa phương. 

 Các ban, bộ, ngành chức năng thường xuyên phối hợp rà soát, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, dân tộc, đất đai, các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo để qua đó kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót nhằm kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế. Phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan chức năng, các tầng lớp nhân dân trong phối hợp với lực lượng công an giải quyết kịp thời những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài, gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị ở địa phương. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân tộc, tôn giáo, đất đai, phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại nhằm tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng nhân dân. 

 Cấp ủy, chính quyền các cấp không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở khu vực nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng LLVT nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững ANTT tại địa phương.     

Vai trò của cơ quan chức năng trong công tác tuyên truyền...vận động quần chúng

 Các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, dân tộc, đất đai, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và các văn bản chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân chấp hành; lấy ổn định lòng dân làm nguyên tắc cơ bản trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường lòng tin của quần chúng nhân dân vào Nhà nước và chính quyền các cấp về giải quyết khiếu nại, tố cáo; ưu tiên giải quyết các quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân, bảo đảm hài hòa với lợi ích chung của Nhà nước. Tăng cường tuyên truyền trong nhân dân về âm mưu, hoạt động của kẻ địch lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để lôi kéo, kích động người dân xâm phạm ANCT-TTATXH ở địa phương, từ đó tự giác tham gia công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; mỗi người dân khi thực hiện việc khiếu nại, tố cáo đều phải hiểu rõ và thực hiện đúng quyền khiếu nại, tố cáo trên cơ sở pháp luật. Vận dụng linh hoạt các biện pháp công tác trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, góp phần bảo đảm ANTT; trong đó, chú trọng vận dụng quy định hành chính, dùng sức mạnh của quần chúng để giải quyết.

Nhận diện phương thức, thủ đoạn, các thế lực thù địch

     Về phương thức, thủ đoạn, các thế lực thù địch bên ngoài lập ra các “phong trào”, “tổ chức” để vừa vận động quyên góp tiền, vật chất, vừa kích động, lôi kéo người dân ở các địa phương xảy ra tranh chấp, khiếu kiện hoặc người dân có quyền và lợi ích bị xâm phạm phải đi khiếu kiện, tham gia chống đối hoặc tuần hành, biểu tình, tán phát truyền đơn nhằm kêu gọi bên ngoài ủng hộ “đồng bào quốc nội”. Chúng triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội để thành lập các trang, hội nhóm kích động, tập hợp, lôi kéo những người có chung quan điểm để khiếu nại, tố cáo sai sự thật, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; lợi dụng bưu chính, viễn thông để gửi đơn, thư nặc danh hoặc tung tin đồn thất thiệt nhằm vu khống, bôi nhọ với mục đích hạ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng. Chúng hướng dẫn người dân viết đơn, thư khiếu kiện, làm băng rôn, khẩu hiệu, kéo đến trụ sở các cơ quan Đảng, chính quyền các cấp để gây sức ép; hướng dẫn viết bài đăng trên internet, mạng xã hội để tạo tiếng vang. Những đối tượng này còn tìm cách xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, bóp méo tình hình thực tế, thổi phồng vụ việc để tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài và lôi kéo người dân khác tham gia biểu tình, gây rối ANTT, xâm phạm ANCT-TTATXH.

Biện pháp đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực kinh tế

 Để ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế đối với nước ta trong chiến lược “diễn biến hòa bình” cần thực hiện tốt các giải pháp cụ thể sau:

Một là, chủ động đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận, bảo vệ vững chắc các nguyên lý kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta, góp phần củng cố vững chắc trận địa tư tưởng trong nhân dân, mà trước hết là trong cán bộ, đảng viên.

Hai là, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống hoạt động phá hoại trên lĩnh vực kinh tế trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác trong nền kinh tế.

Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng phải tích cực nâng cao nhận thức về “diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, phải luôn cảnh giác cao độ, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại sự chống phá của kẻ thù trên lĩnh vực kinh tế. Quán triệt, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ vững chắc sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay./.

Giải pháp đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khiếu kiện để xâm phạm ANTT hiện nay

     Đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khiếu kiện để xâm phạm ANTT ở nước ta, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau:

Một là, các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, dân tộc, đất đai, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và các văn bản chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân chấp hành; lấy ổn định lòng dân làm nguyên tắc cơ bản trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường lòng tin của quần chúng nhân dân vào Nhà nước và chính quyền các cấp về giải quyết khiếu nại, tố cáo; ưu tiên giải quyết các quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân, bảo đảm hài hòa với lợi ích chung của Nhà nước. 

Hai là, tăng cường tuyên truyền trong nhân dân về âm mưu, hoạt động của kẻ địch lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để lôi kéo, kích động người dân xâm phạm ANCT-TTATXH ở địa phương, từ đó tự giác tham gia công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; mỗi người dân khi thực hiện việc khiếu nại, tố cáo đều phải hiểu rõ và thực hiện đúng quyền khiếu nại, tố cáo trên cơ sở pháp luật. Vận dụng linh hoạt các biện pháp công tác trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, góp phần bảo đảm ANTT; trong đó, chú trọng vận dụng quy định hành chính, dùng sức mạnh của quần chúng để giải quyết.

Ba là, làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, dứt điểm hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm phạm ANCT-TTATXH hoặc tài trợ, kích động hoạt động khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, khiếu kiện, điểm nóng phức tạp về ANTT ở địa phương, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Thường xuyên đổi mới hình thức, nội dung phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc bảo đảm thiết thực, hiệu quả; chú trọng xây dựng tổ dân phố, khu phố đoàn kết, văn hóa; xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản ANTT ở từng địa phương. 

Bốn là, các ban, bộ, ngành chức năng thường xuyên phối hợp rà soát, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, dân tộc, đất đai, các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo để qua đó kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót nhằm kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế. Phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan chức năng, các tầng lớp nhân dân trong phối hợp với lực lượng công an giải quyết kịp thời những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài, gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị ở địa phương. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân tộc, tôn giáo, đất đai, phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại nhằm tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng nhân dân. 

Năm là, cấp ủy, chính quyền các cấp không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở khu vực nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng LLVT nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững ANTT tại địa phương.     

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH" TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ

Bàn về thủ đoạn của “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực kinh tế, từ góc độ nghiên cứu lý luận, chúng ta bắt gặp không ít những luận điểm tìm cách xuyên tạc, phê phán, đòi xem xét lại lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng với mục đích xoá bỏ nền tảng tư tưởng kinh tế ở Việt Nam, xuyên tạc sự nghiệp đổi mới hòng chuyển hoá nền kinh tế nước ta phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Trong đó, một mặt chúng tìm mọi cách xuyên tạc và lật đổ Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, chúng cho rằng quan hệ giữa các chủ tư bản và công nhân lao động là quan hệ đồng đẳng (cùng góp vốn, cùng chịu trách nhiệm, cùng hưởng lợi), máy móc với công nghệ hiện đại là nguồn gốc thực sự của sự gia tăng doanh lợi kếch xù, do đó trong các xí nghiệp tư bản không có sự chiếm hữu tư nhân, không có quan hệ bóc lột. Mặt khác, chúng lại cho rằng, Việt Nam phát triển kinh tế thị trường, thừa nhận sở hữu tư nhân đồng nghĩa với việc bóc lột giá trị thặng dư, theo đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là hình thức. Trên cơ sở đó chúng tập trung công kích, xuyên tạc bản chất mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng, không chỉ công kích đường lối đổi mới kinh tế mà các thế lực thù địch còn dùng sức ép kinh tế, chính trị, ngoại giao đòi thay đổi, chuyển hóa mục tiêu phát triển đất nước.

Các thế lực thù địch đã triển khai nhiều “kế hoạch” chống phá và trục lợi đối với kinh tế Việt Nam, nhằm tác động chuyển hoá Việt Nam. Một trong những thủ đoạn nổi lên là chúng thổi phồng, bóp méo thông tin về những khó khăn của kinh tế Việt Nam nhằm làm rối loạn xã hội và hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế thông qua việc tung tin thất thiệt về các cán cân kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính – tiền tệ. Âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là thâm nhập, chiếm lĩnh các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu của Việt Nam, nhất là tham dự quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, chúng khuyến khích Việt Nam cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng tư vấn của Mỹ và các tổ chức quốc tế với nguyên tắc: “Cái gì tuột khỏi tay Đảng cộng sản là khuyến khích, để khi Việt Nam thực hiện xong lộ trình này thì ý thức hệ cộng sản của con người và xã hội Việt Nam sẽ mai một”.

Bên cạnh đó, chúng tăng cường trục lợi từ nền kinh tế Việt Nam, cho rằng: “Việt Nam cần tự do hoá các nguồn vốn đầu tư, khuyến khích tăng giá đồng nội tệ, xây dựng ngân hàng trung ương thực sự độc lập”. Trên thị trường chứng khoán, chúng đưa ra những báo cáo sai lệch về tình hình chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam, nhất là vấn đề lãi suất và lạm phát, từ đó tác động đến tâm lý của nhà đầu tư trong nước để trục lợi.

Không những thế, Mỹ còn xác định: “WTO là công cụ hữu hiệu nhất để làm mất màu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường tự do kiểu tư bản”. Chúng ra sức chống phá thành phần kinh tế nhà nước, khoét sâu vào những yếu kém nổi lên của một số doanh nghiệp nhà nước thời gian qua và lập luận: “Nguyên nhân yếu kém của nền kinh tế Việt Nam là do các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước làm ăn kém hiệu quả”, từ đó “khuyên” Việt Nam cổ phần hoá triệt để hoặc giải thể các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước. 

Từ thực tiễn trên, để ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế đối với nước ta trong chiến lược “diễn biến hòa bình” cần thực hiện tốt các giải pháp cụ thể sau:

Một là, chủ động đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận, bảo vệ vững chắc các nguyên lý kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta, góp phần củng cố vững chắc trận địa tư tưởng trong nhân dân, mà trước hết là trong cán bộ, đảng viên.

Hai là, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống hoạt động phá hoại trên lĩnh vực kinh tế trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác trong nền kinh tế.

Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng phải tích cực nâng cao nhận thức về “diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, phải luôn cảnh giác cao độ, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại sự chống phá của kẻ thù trên lĩnh vực kinh tế. Quán triệt, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ vững chắc sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay./.

.ankhe.02.

VUI CÙNG LỊCH SỬ “NGÀY CÁ” THÁNG TƯ

     Ngày 14/3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh quân đoàn 2, Quân khu 2 nguỵ SG tuyên bố: “Tôi sẽ sống chết với Cao Nguyên. Tôi sẽ lấy máu mình để thu hồi Ban Mê Thuột”.

Đến ngày 15/3/1975, tướng Phú lên máy bay dông một mạch về Nha Trang, bỏ lại hơn 120.000 ngụy quân cùng hàng nghìn xe tăng, pháo và thiết giáp tan tác trên đường số 7.

 Ngày 23/3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1, Quân khu 1 ngụy SG (ông này cũng từng đối đầu với Quân Giải phóng bị Tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy đánh cho chạy co vòi ở Mặt Trận Quảng Trị 1972, lui về phòng ngự ở Huế), tuyên bố: “Tôi sẽ sống chết với Cố Đô Cộng quân muốn vào Huế phải bước qua xác tôi”.

Ngày 26/3/1975, hàng vạn quân nguỵ tan rã ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, Quân giải phóng tiến vào Huế nhưng không phải bước qua xác tướng Ngô Quang Trưởng vì cái xác ăn tục nói phét ấy đã cao chạy xa bay vào Đà Nẵng ngày 25/3/1975.

Ngày 27/3/1975, tại Đà Nẵng, vẫn là tướng Ngô Quang Trưởng hô hào: “Anh em hãy tử thủ tại Đà Nẵng. Tôi sẽ cùng anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng”. Nhưng ngay ngày hôm sau, chưa kịp bắn viên đạn nào thì Trưởng đã cưỡi trực thăng đáp xuống tàu HQ-05, dông thẳng về Sài Gòn bỏ mặc anh em vứt vũ khí, khí tài chạy không mảnh giáp che thân.

Ngày 12/4/1975, chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 mắm môi mắm lợi hùng hổ tuyên bố tại Xuân Lộc: “Chúng tôi sẽ đánh một trận dập đầu cộng quân để thế giới biết sức mạnh của Quân lực VNCH”.

Đến ngày 24/4/1975, “Sức mạnh của quân nực VNCH” chỉ còn chưa đầy 1/10 quân số.luồn rừng chạy vòng qua Bà Rịa - Vũng Tàu về Sài Gòn theo lời hứa của Nguyễn Văn Thiệu ngày 21/4/1975: "Đất nước mất đi một Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng quân đội vẫn còn trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em binh sĩ”. 

Chỉ 4 ngày sau, Thiệu đã bí mật lên máy bay chuồn sang Đài Loan. Tài sản của gia đình Thiệu đã được chuyển đi trước đó...

Một pha tốc biến quá nhanh và nguồn gốc “ngày cá tháng Tư" ra đời như vây đó!!!
Ảnh: chỉ có tính minh họa!
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TẠO NHẬN THỨC THỐNG NHẤT VÀ ĐẦY ĐỦ VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI!

         Sáng 1/4, tại Nhà Quốc hội, thực hiện chương trình phiên họp chuyên đề pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành nội dung phiên họp!

Tham dự phiên họp, về phía Chính phủ có Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang, Bộ trưởng Công an Tô Lâm, đại diện các bộ, ngành cùng một số cơ quan hữu quan.

Trình bày Tờ trình về dự án luật, Bộ trưởng Công an Tô Lâm cho biết, Luật Phòng, chống mua bán người được Quốc hội khóa XII, Kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/3/2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2012. Quá trình triển khai thực hiện Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Tuy nhiên, sau 12 năm triển khai thi hành đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật này nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tương thích với điều ước quốc tế; giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác phòng, chống mua bán người hiện nay và trong thời gian tới.

Bộ trưởng Công An nêu rõ, mục đích xây dựng luật là nhằm hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán người, tạo nhận thức thống nhất và đầy đủ về công tác phòng, chống mua bán người trong thời gian tới; nâng cao trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội trong công tác phòng, chống mua bán người góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về phòng, chống mua bán người.

Theo Bộ trưởng Tô Lâm, dự án luật được xây dựng trên quan điểm tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác phòng, chống mua bán người; cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

Đồng thời, bám sát các chính sách trong đề nghị xây dựng dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) đã được cấp có thẩm quyền thông qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống mua bán người hiện nay và trong thời gian tới; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn công tác phòng, chống mua bán người của một số quốc gia trên thế giới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam./.

Yêu nước ST.

VẠCH TRẦN CÁC HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO GÂY MẤT AN NINH TRẬT TỰ Ở NƯỚC TA!

     Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được quy định cụ thể trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật nước ta!

Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật, có nhiều nguyên nhân dẫn đến một bộ phận nhân dân bức xúc, khiếu kiện kéo dài. Nghiêm trọng hơn, các thế lực thù địch, tổ chức lưu vong đã kích động, lôi kéo người dân lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối an ninh trật tự (ANTT), qua đó thực hiện các mưu đồ chính trị, chống Đảng và Nhà nước ta... 

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trên cơ sở pháp luật; góp phần giữ vững sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội (ANCT-TTATXH), thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, trong thực tiễn cũng nảy sinh một số vấn đề ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người dân, dẫn đến tình hình khiếu kiện ở nước ta có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.

Chỉ tính riêng trong năm 2023, có 391.512 lượt người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về 294.909 vụ việc, có 2.943 đoàn đông người; trong đó, tổng số vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính các cấp là hơn 7.000 (tăng 15,5% so với năm 2022). Đáng chú ý, khiếu nại, tố cáo hành chính liên quan đến đất đai tiếp tục là một điểm nóng, nhất là ở các địa phương có nhiều dự án đầu tư liên quan đến thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng, như: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng...

Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Những khó khăn, bức xúc, mâu thuẫn từ cơ sở chưa được phát hiện kịp thời và giải quyết thỏa đáng; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thiếu đồng bộ, thống nhất; cơ quan thực hiện chính sách, pháp luật, nhất là về đất đai, nông nghiệp, môi trường... chưa đúng, chưa đầy đủ, chính quyền và cơ quan chức năng chưa chủ động đối thoại với người dân để giải quyết vướng mắc, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân chấp hành...

Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân sâu xa là các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để chỉ đạo, kích động, lôi kéo, tập hợp người dân tham gia thực hiện “cách mạng màu” đối với nước ta. Tham gia hậu thuẫn, chỉ đạo nhiều vụ việc, điểm nóng là các thế lực thù địch, tổ chức phản động lưu vong, như: Việt Tân, Triều đại Việt, Liên minh Việt Nam tự do... Chúng thông qua các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị trong nước lợi dụng tâm trạng bức xúc cùng sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người dân để kích động, xúi giục, lôi kéo họ lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để khiếu kiện, tập trung đông người nhằm gây rối ANTT, cản trở việc thực hiện chính sách, pháp luật ở địa phương; qua đó, hòng tác động, gây áp lực nhằm can thiệp vào quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành các tổ chức “xã hội dân sự”, các tổ chức chính trị đối lập, hợp pháp hóa những hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, biểu tình, bạo loạn chống Đảng và Nhà nước ta. 

Các thế lực thù địch đặc biệt lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng, như: Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, các diễn đàn hợp tác quốc tế; lợi dụng bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, xuất hiện những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia... để kích động, lôi kéo người dân ở các địa phương xảy ra tranh chấp, khiếu kiện hoặc người dân có quyền và lợi ích bị xâm phạm phải đi khiếu kiện..., tụ tập tham gia tuần hành, biểu tình gây phức tạp về ANTT, cản trở các hoạt động bình thường của xã hội. 

Về phương thức, thủ đoạn, các thế lực thù địch bên ngoài lập ra các “phong trào", "tổ chức” để vừa vận động quyên góp tiền, vật chất, vừa kích động, lôi kéo người dân ở các địa phương xảy ra tranh chấp, khiếu kiện hoặc người dân có quyền và lợi ích bị xâm phạm phải đi khiếu kiện, tham gia chống đối hoặc tuần hành, biểu tình, tán phát truyền đơn nhằm kêu gọi bên ngoài ủng hộ “đồng bào quốc nội”. Chúng triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội để thành lập các trang, hội nhóm kích động, tập hợp, lôi kéo những người có chung quan điểm để khiếu nại, tố cáo sai sự thật, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; lợi dụng bưu chính, viễn thông để gửi đơn, thư nặc danh hoặc tung tin đồn thất thiệt nhằm vu khống, bôi nhọ với mục đích hạ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng.

Chúng hướng dẫn người dân viết đơn, thư khiếu kiện, làm băng rôn, khẩu hiệu, kéo đến trụ sở các cơ quan Đảng, chính quyền các cấp để gây sức ép; hướng dẫn viết bài đăng trên internet, mạng xã hội để tạo tiếng vang. Những đối tượng này còn tìm cách xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, bóp méo tình hình thực tế, thổi phồng vụ việc để tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài và lôi kéo người dân khác tham gia biểu tình, gây rối ANTT, xâm phạm ANCT-TTATXH. Điển hình như vụ khiếu nại, tố cáo vượt cấp đối với dự án thu hồi đất, di dời chùa Liên Trì, số 153, đường Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2, TP Hồ Chí Minh; vụ khiếu kiện tại Tu viện Bát Nhã, xã Đamb'ri, TP Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng...

Nhằm vạch trần, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khiếu kiện để xâm phạm ANTT ở nước ta, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau:
Một là, các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, dân tộc, đất đai, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và các văn bản chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân chấp hành; lấy ổn định lòng dân làm nguyên tắc cơ bản trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường lòng tin của quần chúng nhân dân vào Nhà nước và chính quyền các cấp về giải quyết khiếu nại, tố cáo; ưu tiên giải quyết các quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân, bảo đảm hài hòa với lợi ích chung của Nhà nước. 

Hai là, tăng cường tuyên truyền trong nhân dân về âm mưu, hoạt động của kẻ địch lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để lôi kéo, kích động người dân xâm phạm ANCT-TTATXH ở địa phương, từ đó tự giác tham gia công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; mỗi người dân khi thực hiện việc khiếu nại, tố cáo đều phải hiểu rõ và thực hiện đúng quyền khiếu nại, tố cáo trên cơ sở pháp luật. Vận dụng linh hoạt các biện pháp công tác trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, góp phần bảo đảm ANTT; trong đó, chú trọng vận dụng quy định hành chính, dùng sức mạnh của quần chúng để giải quyết.

Ba là, làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, dứt điểm hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm phạm ANCT-TTATXH hoặc tài trợ, kích động hoạt động khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, khiếu kiện, điểm nóng phức tạp về ANTT ở địa phương, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Thường xuyên đổi mới hình thức, nội dung phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc bảo đảm thiết thực, hiệu quả; chú trọng xây dựng tổ dân phố, khu phố đoàn kết, văn hóa; xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản ANTT ở từng địa phương. 

Bốn là, các ban, bộ, ngành chức năng thường xuyên phối hợp rà soát, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, dân tộc, đất đai, các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo để qua đó kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót nhằm kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế. Phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan chức năng, các tầng lớp nhân dân trong phối hợp với lực lượng công an giải quyết kịp thời những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài, gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị ở địa phương. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân tộc, tôn giáo, đất đai, phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại nhằm tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng nhân dân. 

Năm là, cấp ủy, chính quyền các cấp không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở khu vực nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng LLVT nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững ANTT tại địa phương./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ CÓ GIÁ TRỊ VÔ CÙNG TO LỚN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG BA NƯỚC VIỆT NAM - LÀO - CAMPUCHIA!

         Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân, nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ đất nước Lào và Campuchia. Bởi vậy, Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ đơn thuần là thắng lợi của quân và dân Việt Nam, mà còn ảnh hưởng, có giá trị vô cùng to lớn đối với cuộc kháng chiến chung của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia!

Đó là nhận định của Thủ tướng Lào Souphanouvong đăng trên Báo Quân đội nhân dân, xuất bản ngày 26-4-1954 và nội dung trích trong bức điện của Mặt trận dân tộc thống nhất Khơ-me gửi các cán bộ và chiến sĩ Việt Nam tại mặt trận Điện Biên Phủ, tháng 4-1954.

Trong bài phát biểu đăng trên Báo Quân đội nhân dân, Thủ tướng Souphanouvong thay mặt toàn thể quân đội và nhân dân đất nước Lào xin gửi lời chào mừng và nhiệt liệt hoan nghênh chiến thắng của quân và dân Việt Nam tại mặt trận Điện Biên Phủ. Quân đội Lào vô cùng phấn khởi và tin tưởng ở thắng lợi của các bạn, coi đó là thắng lợi của bản thân mình.

Thủ tướng Souphanouvong nhấn mạnh “Chiến thắng Điện Biên Phủ có ảnh hưởng và có giá trị vô cùng to lớn đối với cuộc kháng chiến chung của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia và đối với phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới hiện nay”.

Theo đồng chí Souphanouvong, Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo thêm nhiều thuận lợi để quân và dân Lào phát triển những thắng lợi của mình, củng cố khu giải phóng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, toàn bộ tiến lên. Không những thế, Điện Biên Phủ được giải phóng sẽ mở thông hoàn toàn biên giới giữa Thượng Lào với Bắc Bộ Việt Nam, làm cho tình đoàn kết Việt - Lào ngày càng được thắt chặt thân thiết hơn nữa.

Thủ tướng Souphanouvong tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với tinh thần chiến đấu dũng cảm vô song, quân và dân Việt Nam nhất định toàn thắng, sẽ làm tròn nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Thủ tướng Souphanouvong khẳng định, nhân dân và đất nước Lào theo dõi từng ngày từng giờ các trận chiến đấu anh dũng của các bạn, nguyện nỗ lực học tập các bạn. Xin hứa với các bạn sẽ phối hợp chặt chẽ với các bạn trong cuộc chiến đấu này bằng cách nỗ lực tăng cường hoạt động mọi mặt, phát triển chiến tranh du kích mạnh mẽ, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, nỗ lực đào tạo cán bộ.

Trong bức điện của Mặt trận dân tộc thống nhất Khơ-me gửi các cán bộ và chiến sĩ Việt Nam tại mặt trận Điện Biên Phủ, tháng 4-1954 nhấn mạnh: “Nhân dân Khơ-me rất phấn khởi khi biết tin thắng lợi liên tiếp của các anh em tại mặt trận Điện Biên Phủ. Nhân dân Khơ-me luôn theo dõi từng giờ từng phút với lòng tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi cuối cùng của các anh em".

Bức điện khẳng định: “Thắng lợi của các anh em ở mặt trận Điện Biên Phủ chẳng những đã tiêu diệt sinh lực địch mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến chiến trường Khơ-me chúng tôi nữa…”.

Trước tinh thần dũng cảm, hy sinh, phấn đấu của các anh em, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Khơ-me tin chắc rằng quân và dân Việt Nam sẽ giành được nhiều thắng lợi lớn hơn nữa ở mặt trận Điện Biên Phủ./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ-MỐC SON LỊCH SỬ: GIẢI QUYẾT TƯ TƯỞNG, CỦNG CỐ TINH THẦN QUYẾT CHIẾN, QUYẾT THẮNG!

         Chiến thắng Điện Biên Phủ là "cột mốc bằng vàng" trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mang tầm vóc thời đại to lớn. Đó là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự, nghệ thuật chiến tranh cách mạng đúng đắn, của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự quan tâm chăm lo xây dựng, rèn luyện Quân đội về mọi mặt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh!

Trong đó, công tác chính trị tư tưởng, củng cố tinh thần quyết chiến, quyết thắng cho quân và dân ta luôn được đặc biệt quan tâm, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của chiến dịch.

Chuẩn bị bước vào chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho Quân đội và gửi thư động viên cán bộ, chiến sĩ: “Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang... Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới...”. Sau đó, "Lệnh động viên toàn thể cán bộ và chiến sĩ, toàn thể các đơn vị, toàn thể các binh chủng, mở cuộc đại tiến công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng có giá trị tinh thần to lớn. Những lời căn dặn, hiệu triệu này được phổ biến khắp mặt trận, tạo không khí phấn khởi, thi đua lập công trên khắp các trận địa.

Trong quá trình chiến đấu, ở một số cán bộ, chiến sĩ có lúc đã xuất hiện tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực, như ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó, ngại khổ; chủ quan khinh địch, tự mãn với thắng lợi bước đầu. Để khắc phục, Bộ Chính trị ra chỉ thị để các đơn vị kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo đoàn văn công đến biểu diễn ngay tại chiến hào, trong hầm pháo; hát cho bộ đội ở vị trí tiền tiêu nghe qua máy điện thoại. Nhiều bài thơ, văn, bài hát và những thước phim tư liệu quý; 33 số báo của Báo Quân đội nhân dân với nội dung phong phú đã trở thành món ăn tinh thần, cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, phấn khởi, tin tưởng vào thắng lợi của chiến dịch...

Cụ thể, công tác giải quyết tư tưởng, củng cố tinh thần quyết chiến, quyết thắng cho bộ đội trong chiến dịch thể hiện trên các phương diện sau:

Theo kế hoạch ban đầu, phương châm tác chiến của ta là “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, tập trung lực lượng nhanh chóng tiêu diệt địch trong thời gian ngắn, khoảng 2 ngày 3 đêm. Tuy nhiên, trước tình hình mới, ta đã thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Trước tình huống mới, việc chuẩn bị chiến trường phải làm lại từ đầu, đặc biệt là phải kéo pháo ra. Điều đó làm cho không ít cán bộ, chiến sĩ thắc mắc, tư tưởng chưa thông suốt. Chính vì vậy, công tác chính trị, tư tưởng đã tập trung giáo dục cho bộ đội nhận thức đầy đủ về tình hình chiến dịch, tính khách quan, tất yếu của việc thay đổi phương châm tác chiến; lấy kết quả thắng lợi của các chiến dịch trước đây để giáo dục, động viên bộ đội phát huy cao độ ý chí quyết tâm chiến đấu; tập trung làm cho bộ đội nhận rõ mục tiêu, nhiệm vụ, cách đánh, trên cơ sở đó, phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng, xây dựng cho bộ đội ý chí quyết tâm chiến đấu cao và trách nhiệm chính trị đối với chiến dịch.

Với lực lượng mạnh, địch đã bố trí một hệ thống phòng ngự dày đặc gồm 49 cứ điểm với hệ thống hỏa lực nhiều tầng, có chiến hào ngang dọc và khả năng phòng ngự độc lập, có thể ứng cứu, chi viện lẫn nhau. Một số cứ điểm còn có hầm ngầm, hàng rào dây thép gai bao quanh từ 50m đến 200m. Ngoài ra, còn có các bãi mìn dày đặc và hàng rào điện sát mặt đất... Đây là khó khăn, trở ngại to lớn trong chiến đấu. Trước tình hình đó, cấp ủy, chỉ huy, cán bộ các cấp đã chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của bộ đội, kịp thời động viên, truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và cổ vũ cán bộ, chiến sĩ thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ nêu cao tinh thần dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu, chịu đựng gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nhờ đó, công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của đợt 1, tiêu diệt cả 3 trung tâm đề kháng Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. 

Trong đợt 2 chiến dịch, sau các trận đánh ở cứ điểm A1 và 105 không thành công, ngày 4-4-1954, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tạm ngừng tiến công để củng cố lực lượng, giữ vững trận địa và tiếp tục chuẩn bị cho một cuộc tiến công mới. Nhằm khắc phục hiện tượng hữu khuynh tiêu cực, Đảng ủy chiến dịch phát động một đợt sinh hoạt chính trị, đấu tranh với tư tưởng cầu an, dao động, ngại gian khổ, hy sinh; nâng cao niềm tin vào thắng lợi và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận. Cơ quan chính trị xuống từng đơn vị phổ biến kế hoạch tác chiến mới và giáo dục cho bộ đội nhận thức rõ tình hình, củng cố quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nhờ đó, ta đã hoàn thành mục tiêu trong đợt tấn công thứ ba ngoài mong đợi. Đây là một thành công nổi bật về công tác chính trị, tư tưởng của ta trong thời điểm nóng bỏng của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong chiến dịch, đã có nhiều tấm gương xả thân chiến đấu và anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, như: Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng; Hoàng Văn Nô dùng lê đâm liên tiếp, tiêu diệt nhiều tên địch, cho đến khi hy sinh mà vẫn trong tư thế hiên ngang diệt địch; Tô Vĩnh Diện đã không chút do dự hy sinh tính mạng để bảo vệ pháo; Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai... Đó là những chiến sĩ quân báo một mình mưu trí bắt sống nhiều địch, những chiến sĩ lái xe bị thương không rời tay lái... Tại tuyến lửa, nhân dân ta đã sát cánh cùng bộ đội, lăn mình trong khói lửa tải đạn, chuyển thương binh. Tại các bệnh viện, trên đường tải thương, nhân dân chăm sóc, thăm hỏi thương binh như con em ruột thịt, cung cấp cho bộ đội mọi nhu cầu cần thiết để chiến đấu, từ cái kim, sợi chỉ, miếng quà, tấm bánh, gửi hàng nghìn bức thư cổ vũ, thăm hỏi chiến sĩ, gửi đến chiến sĩ cả tấm lòng thương yêu đùm bọc của toàn dân.    

Việc chăm sóc chu đáo và cổ vũ, động viên kịp thời đã giúp thương binh, bệnh binh giữ vững ý chí quyết tâm, có nghị lực vượt qua đau đớn, yên tâm điều trị và luyện tập để sớm bình phục. Trong đó, phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền gắn với tổ chức thực hiện công tác chính sách, hậu phương Quân đội đã tạo nên sự đoàn kết, quyết tâm chiến đấu của quân, dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Những kinh nghiệm trong việc giải quyết tư tưởng, củng cố tinh thần quyết chiến, quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, phức tạp, khó lường. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sự bùng nổ thông tin dưới tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra yêu cầu mới đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là việc định hướng nhận thức, tư tưởng cho bộ đội trước những luồng thông tin nhạy cảm, phức tạp, trái chiều. Nhiều vấn đề mới, yêu cầu ngày càng cao, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Bài học về công tác giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu trong Chiến dịch Điện Biên Phủ từ 70 năm trước cần được nghiên cứu, vận dụng, phát huy hiệu quả trong tình hình mới./.

Môi trường ST.

Quyền Chủ tịch nước: 'Quốc tế đánh giá cao phục hồi kinh tế của Việt Nam'

 

Quyền Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân cho biết Việt Nam là điểm sáng trong phục hồi kinh tế, thu hút đầu tư, được quốc tế đánh giá cao.

Thông điệp được bà Võ Thị Ánh Xuân đưa ra tại Hội nghị tổng kết giao ước thi đua năm 2023 cụm các tỉnh Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung, được tổ chức tại TP Quy Nhơn, ngày 29/3.

Quyền Chủ tịch nước cho hay năm vừa qua Việt Nam gặp nhiều khó khăn do bối cảnh chung thế giới và những vấn đề nội tại của nền kinh tế. Tuy nhiên, đất nước đạt nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện.

Việt Nam hiện là điểm sáng trong phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, được các quốc gia và tổ chức quốc tế, Liên Hiệp Quốc đánh giá cao; đứng thứ 35 về quy mô kinh tế của các nước trên thế giới với quy mô 435 tỷ USD.

Nước ta cũng nằm trong top 20 nước về thu hút đầu tư nước ngoài và top 20 về kim ngạch xuất nhập khẩu trên thế giới. Với độ mở nền kinh tế cao, đạt gần 200% so với quy mô GDP, Việt Nam là nền kinh tế năng động trong ASEAN.

"Với tiềm lực và sự phục hồi phát triển kinh tế, và chính sách đối ngoại khôn khéo, linh hoạt trong bối cảnh chung đầy khó khăn thách thức, Việt Nam giữ được môi trường hòa bình phát triển, là điểm sáng trong thu hút trong đầu tư nước ngoài", bà Xuân nói và cho biết các nhà đầu tư nước ngoài tạo ra không khí, động lực chung không chỉ cho Bình Định mà cho vùng Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên.

Theo quyền Chủ tịch nước, kết quả này có sự đóng góp của đảng bộ và người dân 10 tỉnh Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên; những lợi thế của vùng như về kinh tế biển, logicstic...

"Chúng ta phải thu hút được những nhà đầu tư lớn, xây dựng những dịch vụ mà khi nói về du lịch người ta phải nhớ đến Việt Nam. Chúng ta phải đặt ra mục tiêu, tầm nhìn để đất nước thành điểm đến về du lịch mang tầm cỡ thế giới", quyền Chủ tịch nước chia sẻ.

Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên gồm các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk và Đắk Nông. Tốc độ tăng trưởng bình quân của hai vùng đạt 5,16%, một số tỉnh tăng trưởng tốt như Đắk Lắk, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Tổng thu ngân sách bình quân các tỉnh trong cụm đạt 12.353 tỷ đồng, chiếm 7% tổng thu cả nước.

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỂ CHẾ HÓA CÁC QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TA VỀ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC!

         Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, Luật Phòng không nhân dân là luật hoàn toàn mới để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng ta về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, được thông qua bằng Nghị quyết số 44 tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) năm 2023!

Sáng 1/4, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức phiên họp chuyên đề pháp luật để cho ý kiến về một số nội dung quan trọng trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV tới đây.

Phát biểu khai mạc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, trong 2 ngày làm việc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến đối với 2 nhóm vấn đề.

Thứ nhất là các dự án luật dự kiến trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 để xem xét lần đầu. Trong nhóm này có 4 dự án luật sửa đổi và bổ sung là: Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi); Luật Công chứng (sửa đổi); Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi); Luật Công đoàn (sửa đổi).

Bên cạnh đó, lần đầu tiên Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến hồ sơ dự án Luật Phòng không nhân dân.

“Đây là luật hoàn toàn mới để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng ta về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, được thông qua bằng Nghị quyết 44 năm 2023 tại Hội nghị Trung ương 8”, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.

Theo Chủ tịch Quốc hội, các dự án luật này nhìn chung đều phải trải qua quy trình trình xem xét, thông qua tại 2 kỳ họp.

Tuy nhiên, đối với dự án Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi), Nghị quyết 41 năm 2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 có kết luận: trường hợp dự án luật này được chuẩn bị có chất lượng tốt, quá trình thảo luận tại Quốc hội có sự đồng thuận cao thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét phối hợp với Chính phủ trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7 vào tháng 5/2024 theo quy trình tại 1 kỳ họp.

“Dự án luật này, Thường vụ Quốc hội cũng đề nghị nếu chúng ta chuẩn bị tốt, có sự đồng thuận cao thì có thể thông qua ngay tại Kỳ họp thứ 7”, Chủ tịch Quốc hội cho hay.

Nhóm vấn đề thứ 2, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về vị trí việc làm đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở Trung ương, cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chủ tịch Quốc hội cho biết, bắt đầu từ ngày 1/7/2024 sẽ thực hiện cải cách chính sách tiền lương, và nội hàm cơ bản nhất của cải cách chính sách tiền lương lần này đó là trả lương theo vị trí việc làm, chức vụ, chức danh của cán bộ lãnh đạo. Theo đó, để tiến hành xây dựng được hệ thống thang bảng lương thì việc đầu tiên là phải xây dựng được vị trí việc làm.

Trong phân công của Ban Chỉ đạo cải cách tiền lương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, ban hành nghị quyết này làm căn cứ xây dựng thang bảng lương. Phạm vi là áp dụng cho đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở Trung ương, cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước.

Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, sau phiên họp chuyên đề pháp luật lần này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ họp tiếp để cho ý kiến một số dự án luật, dự thảo nghị quyết khác trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7.

Do đó, đề nghị Tổng Thư ký Quốc hội phối hợp Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tăng cường phối hợp các cơ quan của Chính phủ và các cơ quan trình sớm có tài liệu để tổ chức họp, cho ý kiến.

Sau phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành nội dung thảo luận về dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi)./.

Yêu nước ST.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 01 THÁNG 4 NĂM 1958!

     “Trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận”!

Câu trên được trích trong lưu bút của Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi tại cuộc triển lãm ngành Hậu cần Quân đội ngày 01-04-1958. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy nguồn lực vật chất (tài nguyên thiên nhiên, vốn liếng...) là hữu hạn; còn nguồn lực trí tuệ, khả năng sáng tạo của con người là vô hạn. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch nước, Người đã có bài viết với tiêu đề “Tìm người tài-đức” đăng trên Báo Cứu quốc. Bài viết thể hiện sự quan tâm, trân trọng, ghi nhận, đánh giá cao, sử dụng trí thức trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; thể hiện rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải sớm đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức trong nước và thu hút trí thức Việt kiều ở nước ngoài, tạo điều kiện tối đa cho trí thức phát huy tài năng, kiến thức của mình phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.

Phát huy truyền thống, kế thừa những giá trị nhân văn sâu sắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chương trình quốc gia và đầu tư cơ sở vật chất thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, thể hiện sự quan tâm sâu sắc và đánh giá cao vai trò của trí thức, của khoa học công nghệ, coi đây là nguồn lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức giữ vai trò chủ đạo trong tỷ trọng tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và phát động trong cán bộ, chiến sĩ đơn vị tích cực hưởng ứng, thực hiện có hiệu quả các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tiến quân vào khoa học công nghệ… Hằng năm, toàn quân có hàng nghìn đề tài, công trình, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được đưa vào ứng dụng đạt hiệu quả thiết thực, làm lợi cho Nhà nước, quân đội nhiều tỷ đồng, góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các cơ quan, đơn vị và mọi cán bộ, chiến sĩ phải luôn phát huy tiềm năng trí tuệ, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ, xây dựng đơn vị VMTD, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao./.
Môi trường ST.

NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 70 NĂM CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ: THƯ CỦA BÁC HỒ ĐỘNG VIÊN, KHÍCH LỆ CHIẾN SỸ ĐIỆN BIÊN 70 NĂM TRƯỚC!

     Trong suốt thời gian diễn ra Chiến dịch Điện Biên 70 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, theo dõi sát sao tình hình ngoài chiến trường và cổ vũ, khích lệ tinh thần, động viên kịp thời các chiến sĩ Điện Biên!

Thực hiện kế hoạch Nava từ giữa năm 1953, thực dân Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Đến khi ta nổ súng tiến công, chúng đã có gần bốn tháng để xây dựng và củng cố hệ thống phòng ngự ở Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Các tướng tá của Pháp và Mỹ coi đây là một "tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "một pháo đài bất khả xâm phạm".

Trước tình hình đó, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Quyết tâm của ta là "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh".

Trư­ớc ngày b­ước vào Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác đã tặng cờ "Quyết chiến Quyết thắng" làm giải thưởng luân lưu để khích lệ động viên, thể hiện niềm tin của Người đối với quân dân trên mặt trận Điện Biên Phủ. Bác đã gửi tặng mỗi cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận một chiếc ca rất đẹp có in đậm hai hàng chữ đỏ tươi: "Kiên quyết làm tròn nhiệm vụ".

Để kịp thời động viên, cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho quân ta vượt qua khó khăn và đánh thắng quân địch ở Điện Biên Phủ, ngay từ trận mở đầu, ngày 11/3/1954, trước khi quân ta nổ súng tiến công vào cứ điểm Him Lam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các chiến sĩ Mặt trận Điện Biên Phủ. Trong thư Bác căn dặn: "Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới. Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất. Chúc các chú thắng to. Bác hôn các chú".

Trước tình cảm của Bác, sau 56 ngày đêm "khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt", chiều 7/5/1954 cán bộ chiến sĩ trên mặt trận Điện Biên Phủ với tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí đã đã khắc phục mọi khó khăn và thành công tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngay ngày 8/5/1954, Bác đã có "Thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ": "Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang".

Trước tình cảm của Bác, sau 56 ngày đêm "khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt", chiều 7/5/1954 cán bộ chiến sĩ trên mặt trận Điện Biên Phủ với tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí đã đã khắc phục mọi khó khăn và thành công tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngay ngày 8/5/1954, Bác đã có "Thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ": "Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang".

Sau đó vài ngày, Bác gửi tiếp thư chúc mừng đến toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ.

Để chúc mừng những chiến công hiển hách của các chiến sĩ Điện Biên, trong cuộc gặp đoàn cán bộ chiến sĩ đã lập công xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác nói: "Hôm nay, Bác thay mặt Đảng và Chính phủ trao cho các chiến sĩ lập công xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ Huân chương Chiến công. Riêng Bác còn tặng thêm mỗi cháu một ngôi sao đỏ và một tấm Huy hiệu".

Trong tâm trí các chiến sĩ Điện Biên lúc ấy, họ không bao giờ quên những lời dặn dò của Bác, đặc biệt là bữa cơm thân mật với Bác. Mở đầu bữa cơm, Bác nói vui: "Đây là bữa cơm riêng Bác mời các cháu, chứ không phải Nhà nước mời đâu. Toàn cây nhà lá vườn cả, nhưng các cháu phải ăn no. Các cháu ăn nhiều. Bác sẽ vui, sẽ khỏe". Một bữa cơm đơn giản, không sơn hào hải vị nhưng cũng khiến các chiến sĩ xúc động nhớ mãi không quên. Bởi họ đã cảm nhận được tình yêu thương sâu sắc Bác dành cho mọi người.

Những món quà, bức thư, điện văn thật sự là món quà tinh thần vô cùng quý giá đối với những người chiến sĩ Điện Biên, tiếp thêm sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, quyết chí một lòng, chiến đấu anh dũng, giành chiến thắng lịch sử "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".

Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: "Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công"./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HOÀN THIỆN HÀNH LANG PHÁP LÝ VỀ CÔNG CHỨNG ĐIỆN TỬ!

     Việc bổ sung quy định về công chứng điện tử trong dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong hoạt động công chứng, góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong các giao dịch dân sự, kinh tế; bảo đảm đồng bộ với các quy định mới của Luật Giao dịch điện tử năm 2023!

Sáng 1/4, tại Nhà Quốc hội, tiếp tục chương trình phiên họp chuyên đề pháp luật, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Công chứng (sửa đổi).

Đề xuất công chứng viên được hành nghề đến 70 tuổi
Trình bày Tờ trình về dự án luật, Bộ trưởng Tư pháp Lê Thành Long cho biết, bên cạnh kết quả đã đạt được, thực tiễn triển khai thực hiện Luật Công chứng năm 2014 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như: thiếu các quy định thể hiện rõ mô hình công chứng nước ta là công chứng nội dung; việc xác định phạm vi công chứng chưa thực sự phù hợp.

Chất lượng đội ngũ công chứng viên chưa đồng đều, một bộ phận công chứng viên còn hạn chế về trình độ chuyên môn, tính chuyên nghiệp chưa cao, còn tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức hành nghề.

Việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng tại một số địa phương còn lúng túng, chưa thống nhất về chủ trương, định hướng phát triển. Một số quy định về trình tự, thủ tục công chứng không còn phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn cho cả công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng và người dân, doanh nghiệp.

Bộ trưởng Lê Thành Long nhấn mạnh việc xây dựng Luật Công chứng (sửa đổi) là cần thiết để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Về công chứng viên, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định: người muốn bổ nhiệm công chứng viên phải được đào tạo nghề công chứng (bỏ quy định miễn đào tạo), cụ thể là phải tham gia khóa đào tạo 6 tháng đối với những trường hợp được miễn đào tạo và tham gia khóa bồi dưỡng 3 tháng theo quy định của Luật hiện hành.

Ngoài ra, thời gian tập sự hành nghề công chứng được quy định là 12 tháng, áp dụng cho tất cả các đối tượng để bảo đảm sự thống nhất và để người tập sự đủ thời gian trải nghiệm, vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào thực tiễn.

Dự thảo Luật cũng quy định độ tuổi hành nghề của công chứng viên là đến 70 tuổi. Để bảo đảm tính ổn định của hoạt động công chứng, dự thảo Luật quy định chuyển tiếp đối với công chứng viên trên 70 tuổi đang hành nghề công chứng tại thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục hành nghề công chứng trong thời hạn tối đa là 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Bên cạnh đó, Chính phủ đề xuất giảm thời gian công tác pháp luật để bổ nhiệm công chứng viên từ 5 năm xuống còn 3 năm; hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên giảm từ 7 loại giấy tờ xuống còn 3 loại giấy tờ, gồm: đơn đề nghị bổ nhiệm, giấy tờ chứng minh thời gian công tác pháp luật và giấy chứng nhận sức khỏe.

Bộ trưởng Lê Thành Long giải thích quy định này nhằm thực hiện chủ trương, yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh.

Bổ sung 4 điều mới quy định về công chứng điện tử
Liên quan đến công chứng điện tử, dự thảo Luật đã bổ sung 4 điều mới để quy định về nội dung này. Đó là, việc công chứng được thực hiện bằng phương tiện điện tử để tạo lập văn bản công chứng điện tử; việc công chứng điện tử phải bảo đảm các nguyên tắc cụ thể; việc cung cấp dịch vụ công chứng điện tử chỉ được thực hiện khi đáp ứng các điều kiện cụ thể. Đồng thời, quy định về khái niệm, thời điểm có hiệu lực, giá trị của văn bản công chứng điện tử và việc chuyển đổi hình thức giữa văn bản công chứng điện tử và văn bản công chứng giấy.

Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Ngô Trung Thành nêu rõ, Thường trực Ủy ban tán thành việc bổ sung quy định về công chứng điện tử trong dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong hoạt động công chứng, góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong các giao dịch dân sự, kinh tế; bảo đảm đồng bộ với các quy định mới của Luật Giao dịch điện tử năm 2023.

Thường trực Ủy ban Pháp luật cho rằng, công chứng điện tử là sự thay đổi về phương thức thực hiện công chứng chứ không được làm thay đổi bản chất và đặc điểm của mô hình công chứng nước ta là công chứng nội dung, hoạt động công chứng phải bảo đảm chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.

Về phạm vi công chứng điện tử, ông Thành cho biết trong quá trình thẩm tra có 2 loại ý kiến.

Loại ý kiến thứ nhất tán thành với dự thảo Luật không giới hạn phạm vi công chứng điện tử mà giao Chính phủ quy định lộ trình cụ thể. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách này, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo lưu ý một số vấn đề: xác định rõ khái niệm, nội hàm của công chứng điện tử để thống nhất cách hiểu và áp dụng pháp luật; nêu giải pháp khắc phục được các hạn chế mà công nghệ chưa thể thực hiện thay con người để có cơ sở thực hiện theo lộ trình; bổ sung quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục, hồ sơ công chứng điện tử để bảo đảm kiểm soát việc thực thi lộ trình công chứng điện tử do Chính phủ quy định vẫn phải đáp ứng các yêu cầu của công chứng nội dung, bảo đảm tính xác thực, hợp pháp của các giao dịch được công chứng, tương xứng với giá trị pháp lý của văn bản công chứng là có giá trị chứng cứ.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, trong điều kiện hiện nay, công nghệ chưa thể bảo đảm thay thế hoàn toàn vai trò của con người trong việc thực hiện các yếu tố bảo đảm tính xác thực về ý chí, bảo đảm giấy tờ và chứng cứ được đối soát chính xác, đầy đủ, bảo đảm nội dung của giao dịch là hợp pháp nên việc thực hiện công chứng điện tử cần tiến hành thận trọng, có bước đi hợp lý. Trước mắt trong Luật chỉ nên quy định ở phạm vi hẹp với một số giao dịch đơn giản, không nên áp dụng đối với các giao dịch về bất động sản, thừa kế...

Bên cạnh đó, có ý kiến trong Thường trực Ủy ban Pháp luật đề nghị trước mắt chỉ nên thí điểm công chứng điện tử, trên cơ sở đó tiến hành tổng kết thực tiễn làm cơ sở luật hóa nội dung này. Ý kiến khác đề nghị giao Chính phủ căn cứ điều kiện kinh tế-xã hội xác định lộ trình mở rộng phạm vi giao dịch được công chứng điện tử, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Ông Thành cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Pháp luật tán thành với loại ý kiến thứ nhất./.

Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TƯ TƯỞNG CỦA PH. ĂNG-GHEN SOI SÁNG CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM!

         Ph.Ăng-ghen (1820-1895) là một nhà khoa học, triết học và một nhà lý luận chính trị người Đức. Với trí tuệ uyên bác, tinh thần khoa học cần mẫn và phẩm chất nhân văn cao đẹp, luôn mong muốn đem đến những điều tốt đẹp cho nhân loại, Ph.Ăng-ghen đã luôn sát cánh cùng C.Mác nghiên cứu, chỉ ra quy luật tất yếu khách quan của quá trình vận động, biến đổi, phát triển xã hội loài người, từ đó khẳng định tiến trình phát triển của nhân loại sẽ đi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, tiến bộ, văn minh, ấm no, hạnh phúc!

Đặc biệt, Ph.Ăng-ghen đã có những luận giải sâu sắc về bản chất ưu việt, dân chủ, tiến bộ của nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng có giá trị thời đại ấy của Ph.Ăng-ghen đã, đang và sẽ mãi soi đường, chỉ lối cho Việt Nam trên con đường xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.

Không chỉ có những tác phẩm viết chung cùng C.Mác, Ph.Ăng-ghen còn có rất nhiều tác phẩm riêng nghiên cứu sâu về vấn đề nhà nước (“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “Bàn về quyền uy”,…) và là người có công lớn trong việc hoàn thiện lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác. Những tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về nhà nước, đặc biệt là về bản chất của nhà nước, bản chất ưu việt của nhà nước vô sản đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Ph.Ăng-ghen khẳng định nhà nước xuất hiện và tồn tại trong giai đoạn xã hội có sự phân chia thành giai cấp. Nguồn gốc trực tiếp nảy sinh nhà nước là do những giai cấp có quyền lợi kinh tế đối lập, mâu thuẫn, xung đột với nhau ở mức không thể điều hòa được, “nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp…, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”,“nhà nước là một tổ chức của giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai cấp không có của”.

Ph.Ăng-ghen cũng chỉ rõ, dù trong bất kỳ chế độ xã hội nào, nhà nước luôn luôn “vẫn chỉ là nhà nước của giai cấp thống trị, và trong mọi trường hợp, về thực chất, vẫn là bộ máy dùng để đàn áp giai cấp bị áp bức, bị bóc lột”. Ngay cả đối với nhà nước tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa, dù luôn được các học giả tư sản tuyên bố rằng đó là chính quyền của nhân dân, là một chế độ dân chủ, song thực chất “nhà nước đại nghị hiện đại là công cụ của tư bản dùng để bóc lột lao động làm thuê”, “giai cấp tư sản đã đem sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn” đối với người lao động. Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh:

“Người ta tưởng tượng là đã tiến được một bước táo bạo phi thường, nếu họ tự giải thoát khỏi lòng tôn sùng chế độ quân chủ thế tập và trở thành những người theo chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng thực ra, nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”.

Khi bàn về nhà nước vô sản, Ph.Ăng-ghen đồng tình với quan điểm của C.Mác về tính tất yếu của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.

Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”, và “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”.

Đặc biệt, Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra bản chất ưu việt khác biệt của nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa so với các nhà nước đã có trong lịch sử. Nhà nước vô sản là nhà nước dân chủ, là chính quyền của số đông người dân lao động, là một chế độ dân chủ thật sự. Ph.Ăng-ghen viết: “Dân chủ ngày nay là chủ nghĩa cộng sản. Bất cứ thứ dân chủ nào khác đều chỉ có thể tồn tại trong đầu óc của những nhà lý luận uyên bác không cần biết gì đến những sự kiện thực tế”.

Tính dân chủ, mục tiêu dân chủ của nhà nước vô sản đã được thể hiện ngay từ khi giai cấp vô sản tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản: “trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Chính cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đã “tạo ra một chế độ dân chủ”, một chính quyền dân chủ, một nhà nước dân chủ. Và, “thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.

Chính từ những luận giải khoa học ấy của Ph.Ăng-ghen cùng với Mác và sau này là V.I.Lênin về vấn đề nhà nước, nhất là lý luận về bản chất ưu việt của nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thấy được chân lý, tìm ra con đường đúng đắn lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, giành được độc lập tự do cho dân tộc, đồng thời lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, tổ chức xây dựng nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đạt những thành tựu phát triển to lớn, đem lại cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh cho đông đảo tầng lớp nhân dân Việt Nam.

Trên cơ sở những phân tích của Ph.Ăng-ghen về bản chất dân chủ ưu việt của nhà nước vô sản, nhiều năm qua Việt Nam luôn nhất quán kiên định và nỗ lực xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng ngay từ đầu đã luôn xác định, đó phải là chế độ xã hội tốt đẹp dân chủ, tiến bộ, văn minh thật sự:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Bao năm qua, nhờ luôn kiên định theo những chỉ dạy của Ph.Ăng-ghen, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày càng được hoàn thiện và chứng minh trong thực tế là nhà nước của nhân dân, là chính quyền của nhân dân. Nhà nước Việt Nam ngay từ đầu đã luôn nỗ lực để trở thành một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự, phấn đấu không ngừng để thực hiện những mục tiêu tốt đẹp vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân.

Mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước đều “xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”; “Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, “thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”. Nhà nước luôn đồng hành cùng mọi tầng lớp nhân dân nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu cao đẹp của cả dân tộc, “phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn”.

Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú trọng công tác đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm để kịp thời có sự điều chỉnh, đổi mới trong cách thức tổ chức và phương thức hoạt động, đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường hiệu quả phân công, phối hợp thực thi nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước,… để ngày càng hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân chủ, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Mặc dù thực lực nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, song với quyết tâm xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa ưu việt, dân chủ thật sự trong thực tế theo tư tưởng của Ph.Ăng-ghen, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn cố gắng thực hiện tốt nhất vai trò của mình, điều hành, chỉ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường thực hiện an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, luôn chú trọng chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, bảo đảm công bằng, dân chủ xã hội,... kể cả trong những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng của nền kinh tế hay trong những bối cảnh đại dịch, thiên tai,... trên tinh thần không để người dân phải chịu khổ, chịu đói... hay bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển của đất nước.

Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được đến nay, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN, chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm nước cao của thế giới.

“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng sống động cho những nỗ lực và bản chất dân chủ ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc điều hành, chỉ đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trên tinh thần luôn kiên định theo chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, Ph.Ăng-ghen nói riêng đã chỉ dạy, với mục tiêu duy nhất là đem lại cuộc sống ngày càng ấm no, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, tiến bộ, văn minh cho mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam./.
Yêu nước ST.