Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI PHẬT GIÁO GÓP PHẦN NÂNG CAO HÌNH ẢNH, VỊ THẾ CỦA VIỆT NAM TRÊN THẾ GIỚI

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước của Đảng đã mở ra thời cơ và cơ hội lớn để tập hợp, khơi dậy mạnh mẽ mọi nguồn lực, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo tạo nên sức mạnh toàn dân tộc. Trong đó, Phật giáo là một trong những nguồn lực của tôn giáo góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu được thể hiện trong các hoạt động đối ngoại quốc tế rất đa dạng, phong phú của Phật giáo.

Phật giáo tích cực, chủ động hội nhập quốc tế

Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tổ chức tôn giáo rất tích cực, năng động, chủ động trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Quan hệ Phật giáo quốc tế và hoạt động đối ngoại giao lưu, hợp tác quốc tế là một trong những thành tựu Phật sự nổi bật nhất trong chặng đường phát triển, đồng hành cùng dân tộc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Giáo hội đã không ngừng tăng cường mở rộng hoạt động đối ngoại, quan hệ quốc tế với các tổ chức Phật giáo các nước trên thế giới và các tổ chức tôn giáo theo phương châm đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân, mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các tổ chức tôn giáo tại tất cả các nước.

Trong năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức nhiều đoàn chức sắc tôn giáo ra nước ngoài tham dự hội nghị, hội thảo, mở rộng quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn giáo quốc tế, tham gia các hoạt động ngoại giao đa phương, các diễn đàn khu vực và quốc tế, như: Đối thoại tôn giáo và văn hóa ASEAN (IIDC), Đối thoại Liên tôn Á - Âu (ASEM), Đối thoại Liên tôn khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APIN), các đối thoại, hội nghị, hội thảo, hoạt động tôn giáo và văn hóa vì hòa bình của Liên hiệp quốc…; các chuyến giao lưu, hợp tác với các tổ chức tôn giáo quốc tế cũng như đón tiếp các phái đoàn, tổ chức quốc tế và tổ chức tôn giáo các nước đến thăm Việt Nam đã góp phần thiết thực vào sự nghiệp đối ngoại nhân dân, ngoại giao văn hóa, góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên thế giới.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam là thành viên sáng lập và thành viên tích cực của Hội Liên hữu Phật giáo thế giới (WFB), Diễn đàn Phật giáo châu Á vì hòa bình (ABCP), Ủy ban tổ chức quốc tế Vesak Liên hiệp quốc (ICDV), Liên minh Phật giáo thế giới (IBC), Hội Sakyadhita thế giới… Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đã có mối quan hệ hữu nghị truyền thống với Liên minh Phật giáo Lào, Giáo hội Tăng già Phật giáo Vương quốc Căm-pu-chia, Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc. Có mối quan hệ hữu nghị mật thiết với các tổ chức Giáo hội Tăng già Phật giáo Vương quốc Thái Lan, Mi-an-ma, Xin-ga-po, Ma-lai-xia, In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin... Với Phật giáo các nước Đông Á, như: Phật giáo Mông Cổ, Nhật Bản, Hàn Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan, Triều Tiên... Với các nước Nam Á, như: Các tổ chức Giáo hội Tăng già Phật giáo Xri Lan-ca, Ấn Độ, Nê-pan và với các giáo hội, các tổ chức Phật giáo Nga và cộng đồng Phật giáo ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Phi…

Giáo hội đã tổ chức thành công ba kỳ Đại lễ Vesak Liên hiệp quốc tại Việt Nam vào các năm 2008, năm 2014, gần đây nhất là vào năm 2019 tại chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam có sự tham dự của 5.000 đại biểu đến từ 112 quốc gia, vùng lãnh thổ với chủ đề: “Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”. Đại lễ có sự tham dự của nhiều nguyên thủ quốc gia như Tổng thống Mi-an-ma, Phó Tổng thống kiêm Chủ tịch Thượng viện Ấn Độ, Thủ tướng Nê-pan, Chủ tịch Thượng viện Bu-tan, Phó Tổng Thư ký Liên hiệp quốc và nhiều quan chức của Liên hiệp quốc. Qua các kỳ Vesak rất thành công, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã khẳng định vai trò, vị thế trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam cũng như sự chủ động, năng lực hội nhập quốc tế của Giáo hội. Những hoạt động này còn góp phần giúp bạn bè thế giới hiểu hơn về đời sống tự do tôn giáo ở Việt Nam, giới thiệu với bạn bè thế giới về truyền thống văn hóa, hình ảnh tốt đẹp của đất nước và con người Việt Nam. Đây là thành tựu nổi bật góp phần nâng cao vai trò của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, khẳng định vị thế, trách nhiệm của Việt Nam tham gia cùng Liên hiệp quốc và thế giới trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.

Ngoài ra, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đón tiếp hàng trăm phái đoàn Phật giáo các nước đến thăm hữu nghị và giao lưu với Giáo hội, với các ban, viện của Trung ương Giáo hội, Ban Trị sự các địa phương, với Học viện Phật giáo Việt Nam, các cơ sở đào tạo và các chùa, cơ sở tự viện. Đồng thời, Giáo hội cũng đón tiếp nhiều vị nguyên thủ, lãnh đạo các nước đến thăm Giáo hội và các chùa khi đến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam như đón tiếp Thủ tướng Ấn Độ (năm 2016), Tổng thống Mỹ (năm 2018), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (năm 2019), Tổng thống Mi-an-ma, Phó Tổng thống kiêm Chủ tịch Thượng viện Ấn Độ, Thủ tướng Nê-pan, Chủ tịch Thượng viện Bu-tan (năm 2019), Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ (năm 2022), Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Căm-pu-chia (năm 2023).

Đặc biệt, năm 2022 Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Phật giáo Quốc tế, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đại diện cho Giáo hội tham dự Đại hội lãnh đạo các tôn giáo thế giới lần thứ VII tổ chức tại Thủ đô A-xta-na, Cộng hòa Ca-dắc-xtan với sự tham dự của Đức Giáo hoàng Francis cùng nhiều lãnh đạo các tôn giáo của 108 phái đoàn từ hơn 60 quốc gia, vùng lãnh thổ tham dự. Tại Đại hội, Thượng tọa Thích Đức Thiện đã truyền đi thông điệp về vai trò của lãnh đạo các tôn giáo và truyền thống trong việc chung tay giải quyết các vấn đề của nhân loại hiện nay. Kêu gọi tăng cường sự đoàn kết và hợp tác giữa các tôn giáo, thúc đẩy lòng bao dung, từ bi và tình thương để chăm lo cho nhân loại sau đại dịch COVID-19. Tăng cường sự đối thoại và hiểu biết lẫn nhau để tìm ra giải pháp chấm dứt bạo lực, xung đột, chiến tranh, khủng bố, nghèo đói và chung tay chống biến đổi khí hậu, dịch bệnh. Khẳng định Việt Nam là đất nước luôn luôn yêu chuộng hòa bình. Đoàn kết luôn là sức mạnh của Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử, các tôn giáo ở Việt Nam luôn chung sống hòa bình. Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong tất cả các hoạt động của mình đã luôn phát huy tinh thần hòa hợp với các truyền thống và tôn giáo khác tạo nên sức mạnh, vượt qua mọi khó khăn, luôn là người bạn tốt của tất cả các tổ chức tôn giáo tại các nước trên thế giới.

Nâng cao vai trò của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong cộng đồng quốc tế

Những năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã cử và tổ chức hàng trăm đoàn của Giáo hội, các ban, viện, Ban Trị sự các địa phương, Học viện Phật giáo Việt Nam, các cơ sở đào tạo và các chùa, cơ sở tự viện đi thăm viếng Phật giáo các nước để tăng cường tình hữu nghị và làm sâu sắc mối quan hệ quốc tế. Tham dự các hội thảo Phật giáo quốc tế, chia sẻ, trao đổi, giao lưu về mặt học thuật và học hỏi kinh nghiệm tu tập, hoằng pháp và phục vụ nhân sinh.

Đặc biệt, năm 2023 là năm có nhiều dấu ấn nổi bật về hoạt động quan hệ quốc tế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngay sau thành công của Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX, Đức đệ tứ Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng đã có chuyến thăm chính thức Ấn Độ và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới do Liên đoàn Phật giáo thế giới (IBC) tổ chức tại Thủ đô Niu Đê-li; Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi đã tiếp và dâng y tới Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng Trị sự tham dự Thượng đỉnh Phật giáo thế giới tại Nhật Bản. Nhiều đoàn Chư tôn, đức lãnh đạo Giáo hội thăm hữu nghị và tham dự hội thảo tại Lào, Căm-pu-chia, Trung Quốc, Sri Lan-ca, Nê-pan, Hàn Quốc, Đức, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Hung-ga-ri, Pháp…

Từ ngày 13 đến ngày 15-6-2023 tại TP. Marrakech, Ma-rốc, Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Phật giáo quốc tế, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tham gia Đoàn Quốc hội Việt Nam tham dự Hội nghị nghị viện về đối thoại tôn giáo do Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) phối hợp với Nghị viện Vương quốc Ma-rốc đặt dưới sự bảo trợ của Nhà vua Ma-rốc Mohamed VI tổ chức. Hội nghị diễn ra trọng thể dưới sự chủ trì của Chủ tịch IPU Duarte Pacheco, Tổng Thư ký IPU Martin Chungong và Chủ tịch Hạ viện Ma-rốc Rachid Talbi El Alami, Chủ tịch Thượng viện Ma-rốc Naam Mayara, và sự tham dự của hơn 700 đại biểu, trong đó có 60 chủ tịch, phó chủ tịch nghị viện các nước cùng các nghị sĩ, lãnh đạo các tổ chức quốc tế, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng và các học giả, chuyên gia, nhà nghiên cứu trên thế giới.

Từ ngày 10 đến ngày 22-10-2023, đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã tham gia Đoàn liên ngành và các chức sắc tôn giáo Việt Nam sang thăm, làm việc tại Hoa Kỳ, trao đổi về thành tựu và chính sách tôn giáo tại Việt Nam. Chuyến đi đã có các buổi tiếp xúc, làm việc, trao đổi, đối thoại với các tổ chức tôn giáo của Hoa Kỳ và các cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), Đại sứ lưu động về tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, Hạ nghị sĩ thuộc Quốc hội Hoa Kỳ… Các cuộc tiếp xúc, làm việc, trao đổi đó đã góp phần khẳng định với Hoa Kỳ về thành tựu đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; chia sẻ quan điểm và đưa ra các bằng chứng phản bác lại các vấn đề thiếu khách quan, chưa được kiểm chứng, các quan điểm thù địch trong các báo cáo, nhận định không đúng về tình hình sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Đoàn đã đề nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam ra khỏi danh sách quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (SWL) mà họ đưa vào năm 2022.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng có nhiều hoạt động từ thiện quốc tế cứu trợ các nước bị thiệt hại, ảnh hưởng nặng nề do thiên tai, động đất, sóng thần như Nhật Bản, Trung Quốc, Mi-an-ma, Nê-pan, In-đô-nê-xi-a, Ăng-gô-la, Mô-dăm-bích... Trước thảm họa đại dịch COVID-19, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã ủng hộ Chính phủ và nhân dân Lào, Căm-pu-chia, Ấn Độ, Nê-pan tiền và vật tư y tế, giúp đỡ trong phòng, chống dịch COVID-19 trị giá hơn 20 tỷ đồng, gồm: Tiền mặt, 200 máy thở, 50 máy tạo ô-xy, 2.000 bộ kits test COVID-19. Mới đây, năm 2023, trong chuyến thăm và làm việc với các tổ chức Phật giáo Xri Lan-ca, thăm và tiếp xúc với Thủ tướng Xri Lan-ca, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã ủng hộ thuốc, vật tư y tế với tổng trị giá gần 2 tỷ đồng. Những hoạt động đối ngoại nhân dân này đã được Bộ Ngoại giao, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam tại các nước đánh giá cao, góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.

Đồng hành cùng với sự đổi mới của đất nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã làm tốt công tác chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Giáo hội đã thành lập Hội Phật tử Việt Nam ở các nước, như: Lào, Căm-pu-chia, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Cộng hòa Séc, Ba Lan, U-crai-na, Hung-ga-ri, Đức, Nga, Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la, Hoa Kỳ. Đồng thời, Giáo hội đã thiết lập tổ chức giữ mối liên hệ thường xuyên để hướng dẫn tăng ni, phật tử Việt Nam ở 35 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Các Hội Phật tử, Trung tâm văn hóa Phật giáo là nơi đoàn kết, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, nơi giao lưu, chia sẻ, hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau của cộng đồng, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

Có thể khẳng định, công tác chăm lo cho người Việt Nam ở nước ngoài của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong nhiều năm qua đã thực sự thiết thực, đáp ứng được nguyện vọng thiết tha của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc, lòng yêu quê hương, đất nước, sự vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta trong mọi hoàn cảnh lịch sử, luôn luôn coi bà con Việt kiều là phần máu thịt không thể thiếu của dân tộc Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ tiếp tục ủng hộ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài xây dựng các Trung tâm văn hóa Việt Nam, chùa Việt Nam tại các nước có cộng đồng người Việt Nam sinh sống, lao động, học tập; hỗ trợ Hội Phật tử Việt Nam ở các nước mở các lớp dạy tiếng Việt cho con em.

Thời gian tới, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động quan hệ quốc tế, tăng cường và làm sâu sắc mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với cộng đồng Phật giáo thế giới, với Phật giáo các nước châu Á, cộng đồng tôn giáo các nước ASEAN. Chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động đối ngoại đa phương, các tổ chức tôn giáo quốc tế, góp phần tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu vì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, tích cực tham gia vào các hội hữu nghị của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam nhằm tăng cường giao lưu nhân dân, giao lưu văn hóa, giao lưu tôn giáo. Năm 2025, Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức Đại lễ Vesak Liên hiệp quốc tại TP. Hồ Chí Minh, tiếp tục khẳng định giá trị, ý nghĩa của các hoạt động đối ngoại của Phật giáo, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

(Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng) 

TIẾP TỤC PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

 

Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, cần thực hiện hiệu quả một số nhiệm vụ sau:

Một là, thường xuyên quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Bên cạnh lợi ích chung nhất của quốc gia - dân tộc, thì có lợi ích chung của từng giai cấp, tầng lớp, từng cộng đồng, từng giới, từng dân tộc và ở từng địa bàn cụ thể có những lợi ích riêng nhất định. Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng. Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, doanh nhân, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tín đồ các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đề cao sự ổn định, thống nhất, đồng thuận của mỗi giai tầng, giới, dân tộc… qua việc thực hiện lợi ích của chính họ, trên cơ sở bảo đảm hài hòa giữa lợi ích chung và riêng sẽ là cơ sở để đoàn kết thực hiện lợi ích chung nhất - lợi ích quốc gia - dân tộc.

Hai là, cần chủ động nắm bắt tình hình và đề ra những chủ trương, biện pháp sát thực nhằm xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng những vấn đề nổi lên về dân tộc, tôn giáo, những bất cập trong chính sách phát triển kinh tế, xã hội, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, cần tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về công tác dân tộc ở các cấp. Có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần có cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ kiều bào ổn định cuộc sống ở nước định cư, phát triển kinh tế; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước.

Ba là, tạo mọi điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ. Trước hết, đó là tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, thực hiện hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác nhau; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục phát huy vai trò là nòng cốt trong tổ chức vận động, tập hợp, quy tụ các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội; có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, triển khai sâu rộng và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động; sâu sát với cơ sở; đa dạng hóa các hình thức vận động nhân dân, lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân làm trọng tâm, góp phần giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình phát triển. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Bốn là, đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Chỉ khi làm tốt công tác xây dựng Đảng, Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” thì nhân dân mới thật sự tin tưởng, đoàn kết chung quanh Đảng, ủng hộ, phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp chung dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để phát huy vai trò là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc, thì bản thân Đảng phải là tấm gương về đoàn kết, thống nhất. “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế”./.

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)

TIẾP TỤC PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG, SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH MỚI

 

“Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc,… là đường lối chiến lược có ‎ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”(1). Kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đổi mới, phát triển tư duy lý luận về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giúp nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của vấn đề đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng cách mạng, bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Sự phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới

Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân, nhất là nhấn mạnh, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng ta khẳng định, bài học cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bao giờ cũng quan trọng. Thực tiễn cách mạng chứng minh, ở đâu nhân dân lao động có ý thức làm chủ thật sự thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng. Vì vậy, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh của toàn đảng, toàn dân và toàn quân”(2). Đại đoàn kết toàn dân được thực hiện trên nền tảng liên minh giai cấp làm nòng cốt: “Cần có quan điểm đúng đắn và thống nhất, kèm theo những chính sách, biện pháp có hiệu quả xây dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị - xã hội của xã hội mới ngày càng vững chắc”(3). Để làm tốt chủ trương đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta có kế hoạch tăng cường công tác về dân tộc, bổ sung, cụ thể hóa và thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc. Đẩy mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào ở vùng cao, biên giới, đưa đồng bào miền xuôi lên miền núi để thực hiện phân bố lại lao động, hình thành cơ cấu xã hội mới của các vùng dân tộc.

Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tác động mạnh mẽ đến tình hình đất nước ta, khiến một bộ phận người dân hoang mang, dao động, tư tưởng xã hội có phần bị phân rã; các thế lực thù địch ra sức chống phá cách mạng nước ta, gây mất ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Trong bối cảnh đó, tại Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nêu khái niệm mới về khối liên minh công - nông - trí thức và khẳng định lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội cũng khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quan hệ giữa Đảng với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”(4).

Cụ thể hóa quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tại Đại hội VII, Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 17-11-1993, của Bộ Chính trị khóa VII, “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”, khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Đại đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung là: tán thành công cuộc đổi mới, giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hướng về tương lai, xây dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, tất cả vì độc lập của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Quan điểm về đại đoàn kết dân tộc phải được thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp xã hội, gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mọi người với nghĩa vụ công dân, lấy lợi ích dân tộc làm trọng;… phát huy truyền thống nhân nghĩa của cha ông.

Đại hội VIII chủ trương: “Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau”(5). Với quan niệm này, có thể thấy, một trong những điểm mới về đại đoàn kết dân tộc là Đảng ta xác định, người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Tại Đại hội IX, điểm mới về đại đoàn kết dân tộc là Đảng ta xác định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”(6). Khối đại đoàn kết dân tộc có nền tảng là liên minh giữa giai cấp công dân, nông dân và đội ngũ trí thức. Cơ sở sâu xa của đại đoàn kết dân tộc xuất phát từ lợi ích chung của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội.

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị Trung ương 7 khóa IX ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trong đó, đánh giá tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nêu các ưu điểm và đưa ra nhận định: Khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới. Nghị quyết chỉ ra các nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xác định mục tiêu: Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng sử dụng cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân”, “Đại đoàn kết dân tộc” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết... Đây là một bước phát triển mới về tư duy đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng.

Đại hội X đã nhấn mạnh nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề của Đại hội; coi đó là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đại hội nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc cần lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc”(7). Điểm mới về đại đoàn kết toàn dân tộc ở Đại hội này là gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.

Tiếp tục đường lối được xác định trong các đại hội trước, Đại hội XI khẳng định: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn tọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8). Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình. Sự kết hợp hài hòa các lợi ích là động lực cơ bản, là nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp và cả xã hội.

Tại Đại hội XII, tư duy mới của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; bởi vậy, nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân mà chúng ta đang tập trung xây dựng hiện nay là nền quốc phòng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mang tính toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng vững chắc. Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết phải chú ý tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần; tiềm lực quân sự, tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ, tiềm lực quốc phòng, an ninh; gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân..., đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới”(9).

Tại Đại hội XIII, trước tình hình mới, Đảng ta khẳng định, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc không chỉ gắn với thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà còn phải kết hợp với sức mạnh của thời đại, của hòa bình, hợp tác và phát triển, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế với xu thế của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với phát huy ý chí toàn dân tộc cũng nằm trong mục tiêu, định hướng khát vọng phát triển đất nước, với mục tiêu cụ thể là đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã cụ thể hóa hơn nữa chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của Đại hội XIII và tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, từ đó ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Nghị quyết số 43-NQ/TW xác định, nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.

Như vậy, từ chỗ chỉ nói đoàn kết, rồi nói đại đoàn kết toàn dân, rồi phát triển lên thành đại đoàn kết toàn dân tộc là những cột mốc đánh dấu sự đổi mới và phát triển quan trọng về tư duy nhận thức đối với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta, theo chiều hướng ngày càng mở rộng về biên độ, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ còn những xơ cứng đến ngày càng cởi mở hơn. Sự phát triển nhận thức về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:

Một là, qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn khẳng định, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta. Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được khẳng định như một thành tố quan trọng, nguồn sức mạnh to lớn, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, đại đoàn kết toàn dân tộc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Bốn là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ có thể được giải quyết thực sự trên cơ sở nguyên tắc kết hợp hài hòa lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, cá nhân, nhóm xã hội…

Năm là, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, Đảng ta đặt vấn đề phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận trong xã hội hiện nay là sự nhất trí trên những điểm tương đồng. Về chính trị, điểm tương đồng là mục tiêu chung: giữ vững độc lập thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Về kinh tế, là sự phát triển hài hòa các lợi ích (cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội) vì sự phát triển chung của đất nước. Về tinh thần, là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về văn hóa, là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn hóa, đạo đức mang tính nhân bản; giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc...

LUẬN CỨ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

Việc các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm mọi cách xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ trên cơ sở các luận điệu phi lý, thiếu căn cứ hòng phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều không thể chấp nhận, thể hiện thông qua các vấn đề sau:

Một là, dân chủ là xu hướng phát triển tiến bộ của lịch sử loài người, nhưng nó không được quyết định bởi chế độ một đảng hay nhiều đảng mà tùy thuộc vào việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của giai cấp nào và hướng đến mục tiêu gì.

Quan điểm một đảng thì mất dân chủ, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ mang tính phiến diện. Thực tiễn cho thấy, đất nước có dân chủ không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đó có bảo vệ quyền và lợi ích cho đa số nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận thiểu số người trong xã hội đó. Nếu một đảng chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của đảng mình, giai cấp mình thì hoạt động của đảng đó sẽ mang tính cục bộ và khó có thể được các giai tầng khác chấp thuận để trở thành lực lượng lãnh đạo cho toàn xã hội. Ngược lại, nếu một đảng vừa đại diện cho lợi ích của đảng mình, giai cấp mình, vừa đại diện cho lợi ích của toàn xã hội thì chắc chắn đảng đó sẽ được nhân dân tin tưởng, ủy thác làm lãnh đạo xã hội. Điều đó là minh chứng xác thực để khẳng định rằng không phải đa đảng là dân chủ và một đảng là mất dân chủ.

Vấn đề một đảng hay nhiều đảng chính trị một mặt phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mặt khác phụ thuộc tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, có nhiều đảng chính trị, nhưng chỉ có những đảng của giai cấp tư sản là cầm quyền. Những đảng đó có thể khác nhau về hình thức tổ chức, phương thức hoạt động và những mục tiêu cụ thể, nhưng về bản chất đều đại diện cho các nhóm khác nhau trong giai cấp tư sản và đều có mục tiêu duy trì, phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền vừa là sự lựa chọn của lịch sử, vừa là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cho quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy, luận điệu cho rằng việc Việt Nam duy trì chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo là mất dân chủ là cố tình lờ đi hoặc không hiểu bản chất chính trị của đảng hoặc cố tình quy chụp một cách thiếu thiện chí cho Việt Nam.

Thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, trình độ dân chủ không tỷ lệ thuận với số lượng đảng phái chính trị. “Điển hình như ở Mỹ hiện nay có khoảng 40 đảng, Hà Lan có 25 đảng, Na Uy có 23 đảng... nhưng chúng ta không thể kết luận rằng ở Mỹ dân chủ hơn ở Hà Lan hay Na Uy”(1). Trên thế giới hiện nay có hơn 30 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng. Điều đó cho thấy chế độ chính trị do một đảng cầm quyền không phải là điều chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản lãnh đạo và không phải các nước theo chế độ một đảng không bảo đảm dân chủ. Vì thế, Việt Nam lựa chọn chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền cũng không phải là cá biệt, đi ngược lại xu thế chung của nhân loại như các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn rêu rao và cáo buộc!

Hai là, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, hoàn thiện. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt mục tiêu mang lại độc lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, giúp nhân dân có quyền làm chủ thực sự. Do đó, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao mục tiêu xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân với phương châm “Bao nhiêu lợi ích đều vì nhân dân”.

Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nền dân chủ thực sự, được thực hiện trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…, thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ gắn liền với kỷ cương, kỷ luật và được thể chế hóa bằng pháp luật, bảo đảm bằng pháp luật.

Quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện đậm nét trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống, ở mỗi cấp, trên tất cả lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(2). Như vậy, không thể tùy tiện quy chụp rằng Việt Nam không chú trọng đến dân chủ hoặc mất dân chủ bởi điều đó phản ánh không đúng bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(3).

Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, Đại hội XIII của Đảng đã tiến hành điều chỉnh, bổ sung một số điểm mới về tư duy xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân được thực thi trên thực tế. Đồng thời, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng trên cơ sở tổng kết lý luận, thực tiễn đã bổ sung, phát triển tư duy về phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những bổ sung, phát triển ấy một lần nữa khẳng định, mặc dù, trong mỗi giai đoạn lịch sử có những thay đổi về mô hình bộ máy nhà nước, nhưng sợi chỉ đỏ xuyên suốt chính là nhận thức và hành động nhất quán về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong điều kiện mới.

Ba là, mô hình “tam quyền phân lập” có thể phù hợp ở các mức độ khác nhau với một số nước trên thế giới, nhưng không phù hợp với điều kiện và thể chế chính trị của Việt Nam. Việt Nam lựa chọn cách thức tổ chức quyền lực là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, không “tam quyền phân lập” mà kiên định nguyên tắc “quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(4) và “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”(5). Đây là sự lựa chọn phù hợp với bối cảnh Việt Nam cũng như xu thế khách quan của thời đại, đúc rút từ thực tiễn hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới cũng như việc học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong tiến trình hội nhập quốc tế.

Chúng ta không phủ nhận những giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền, đó là tinh hoa trí tuệ nhân loại, mang tính quy luật, chứ không phải sản phẩm riêng có, độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, chưa có tiền lệ, đòi hỏi có sự nhận thức lý luận khoa học, sự vận dụng sáng tạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo các giá trị phổ quát về nhà nước pháp quyền, song cũng gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nhà nước vô sản ở Việt Nam. Quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đánh dấu một bước tiến trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta thời kỳ đổi mới.

Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ sự khác biệt về chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản. Đó là: “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(13). Do đó, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Như vậy, không thể lập luận rằng “xây dựng Nhà nước pháp quyền là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”, không thể xuyên tạc ở Việt Nam “chỉ có đảng trị, không có pháp quyền”... Mô hình nhà nước “tam quyền phân lập” cũng không phải là khuôn mẫu, tiến bộ về tự do, dân chủ, nhân quyền. Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm bởi khi đưa ra luận điệu này, các đối tượng nhằm cố tình xuyên tạc, phủ nhận thể chế chính trị của Việt Nam cũng như phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; ca ngợi, cổ xúy và thúc đẩy mô hình nhà nước “tam quyền phân lập”, ca ngợi cái gọi là giá trị “tự do, dân chủ, nhân quyền” phương Tây; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ, thể chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Mặt khác, việc tung ra luận điệu trên hòng làm méo mó bản chất, tính ưu việt của chế độ xã hội, làm giảm uy tín, vị thế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, không thể coi thường hoặc xem nhẹ các luận điệu sai trái đó.

Có thể khẳng định, các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là rất nguy hiểm vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Do đó, cần nhận diện rõ các quan điểm này và có luận cứ đấu tranh xác đáng, thuyết phục để củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời, nâng cao nhận thức, bồi đắp niềm tin của nhân dân vào Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng./.

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản).

NHẬN DIỆN VÀ PHẢN BÁC MỘT SỐ QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng nhằm thực hiện mưu đồ “chuyển hóa” về nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Một trong những nội dung mà các thế lực này xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ nhiều nhất là những vấn đề liên quan đến xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hòng “hướng lái” hệ thống chính trị của nước ta theo hướng phát triển của các nước tư bản chủ nghĩa. Do đó, cần nhận diện rõ luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị để có những luận cứ đấu tranh phản bác xác đáng, thuyết phục.

Các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tập trung vào những khía cạnh chủ yếu sau:

Một là, xuyên tạc, phủ nhận bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thời gian qua, trên nhiều diễn đàn khác nhau, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc rằng bản chất Nhà nước ta là “độc tài”, “toàn trị” trên cơ sở các luận điệu xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta, như “chế độ một đảng của Việt Nam là trái với nguyên tắc pháp quyền, không thể phát huy được dân chủ mà chỉ mang tính độc tài, áp đặt”(!?); “Trước tình trạng cai trị độc tài, vô hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân không thể chịu đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những sai lầm đó, đứng lên đòi nhân phẩm, nhân quyền, dân chủ. Càng ngày càng có nhiều người đấu tranh, người trước, kẻ sau, càng ngày càng đông”(!?); “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội tức là theo chế độ đảng trị - đảng chủ”(!?) và cáo buộc rằng thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay là “không phù hợp với chuẩn mực quốc tế”, “trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền” hay “Hiến pháp Việt Nam là không chính danh, chỉ là điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam độc tài, toàn trị”(!?)...

Hai là, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, các thế lực thù địch, phản động không ngừng bôi nhọ, bóp méo, xuyên tạc việc thực hiện dân chủ ở nước ta, cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ. Các thế lực thù địch còn ra sức xuyên tạc, kích động tư tưởng hoài nghi về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, xuyên tạc công tác bầu cử ở nước ta chỉ là “màn kịch dân chủ” do Đảng Cộng sản đạo diễn. Các thế lực phản động nước ngoài đã câu dẫn, kích động các phần tử cơ hội chính trị trong nước thực hiện chiêu trò “tự ứng cử”, hô hào các hội nhóm dân chủ trên mạng xã hội ủng hộ cho các “nhà dân chủ” hòng gây rối, phá hoại bầu cử; đồng thời, rêu rao Đảng Cộng sản cố tình “cản trở” người ngoài Đảng tự ứng cử. Ngoài ra, chúng còn lan truyền kịch bản “xếp ghế” cho nhân sự Quốc hội trên mạng xã hội, rêu rao rằng bầu cử chỉ là hình thức, quyền lực trong Quốc hội đã được các “phe nhóm” của Đảng “an bài”, “thỏa hiệp”, “phân chia”... Đây hoàn toàn là những luận điệu phản động, xảo trá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Ba là, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn đưa ra nhiều luận điệu sai trái hòng xuyên tạc, phủ nhận bản chất pháp quyền của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chẳng hạn như “nhà nước pháp quyền là giá trị của các nước tư bản, việc Việt Nam đặt lại vấn đề xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền là có hướng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”(!?) và “chỉ có nhà nước pháp quyền tư sản, không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(!?), từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và cho rằng chế độ dân chủ tư sản như nó đang tồn tại ở phương Tây là chế độ dân chủ cao nhất, là “thiên đường vĩnh hằng”; và “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”, “đa đảng, đa nguyên là thành tố quan trọng nhất để xây dựng nên một quốc gia dân chủ” và “đa đảng sẽ bảo đảm quyền làm chủ đất nước của nhân dân”(!?). Theo đó, những “nhà dân chủ” đòi Việt Nam sửa đổi Hiến pháp năm 2013, sửa đổi thể chế Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình “tam quyền phân lập”.

Qua các luận điệu trơ trẽn đó, có thể thấy rõ mưu đồ của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị là xuyên tạc, phủ nhận sự tồn tại và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, mưu toan “hướng lái” con đường phát triển của Việt Nam theo các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là xây dựng nhà nước theo mô hình của các nước tư bản, thực hiện “tam quyền phân lập”. Đây là âm mưu rất thâm độc hòng chống phá những vấn đề căn cốt của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

TIẾP TỤC HOÀN THIỆN, BỔ SUNG VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Thời gian tới, để bảo đảm hiệu quả cao nhất, cần mạnh dạn hoàn thiện, bổ sung và đổi mới phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch qua một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Cấp ủy, chính quyền các cấp và đội ngũ cán bộ chủ chốt phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Ðảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhận diện rõ các quan điểm sai trái, thù địch để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát với tình hình thực tế. Phát huy vai trò nòng cốt của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp của các đơn vị, địa phương. Xác định rõ, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, phản bác quan điểm sai trái thù địch không chỉ có bộ phận chuyên trách, mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân. Ban Chỉ đạo 35 cần xây dựng và ban hành “Chiến lược quốc gia về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch”.

Hai là, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, tiêu cực. Đảng phải tự cường, thực sự trong sạch, vững mạnh trên tất cả các mặt về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ... để có khả năng tự bảo vệ mình. Do vậy, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống” trong xây dựng và thực hành đạo đức cách mạng; đẩy mạnh thực chất công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tránh việc triển khai theo kiểu hình thức.

Ba là, thực hiện bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bằng nhiều hình thức đa dạng, thiết thực, hiệu quả. Công tác này không được áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính, chủ quan, duy ý chí, mà phải dựa trên sự tự giác, có trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thông tin phản bác phải được phân tích, luận giải có lý lẽ, dựa trên cơ sở thực tiễn khách quan, tăng sức thuyết phục; nắm vững trình độ, nhu cầu, nguyện vọng, tâm lý của từng nhóm đối tượng để có phương thức phù hợp. Cụ thể: (i) Sử dụng “người thật, việc thật” đấu tranh với các quan điểm phản động, sai trái, thù địch; cùng với lấy phẩm chất, đạo đức, hành động đúng đắn, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên phản bác lại luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống...; (ii) Phân biệt “phản động” với “yêu nước” thông qua nhận thức, tư duy, hành động của từng cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cơ sở xây dựng “tư duy mở” về “phản biện”, “trái chiều”, nhưng mang tính tích cực, theo đó chấp nhận tư duy phản biện, đối lập tích cực, không được nâng quan điểm hoặc chụp mũ, đồng thời cần nhận thức và xác định lại chính xác “nội dung tích cực, thể hiện lòng yêu nước”, tránh thực hiện phương thức đấu tranh không phù hợp, dễ bị thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc trở thành tiêu cực, “tự diễn biến, tự suy thoái”, có thể biến chuyển thành phản động; (iii) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng việc nhận thức và áp dụng đúng đắn “nguyên tắc tập trung dân chủ” trong thực tiễn, tránh việc lợi dụng nguyên tắc này để áp dụng theo kiểu độc quyền, tập trung, nhưng không dân chủ.

Bốn là, chú trọng và nâng cao hiệu quả xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Để thực hiện tốt phương thức này, trong thời gian tới phải thực hiện đồng thời các vấn đề: Quán triệt rõ, nhân dân đóng vai trò chủ thể, vị trí trung tâm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Đảng không ngừng chăm lo, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phổ biến, tuyên truyền, làm tốt công tác dân vận để nhân dân tin, hiểu, tự hào với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Năm là, xây dựng phương thức “giá trị pháp lý - chuẩn mực cao nhất” làm nền tảng cho việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ. Phương thức này muốn đạt hiệu quả cao nhất, thời gian tới cần thực hiện: Bảo đảm văn bản của Đảng phải đúng tinh thần Hiến pháp, pháp luật, không được cao hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật, theo đó, các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; thể chế hóa triệt để, đúng tinh thần, nội dung và cách thức từ văn bản của Đảng thành văn bản của Nhà nước. Dựa trên nền tảng này để tuyên truyền, giáo dục, đồng thời để áp dụng và xử lý theo quy định của Đảng và Nhà nước./.

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản).

THẲNG THẮN NHÌN NHẬN HẠN CHẾ, BẤT CẬP

 

Thời gian qua, nhận thức về vai trò, tầm quan trọng, tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, tổ chức đảng và một số vấn đề khác trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chưa sâu sắc. Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên nên một bộ phận cán bộ, đảng viên lơ là, thiếu trách nhiệm, chưa thật sự coi trọng việc thực hiện nhiệm vụ được giao gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn đùn đẩy, sợ trách nhiệm, lợi dụng kẽ hở để tư lợi, vi phạm quy định của Đảng và Nhà nước; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo kiểu “tha hóa trong bí mật”, tác động xấu bằng hành vi tham nhũng, trục lợi chính sách(11).

Một số phương thức, giải pháp chưa thực sự hiệu quả, còn nặng tính hàn lâm, kinh điển, khi triển khai còn mang tính rập khuôn, máy móc, hiệu quả chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn của từng ngành, lĩnh vực, địa phương. Phương thức tuyên truyền, đấu tranh trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa kịp thời, thậm chí phản ứng chậm với hành vi tiêu cực, xuyên tạc; một số giải pháp thiếu tính cụ thể, chưa phản ánh những vấn đề thực tiễn bằng trực quan sinh động, chưa kịp thời phản biện, đấu tranh bằng tấm gương người thật, việc thật; các minh chứng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng đôi khi chưa được cập nhật và phản ánh kịp thời nên tạo ra nhiều luồng dư luận, nhiều cách hiểu trái chiều khiến các thế lực thù địch có cơ hội xuyên tạc, bóp méo sự thật. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật của Nhà nước ở một số khâu, trong một số trường hợp còn chậm và cách thức triển khai chưa phù hợp(12).

Việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng. Vấn đề niềm tin của nhân dân đối với Đảng được xem là giá trị cốt lõi, quan trọng bậc nhất. Tuy nhiên, trên thực tiễn, một số nội dung, phương thức, giải pháp để “gieo niềm tin” từ nhân dân chưa đạt hiệu quả như mong muốn, như  nêu gương trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa thật sự nổi bật, chưa đủ sức lan tỏa để quần chúng “nghe, nói, tin và làm theo”; sự phối hợp của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn lỏng lẻo và thiếu hiệu quả. Trên cơ sở chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, các cơ quan, đơn vị, địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo 35 và có sự phối hợp tương đối tốt; tuy nhiên, sự phối hợp này mới chỉ trong phạm vi hẹp, chưa có cơ chế ràng buộc rõ ràng nên hiệu quả phối hợp chưa cao.

Chưa phát huy được giá trị lịch sử của cha ông về bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức cán bộ. Việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong triển khai nhiệm vụ rất đáng khích lệ, song bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, tìm hiểu các giá trị được đúc kết từ truyền thống lịch sử dân tộc; từ đó, vận dụng linh hoạt, chọn lọc các phương thức, phù hợp với điều kiện và bối cảnh trong nước để việc triển khai đạt hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn, Luật Hồi tỵ (1460 - 1497) Hồng Đức quy định 4 vấn đề của người đứng đầu địa phương là: “không được là người địa phương; không được lấy vợ là người địa phương; không được mua bán, nhận chuyển nhượng, tặng cho điền thổ ở địa phương; không được bổ nhiệm vợ, con, thân hữu làm quan ở địa phương”. Đây là những nội dung cần thiết, có nội dung phù hợp với tình hình phát triển ở nước ta hiện nay, song lại chưa được chọn lọc để đưa vào pháp luật hiện hành. Do vậy, thực tiễn đã xảy ra tình trạng “quyền anh quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây”, tạo điều kiện cho các thế lực phản động, thù địch lợi dụng để xuyên tạc, bôi nhọ...

Mặc dù Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, “về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, trong đó có chỉ đạo cụ thể về vấn đề hoàn thiện thể chế, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia, song quá trình này vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Đặc biệt, việc số hóa dữ liệu về Đảng, Nhà nước và nhân dân còn chậm, thiếu rất nhiều cơ sở dữ liệu (do lạm dụng chế độ bảo mật, không đưa lên cơ sở dữ liệu quốc gia, ngành, địa phương hoặc thiếu trách nhiệm chia sẻ cơ sở dữ liệu,...) chính là kẽ hở để các thế lực thù địch số hóa các dữ liệu giả, dùng công nghệ số để tích hợp, phân tích, tạo ra các dữ liệu xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật... hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta.

CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH ĐẠT NHIỀU KẾT QUẢ TÍCH CỰC

 

Thời gian qua, nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị, cùng với sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã khắc phục, vượt qua được những khó khăn rất lớn, những tác động tiêu cực do dịch bệnh, thiên tai, bão lụt, hạn hán xảy ra. Đó là minh chứng sinh động, khẳng định tính ưu việt của chế độ; truyền thống đoàn kết, yêu nước, lòng nhân ái và ý chí kiên cường của nhân dân ta. Càng trong khó khăn, thử thách, truyền thống và ý chí đó càng được nhân lên gấp bội, là nguồn lực và động lực to lớn, không một thế lực nào có thể ngăn cản, để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, đất nước tiếp tục đi lên, dân tộc phát triển cường thịnh, trường tồn. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(8). Trong đó, phải kể đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được Đảng ta đặc biệt quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực. Cụ thể:

Thứ nhất, chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ngày càng được nâng cao. Nhờ vậy, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức đúng đắn sách lược của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quán triệt rõ, công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, đồng thời là trách nhiệm của toàn dân nhằm đấu tranh hiệu quả với những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần tạo nên sức mạnh tổng thể của cả hệ thống chính trị, kết hợp với sức mạnh của nhân dân. Trên cơ sở quán triệt nhận thức, tư duy, xác định rõ tính chất nguy hại và tác động tiêu cực của những quan điểm sai trái, thù địch đối với an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nhận diện rõ các quan điểm sai trái, thù địch để có chủ trương, biện pháp chỉ đạo phù hợp; phân định được sự khác biệt của quan điểm sai trái, thù địch với nhận thức lệch lạc, phiến diện, ý kiến phê bình, nhưng thiếu xây dựng. Từ đó, có cách thức phản biện khoa học, phương thức đấu tranh phù hợp, giải pháp áp dụng phát huy hiệu quả cao.

Thứ hai, sử dụng đa dạng giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Lấy giá trị thực tiễn làm phương thức đấu tranh, nhưng luôn bảo đảm tính khách quan, thuyết phục; đồng thời, sử dụng biện pháp đấu tranh mềm dẻo, cương quyết, nhưng dân chủ. Áp dụng biện pháp khoa học - kỹ thuật để nhận diện, đấu tranh và xử lý kịp thời thông tin vu khống, xuyên tạc, nội dung xấu, độc, luận thuyết sai trái (phủ nhận giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh...). Sử dụng hiệu quả công cụ pháp lý để bảo đảm tính tuân thủ, bình đẳng, khách quan trước pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm công cụ về thể chế để đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ ba, Đảng ta đã sử dụng các phương thức, giải pháp có tính bản lề, kết hợp “xây” và “chống”. Phương thức này bảo đảm các giá trị về tạo lập tinh thần cách mạng, có sự kết hợp với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Trong đó, “xây” là chính và “chống” là quan trọng, cấp bách, đã được quan tâm, thường xuyên triển khai thực hiện. Xác định rõ trọng tâm, cốt lõi về mặt bản chất, Đảng ta đã trưởng thành từ nhân dân và “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”(9). Do vậy, bằng nhiều phương thức khác nhau, Đảng ta đã xây dựng được niềm tin của nhân dân theo tinh thần “Dân tin thì Đảng còn và ngược lại”. Quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, xây dựng và củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, Đảng ta đã dựa vào nhân dân, thông qua sự ủng hộ, bằng sức mạnh của nhân dân để hình thành tổ chức và lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Thông qua các diễn đàn, phương tiện truyền thông, người dân thẳng thắn bày tỏ quan điểm, tinh thần yêu nước, ủng hộ Đảng và chế độ. Trên các phương tiện truyền thông xã hội thời gian qua, nhiều tài khoản đã tham gia tích cực vào công tác này, như nhóm “Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc” với 91.468 thành viên; trang “Chống luận điệu xuyên tạc” có 44.000 người thích, 48.000 người theo dõi; trang “Tiếng nói thế hệ trẻ” có 14.392 người thích, 15.224 người theo dõi; trang “Thông tin chống phản động” có 149.000 người thích, 190.000 người theo dõi; trang “Chống phản động” có 189.349 người thích, 229.136 người theo dõi(10)...

Thứ tư, kết hợp cùng lúc nhiều phương thức, giải pháp, như đấu tranh, phản bác với nêu gương; tuyên truyền, phổ biến với giáo dục ý thức cách mạng, chủ nghĩa yêu nước; đấu tranh, phản biện với chứng minh, đối chứng, so sánh (“chứng cứ thật, giá trị thật”); đấu tranh, phản biện với sử dụng biện pháp mạnh (“xử lý không có vùng cấm”, “không chấp nhận lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm”, “trục lợi chính sách”).