Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh và những chỉ dẫn đối với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay

Nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm và gương mẫu thực hành trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Tư tưởng này của Người đã trở thành những chỉ dẫn vô cùng sâu sắc đối với công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Trong bối cảnh hiện nay, trước yêu cầu của quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển thì nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với đồng bào dân tộc xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum. (Ảnh: TTXVN)

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với đồng bào dân tộc xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum. (Ảnh: TTXVN)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN PHỤC VỤ NHÂN DÂN

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên đều phải có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc và “Phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”. Bởi theo Người, thấm nhuần đạo đức cách mạng là phải biết đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Trong thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về tinh thần phục vụ nhân dân. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”. Người chỉ có một tâm nguyện “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người chỉ “tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho quốc dân, đồng bào. Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân được thể hiện trên một số điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu phục vụ nhân dân trong xây dựng Đảng và bộ máy chính quyền.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước phải lấy nhân dân làm gốc; bởi vì, “Gốc có vững cây mới bền,/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". “Lấy dân làm gốc” có nghĩa là phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tất cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị phải xác định mình là “công bộc” của nhân dân, trong mọi hoạt động phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Bởi vậy, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân đòi hỏi phát huy cao độ việc thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là “chìa khóa” vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng". Chính bởi vậy, khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, trách nhiệm của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên là phục vụ nhân dân, vì nhân dân, chứ không phải trở thành những vị “quan cách mạng”, để “vinh thân phì gia”. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, công việc, trách nhiệm của Đảng có khác nhau; tuy nhiên, trong mọi hoạt động, Đảng luôn phải đặt lợi ích của nhân dân, dân tộc lên trên hết, trước hết. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ rằng, việc nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân là mục đích và bản chất của Đảng. Đảng cầm quyền là để bảo đảm cho nhân dân làm chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân; đồng thời, để chă­m lo cho cuộc sống của nhân dân, trước hết phải xây dựng Nhà nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính phủ phải là “công bộc” của nhân dân; mọi công việc của Chính phủ đều phải hướng đến mục tiêu là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi theo Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Tinh thần phục vụ nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt rõ trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đó là: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến cơ sở, đều phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân; phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân chính là thước đo xác thực nhất trong đánh giá mức độ hiệu quả, khả năng hiện thực hóa chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Thứ hai, để nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

 Từ thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”. Niềm tin của nhân dân đối với Ðảng là tài sản quý báu nhất của Ðảng; vì vậy, muốn được dân tin, dân phục, muốn được lòng dân, trước hết mỗi người cán bộ, đảng viên phải yêu dân, kính dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên, lên trước quyền lợi cá nhân; phải tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng, suốt đời phục vụ nhân dân. Đây là vừa là trách nhiệm, vừa là nhiệm vụ cao quý nhất của người cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng chăm lo giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân. Người nhấn mạnh: “Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng”, vì quần chúng nhân dân chỉ quý trọng những người cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, đối với đời sống của người dân, làm gương tốt cho nhân dân noi theo. Cho nên, Người căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến... Đồng chí ta phải học lấy bốn đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính”. Cán bộ, đảng viên phải quyết tâm thực hiện đạo đức cách mạng, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, quyết tâm tẩy bỏ cho kỳ hết bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí; gương mẫu trong thi đua học tập, chiến đấu, tăng gia sản xuất; thật thà tự phê bình và phê bình để luôn luôn tiến bộ. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ tự giác tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân với tinh thần “kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có thể chăm lo tốt hơn đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Thứ ba, tinh thần phục vụ nhân dân được biểu hiện trong ý thức trách nhiệm đối với công việc, nhiệm vụ được giao của người cán bộ, đảng viên.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm”. Theo Người, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên là nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ; là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, thì người cán bộ, đảng viên đều phải đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, cố gắng làm cho thành công. Vì thế, Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Mỗi người khi phấn đấu và trở thành cán bộ, đảng viên đều phải tự mình nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, đối với dân tộc và nhân dân. Tinh thần và trách nhiệm phục vụ nhân dân không phải chỉ thể hiện bằng lời nói, mà cần thông qua hành động cụ thể, bằng hiệu quả thực hiện công việc được giao.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức được rằng, mình là “công bộc”, là người “đày tớ” của nhân dân, chứ không phải làm “quan cách mạng”. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thật sự gần dân, hiểu dân, phải thật sự trăn trở về lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, phải thật sự vì nhân dân phục vụ. Do vậy, trong công tác, người cán bộ, đảng viên phải nắm vững và nghiêm túc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phải căn cứ vào tình hình thực tế mà xây dựng kế hoạch rõ ràng, thiết thực; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân, tiếp thu sáng kiến của nhân dân để đột phá, sáng tạo khi thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

Cán bộ công an nhân dân hướng dẫn người dân thao tác xin cấp phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID. (Ảnh: TTXVN)

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN PHỤC VỤ NHÂN DÂN VÀO VIỆC RÈN LUYỆN PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân vào quá trình xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ được quan tâm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, sau gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, “một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Một số cán bộ, đảng viên có tư tưởng “vinh thân phì gia”, thay vì làm tròn chức trách, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” lại chỉ lo vun vén cá nhân, làm giàu cho bản thân và gia đình mình, dẫn tới hậu quả là bệnh xa dân. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn xảy ra ở một số nơi. Những hạn chế, khuyết điểm trên đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín trong tình hình mới, một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh; cụ thể là:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục việc rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác tuyên truyền, giáo dục phải làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc nội dung và giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân; “thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách”. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần cụ thể hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân, đề ra phương hướng, mục tiêu, nội dung và giải pháp để tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Công tác tuyên truyền phải chính xác, đầy đủ; kịp thời đấu tranh, phản bác thông tin xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; qua đó, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên rèn luyện và giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải không ngừng đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đối với chương trình đào tạo, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, bên cạnh phần kiến thức lý luận cơ bản, cần chú trọng nội dung tuyên truyền, giáo dục về những tấm gương người tốt, việc tốt, những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, của Đảng gắn với tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, bảo đảm gắn lý luận với thực tiễn, rèn luyện kỹ năng cho người học để phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn trong thực tiễn công tác.

Thứ hai, nêu cao tinh thần tự giác của cán bộ, đảng viên trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời phục vụ nhân dân. Thực hiện hiệu quả việc tự tu dưỡng, rèn luyện, lấy đó làm cơ sở, nền tảng để xây dựng và phát huy phẩm chất, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Do vậy, dù ở vị trí công tác nào, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiện nay, để thực hiện tốt phẩm chất đạo đức này, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; đồng thời, thực hiện hiệu quả các nguyên tắc trong tự tu dưỡng đạo đức cách mạng. Trước tiên, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn “nói đi đôi với làm”, thực hiện trách nhiệm nêu gương ở mọi nơi, mọi việc, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm, gắn với chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên. Tính tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân yêu cầu người cán bộ, đảng viên gương mẫu toàn diện về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trong lời nói và hành động cụ thể, trên mọi lĩnh vực, trong mọi hoàn cảnh nhằm hướng tới mục tiêu hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Thứ ba, thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các khâu trong công tác cán bộ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các khâu trong công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học và hiệu quả. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Đảng đã ban hành và thực hiện nhiều quy định, kết luận về công tác cán bộ. Đây là những định hướng chỉ đạo rất quan trọng của Đảng, góp phần tạo nên sự đồng bộ, kết nối chặt chẽ giữa các khâu trong công tác cán bộ. Việc tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, chặt chẽ các văn bản chỉ đạo của Đảng sẽ là cơ sở quan trọng, góp phần xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó có việc rèn luyện, thực hành phẩm chất đạo đức suốt đời phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có tinh thần trách nhiệm với công việc, thật sự là “công bộc” của nhân dân. Nhìn lại lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, biết bao tấm gương cán bộ, đảng viên đã quên mình vì nước, vì dân. Đó thật sự là những con người từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu quan trọng là cần tiếp tục tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có tinh thần trách nhiệm, thật sự là “công bộc” của nhân dân. Tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên là luôn nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình, sẵn sàng phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cách mạng, vì cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải dựa trên tiêu chí phục vụ nhân dân, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Trong thực hiện nhiệm vụ được giao, cán bộ, đảng viên cần quán triệt nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm đúng quy trình, thủ tục; đồng thời, chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Khi triển khai thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, đảng viên cần nhanh chóng xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, tránh để chậm trễ gây tồn đọng, ách tắc; đồng thời, cần tiếp thu ý kiến đóng góp, phê bình của người dân với tinh thần “tự soi”, “tự sửa”, để không ngừng nâng cao đạo đức công vụ, gần dân, sát dân, hiểu và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp phải kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, cửa quyền, mệnh lệnh hành chính, xa rời quần chúng; nâng cao tinh thần trách nhiệm, chống biểu hiện thờ ơ, vô cảm khi tiếp xúc, giải quyết công việc và trước khó khăn, vướng mắc của nhân dân. Bên cạnh đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay là có cơ chế để “khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Tư tưởng đó của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên còn là hành động thiết thực để tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - một yêu cầu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

ST.

Nêu gương đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tính thuyết phục trong công tác tư tưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

Cách đây 100 năm, ngày 20/5/1924, trong “Thư gửi đồng chí Pêtơrốp” (Tổng Thư ký Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhận định bất hủ: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Vừa qua, ngày 9/5/2024, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký Quy định số 144-QĐ/TW, của Bộ Chính trị về "Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”. Trong bối cảnh hiện nay, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức cách mạng, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, có đủ năng lực vận động, thuyết phục, định hướng tư tưởng, lãnh đạo quần chúng nhân dân cùng phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc.

Bác Hồ với công nhân xe lửa Gia Lâm (Tranh: Phạm Lung, sáng tác năm 1969).

Bác Hồ với công nhân xe lửa Gia Lâm (Tranh: Phạm Lung, sáng tác năm 1969).

NÊU GƯƠNG TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Phương pháp nêu gương đạo đức cách mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong mọi công tác của Đảng, nhất là công tác tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác tư tưởng là công tác hàng đầu. Muốn công tác này đáp ứng yêu cầu ngang tầm nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, nêu gương đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh, đối với cán bộ, đảng viên, đạo đức cách mạng là cái gốc, nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng trở nên vô dụng. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Đạo đức cách mạng giúp cán bộ, đảng viên vững vàng trong mọi thử thách. Có đạo đức cách mạng thì “khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước ... Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải noi gương các thế hệ tiền bối: “Suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Một ngày nào mà .... nhân dân ta chưa được sung sướng, yên vui thì tất cả chúng ta vẫn phải đem hết tinh thần và nghị lực mà phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng hoàn toàn thắng lợi”; phải có ý thức “gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.

Trên cơ sở không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng để dân tin, dân mến, dân làm theo; phải xứng đáng là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân, vừa phục vụ nhân dân, vừa lãnh đạo nhân dân thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ba nguyên tắc trong thực hành nêu gương: Một là, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Thế hệ đi trước làm gương cho thế hệ đi sau; ông bà làm gương cho con cháu, cha mẹ nêu gương cho con cái, anh chị làm gương cho em; lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên; đảng viên làm gương trước quần chúng. Hai là, xây đi đôi với chống, xây dựng đạo đức cách mạng phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, phải kiên quyết chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, chống “chủ nghĩa cá nhân”, phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Ba là, tu dưỡng đạo đức suốt đời, thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mỗi cán bộ, đảng viên.

Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện và nhân rộng mô hình “người tốt, việc tốt” để tăng cường hiệu quả của việc giáo dục, thuyết phục và vận động cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân: “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất”; “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương là phương pháp hết sức quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, nhất là về tính giáo dục và thuyết phục. Cán bộ, đảng viên nêu gương, đi đầu thì vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng rất hiệu quả. Ngược lại, cán bộ, đảng viên nói mà không làm, làm cầm chừng, thiếu trách nhiệm thì có vận động mấy cũng khó mà làm cho dân tin, dân theo.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm và tặng quà gia đình có công với cách mạng tại tỉnh Tuyên Quang. (Ảnh: TTXVN)

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH HÌNH MỚI ĐẾN CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Công tác tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, bao hàm phạm vi rộng, từ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đến tuyên truyền, cổ động, truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, nâng cao dân trí, khơi dậy tinh thần yêu nước, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Điểm xuất phát trong công tác tư tưởng là lòng tin vào con người, tác động tới nhận thức, tình cảm và trí tuệ của mỗi người và làm cho họ tin vào những điều tốt đẹp, cao thượng nhất.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của công tác tư tưởng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người từng nhấn mạnh: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”. Người khẳng định, học thuyết Mác - Lênin là vũ khí lý luận, nền tảng tư tưởng của Đảng. Đảng phải làm tốt công tác tư tưởng, làm cho thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thấm nhuần trong Đảng và xã hội, khích lệ toàn dân tộc kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn chú trọng nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, việc coi trọng và triển khai hiệu quả công tác tư tưởng đã góp phần giúp Đảng ta thống nhất ý chí và lực lượng, huy động khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta thu được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đưa cả nước vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế, uy tín trên trường quốc tế được nâng lên.

Cũng trong gần 40 năm qua, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng được tăng cường, góp phần nâng cao nhận thức, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, học tập, nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh, với nội dung, hình thức ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Tư duy lý luận của Đảng có bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Ðảng ta và nhân dân ta có quyền tự hào và khẳng định rằng, gần 95 năm qua, chúng ta đã phát triển và làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng thực tiễn sinh động của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác tư tưởng vẫn còn một số hạn chế, tính thuyết phục chưa cao; việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên; một bộ phận đảng viên chưa nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng. Công tác thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có lúc chưa kịp thời, hình thức chưa phong phú. Tính chiến đấu của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi chưa cao, còn bị động, lúng túng. Việc dự báo, nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và định hướng dư luận xã hội còn có lúc chưa kịp thời. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp mà thực tiễn đặt ra chưa được làm sáng tỏ...

Hiện nay, thế giới và nhân loại đang đi qua một giai đoạn đầy bất định và bất ổn. Kinh tế thế giới đối mặt với nhiều vấn đề nan giải; quan hệ giữa các nước lớn diễn biến phức tạp; xung đột nảy sinh ở các khu vực trọng yếu của thế giới; các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn biến nhanh và khó lường. Đáng chú ý, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông, trí tuệ nhân tạo, gây ra nhiều vấn đề mới tác động sâu sắc đối với xã hội, cả ở các nước phát triển và đang phát triển. Bối cảnh đó tạo ra thời cơ đan xen thách thức, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với các đảng cầm quyền trên thế giới.

Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước vẫn đứng trước thách thức không nhỏ; các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên, xu hướng già hóa dân số trở nên gay gắt hơn; tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn tồn tại; các thế lực thù địch, các tổ chức phản động chống phá ngày càng quyết liệt. Đáng chú ý là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy giảm sức chiến đấu; một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, thiếu tính tiên phong, còn tình trạng thụ động, trông chờ, né tránh.

Tình hình nêu trên tác động mạnh, nhiều chiều đến công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác tư tưởng nói riêng, đòi hỏi đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, không ngừng hoàn thiện và nâng cao sức chiến đấu, bản lĩnh chính trị của Đảng để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới. Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, nhiệm vụ chính trị nặng nề, lịch sử gần 95 năm của cách mạng Việt Nam cho thấy, hơn lúc nào hết cần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng nhằm tạo sự thống nhất cao trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận trong nhân dân.

Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa tham quan gian hàng trưng bày đặc sản của người dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước tại Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh Bình Phước năm 2023, tháng 8/2023. (Ảnh: TTXVN)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NÊU GƯƠNG, GÓP PHẦN TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Đứng trước những đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là quan điểm về nêu gương đạo đức cách mạng trong công tác tư tưởng có ý nghĩa rất quan trọng.

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước... Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trên tinh thần đó và nhất là trước những tác động, diễn biến phức tạp, nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, diễn biến tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, cần đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng với phương châm chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả. Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, mỗi khi gặp khó khăn, thách thức, quần chúng nhân dân trông cậy vào tính tiên phong, xông pha của cán bộ, đảng viên; đảng viên nhìn vào và noi theo sự gương mẫu, đi đầu của lãnh đạo cấp ủy.

Để vận dụng hiệu quả phương thức nêu gương nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, cần làm tốt các giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và xã hội về vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng và sự cần thiết nêu gương đạo đức trong thực thi công tác tư tưởng, theo phương châm “Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, toàn hệ thống chính trị làm công tác tuyên truyền”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: Tư tưởng dẫn đầu. Đảng phải quan tâm đến giáo dục tư tưởng và lãnh đạo công tác tư tưởng trong Đảng và trong xã hội. Công tác tư tưởng phải đi trước một bước, không ngừng đổi mới để phù hợp với những điều kiện cụ thể của hoàn cảnh, không ngừng nâng cao hiệu quả phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu để việc nêu gương thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động của Đảng. Từ đó, khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trên mặt trận tư tưởng và các công tác khác của Đảng, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Với việc nghiêm túc thực hành nêu gương, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phấn đấu trở thành tấm gương sáng, làm kiểu mẫu cho quần chúng nhân dân noi theo trong mọi công việc; không ngừng rèn luyện, “tự soi”, “tự sửa”, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Hai là, đội ngũ cán bộ, đảng viên nghiêm túc, tự giác thực hiện những nhiệm vụ được chỉ ra tại các văn bản của Đảng đã ban hành về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nêu gương; tập trung làm tốt ba vấn đề: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên; gắn việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm về việc học tập và làm theo Bác. Cần nhận thức sâu sắc, “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đồng thời, việc “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên cần tuân thủ theo nguyên tắc “xây” đi đôi với “chống”. “Mỗi người tốt là một bông hoa đẹp” thì “Cả dân tộc là một vườn hoa đẹp”.

Với tinh thần nêu trên, trong thời gian tới, cần quán triệt sâu sắc và nhanh chóng đưa Quy định số 144-QĐ/TW vào cuộc sống. Trong đó, các cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị cần cụ thể hóa 5 chuẩn mực đạo đức được quy định thành các tiêu chí gắn với nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương. Đồng thời, nghiêm túc triển khai, theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Có thể khẳng định, 5 chuẩn mực đạo đức được nêu tại Quy định số 144-QĐ/TW có tính khái quát cao, bảo đảm dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát. Điều quan trọng và cấp thiết là cần gắn các chuẩn mực này với thực tiễn nhiệm vụ chính trị đặc thù của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, khiến cho Quy định số 144-QĐ/TW trở nên hết sức sống động, gắn với hơi thở của cuộc sống, đi vào tiềm thức, nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên (để rèn luyện) và cả quần chúng nhân dân (để giám sát, kiểm tra).

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức, thể hiện cơ bản ở việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ và công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Về đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ, cần thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, có sự định hướng, theo dõi, rèn luyện, uốn nắn kịp thời, chú trọng vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa “Đức” và “Tài”. Trong tổ chức, triển khai công việc, hết sức chú ý việc thống nhất tư tưởng, vai trò làm gương, tiên phong của người đứng đầu và việc phát huy dân chủ gắn với kỷ cương. “Tư tưởng thông, mọi người hăng hái thực hiện kế hoạch mới tốt”. “Thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Phát huy quyền dân chủ cũng có nghĩa là thực thi quyền giám sát của nhân dân đối với các cơ quan, tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nước.

Thắm tình quân dân. (Ảnh: TTXVN)

Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền, góp phần khơi dậy tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển của nhân dân, niềm tự hào của mỗi người cán bộ, đảng viên, phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, truyền thống cách mạng của địa phương trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Theo đó, nghiên cứu đổi mới sáng tạo nhiều cách làm hay có tính đột phá trên cơ sở tích cực ứng dụng công nghệ, nền tảng chuyển đổi số vào thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền. Cần gắn với hoạt động nắm bắt dư luận xã hội, kịp thời định hướng dư luận, gắn kết chặt chẽ với các nhiệm vụ chính trị, làm cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thấm sâu, lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp. Qua đó, tạo sự thống nhất, đồng lòng trong xã hội theo đúng tinh thần mà đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”; góp phần thực sự mang lại những giá trị vật chất, tinh thần cho nhân dân, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân trên mọi phương diện.

Năm là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng vừa “hồng”, vừa “chuyên”, coi đây là công tác trọng điểm. Mỗi cán bộ làm công tác tư tưởng phải là tấm gương đi đầu với bản lĩnh, trí tuệ, có phương thức hoạt động khoa học, tuyệt đối trung thành, kiên định, vững vàng, có đủ trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, phải nói được, làm được, thuyết phục được, không để bị mua chuộc bởi các thế lực xấu, thù địch. Cần tạo dựng nền tảng văn hóa rộng rãi cho đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, để từ đó có định hướng đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng chuyên sâu từng lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tuyên truyền, vận động; có như vậy, mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng.

Sáu là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp với phát huy vai trò giám sát của các cơ quan báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kịp thời biểu dương điển hình tiên tiến, tấm gương sáng về đạo đức, lối sống; đấu tranh, ngăn chặn mạnh mẽ, hiệu quả các biểu hiện lệch lạc, sai trái, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm đạo đức, lối sống, góp phần làm cho Đảng thật sự liêm khiết, thật sự là Đảng của giai cấp, của dân tộc, được nhân dân tin yêu, ủng hộ, noi theo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị khẳng định rõ tầm quan trọng của công tác tư tưởng. Trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng nâng cao tính thuyết phục của công tác tư tưởng, trước hết và quan trọng hàng đầu là việc nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bằng việc làm và hành động cụ thể, mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực nêu gương về đạo đức cách mạng, nghiêm túc chấp hành kỷ luật của Đảng, kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nâng cao ý thức giữ gìn đoàn kết trong Đảng. Cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy các cấp cần tiên phong, gương mẫu trong vận động, tổ chức và đồng hành cùng nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Việc rèn luyện theo chuẩn mực đạo đức cách mạng trong tình hình mới, tích cực nêu gương sẽ tăng cường sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, để Đảng Cộng sản Việt Nam ở ngưỡng cửa 100 năm tuổi xứng đáng là một đảng cách mạng, “là đạo đức, là văn minh”, là người lãnh đạo mọi thắng lợi của đất nước Việt Nam trong thời kỳ mới, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”./.

ST.

TẠI SAO LẠI NHẬP CẢNH VỀ VIỆT NAM LÚC NÀY???

     Năm 2018 - một loạt cuộc biểu tình diễn ra ở một số địa phương với lý do chống lại Luật an ninh mạng và Luật đặc khu!
Hàng loạt đối tượng người gốc Việt chủ yếu sinh sống tại Hoa Kỳ đã về Việt Nam tham gia…
Hàng loạt linh mục cực đoan trong nước đăng đàn khích lệ những kẻ biểu tình cực đoan.

Những ngày qua, mạng xã hội lại bị một phen ồn ào- Nguyên nhân ban đầu xuất phát từ việc Lê Anh Tú (Thích Minh Tuệ) cùng một số người đi bộ dọc các tỉnh Miền Trung… trên đường di chuyển vào các tỉnh phía Nam.
Điều đáng quan ngại cũng đã bắt đầu xuất hiện- Đã có một số người gốc Việt đang sinh sống tại Mỹ nhập cảnh về Việt Nam để tham gia cùng đoàn người ôm nồi cơm điện đi khất thực đó .
Sự việc lần này cũng xuất hiện hàng loạt lời “cổ vũ“ của những thành phần là LM cực đoan như Nguyễn Duy Tân, Đặng Hữu Nam, Phan Quốc Văn… tham gia khích lệ. 

Trong số Việt kiều đó , xuất hiện một người tên là Lương Thanh Sơn - Anh ta nhập cảnh về Việt Nam ngày 25/5/2024 - sau khi xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Lương Thanh Sơn ngay lập tức di chuyển ra Miền Trung ngày 26/5/2024 và tham gia vào đoàn người … ôm nồi cơm điện.
Thật không may, do thời tiết tại khu vực nghĩa trang Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị khắc nghiệt - Anh ta đã bị say nắng, sốc nhiệt - Được đưa đi cấp cứu tại một số bệnh viện tại Quảng Trị, sau đó tiếp tục chuyển lên Bệnh viện trung ương Huế thì tử vong.
Sự việc ồn ào đang diễn ra lần này, nhắc nhở mọi người về câu chuyện từng xảy ra 06 năm trước cũng tại các tỉnh thành phía Nam.
Đây không còn đơn giản là một câu chuyện nhỏ - Nói đúng hơn , sự việc lần này chính là nằm trong một kế hoạch khá bài bản, được chuẩn bị kịch bản công phu, kỹ lưỡng từ rất rất lâu - Không loại trừ có sự can thiệp từ bên ngoài.
Hy vọng các lực lượng chức năng, chính quyền các địa phương, đặc biệt là bà con nhân dân tại các khu vực mà nhóm người này đang đi qua.
Hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, tránh bị mắc mưu của những kẻ từ bên ngoài kết hợp những đối tượng chống phá từ bên trong tạo vỏ bọc dưới chiêu bài “tôn giáo“ nhằm âm mưu Diễn biến hoà bình, bạo loạn, lật đổ.
Việc những tài khoản FB , YouTuber, Tick Tick… liên tục đăng những thông tin lôi kéo, mang màu sắc mê tín dị đoan, lợi dụng đám đông quần chúng thiếu thông tin, tạo tình huống để kích động, gây mất trật tự an ninh… là câu chuyện không còn là dự đoán./.
---------------------
- Hình ảnh 1 là đối tượng Nguyễn Wiliam Anh từng bị lực lượng Công An Việt Nam bắt giữ khi đang kích động biểu tình chống phá - sau khi bị xét xử và bị Nhà nước Việt Nam trục xuất.
- Hình ảnh 2 là Lương Thanh Sơn, một Việt kiều từ Mỹ vừa về nước tham gia đoàn người ôm nồi cơm điện… bị tử vong tại Bệnh viện trung ương Huế.
- Hình 3 là những chia sẻ trên trang FB cá nhân của đối tượng LM cực đoan chuyên chống phá nhà nước Việt Nam, Nguyễn Duy Tân.


Yêu nước ST.

Sự thật cái gọi là "Việt Nam vi phạm nhân quyền"

Những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, với động cơ thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra những báo cáo phiến diện nhằm xuyên tạc tình hình, phủ nhận các thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam.

Người Lô Lô bên cột cờ Lũng Cú - Hà Giang. (Ảnh minh họa: Trần Bảo Hòa)

Người Lô Lô bên cột cờ Lũng Cú - Hà Giang. (Ảnh minh họa: Trần Bảo Hòa)

ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM, XUYÊN TẠC THỰC TẾ

Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31/10/2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22/4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22/4/2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN NỖ LỰC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11/10/2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

Đến đây, chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ cái gọi là “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... được đề cập trong Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ là những nhận định thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam./.

ST.