Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỎI - ĐÁP PHÁP LUẬT!

         Trong trường hợp nào công dân được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ trong thời bình?
* Bạn đọc Nguyễn Văn Hùng ở xã Yên Quang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết trong trường hợp nào công dân được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ trong thời bình?
Trả lời: Nội dung bạn hỏi được quy định tại Khoản 1 Điều 11 Luật Dân quân tự vệ. Cụ thể trong trường hợp sau đây:

- Phụ nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi; nam giới một mình nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

- Không đủ sức khỏe thực hiện nhiệm vụ của dân quân tự vệ;

- Có chồng hoặc vợ là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức, viên chức, công nhân quốc phòng, hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ trong Quân đội nhân dân;

- Có chồng hoặc vợ là sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân công an đang phục vụ trong Công an nhân dân;

- Có chồng hoặc vợ là cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

- Lao động duy nhất trong hộ nghèo, hộ cận nghèo; người phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; người trong hộ gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được chủ tịch UBND cấp xã, chủ tịch UBND cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức nơi công dân cư trú hoặc làm việc xác nhận;

- Vợ hoặc chồng, một con của thương binh, bệnh binh, người bị nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

- Người đang học tại trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; người đang lao động, học tập, làm việc ở nước ngoài./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỎI - ĐÁP PHÁP LUẬT!

     Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước bị xử phạt như thế nào?
Bạn đọc Trần Thanh Thủy ở xã Châu Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết, tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước bị xử phạt như thế nào?
Trả lời: Vấn đề bạn hỏi được quy định tại Điều 338 Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự. Cụ thể như sau:

1. Người nào vô ý làm lộ bí mật nhà nước hoặc làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:

a) Bí mật nhà nước thuộc độ tối mật, tuyệt mật;

b) Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

* Bạn đọc Nguyễn Văn Tâm ở xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết, chính sách tạo việc làm đối với người khuyết tật được quy định như thế nào?
Trả lời: Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 33 Văn bản hợp nhất Luật Người khuyết tật số 35/VBHN-VPQH ngày 16-12-2019. Cụ thể như sau:

1. Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật.

2. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật.

3. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.

4. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật.

5. Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.

6. Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN” TRONG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN!

     “Trung với nước, hiếu với dân” được Hồ Chí Minh coi “là mục đích, là khẩu hiệu” của cán bộ, đảng viên. Tư tưởng đó có giá trị rất lớn, là chỉ dẫn đối với việc rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay!

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “trung với nước, hiếu với dân”
“Trung” và “Hiếu” là chuẩn mực cơ bản của đạo đức truyền thống. Trên cơ sở phát huy giá trị truyền thống kết hợp tư tưởng đạo đức cách mạng người cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển thành chuẩn mực đạo đức cách mạng, Người chỉ dẫn: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”.

Trung với nước là trung thành với lợi ích của đất nước, lợi ích của nhân dân. Lợi ích của đất nước là độc lập, tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân; là lợi ích chung của các giai cấp, tôn giáo, dân tộc và các thành phần trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, ai đã là người Việt Nam thì ít nhiều cũng yêu nước, nên “trung với nước” là đạo đức của tất cả các thành phần, các cá nhân trong xã hội.

Trung với Đảng nghĩa là người cán bộ, đảng viên suốt đời đi theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”. Trung với Đảng chính là “chấp hành triệt để đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, hăng hái thi đua yêu nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống”.

Hiếu với dân là sự kính trọng nhân dân, lễ phép với dân, tin vào dân, lắng nghe ý kiến của dân, gần gũi với dân, hòa với dân thành một khối, thương dân, yêu dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân hết lòng.

Theo Người, “dân” là tất cả những ai là con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên. “Dân” là không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, không phân biệt giữa người Việt Nam ở trong nước với người Việt Nam ở nước ngoài. Người thường dùng hai từ “đồng bào” để nói về mối quan hệ cùng dòng máu của người Việt Nam và khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” và Người chỉ dẫn “hiếu với dân” chính là phải yêu thương, kính trọng, chăm lo, vun vén, bảo vệ lợi ích, mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.

Vậy nên, Người dùng từ “Hiếu” trong mối quan hệ với dân để thấy được chiều sâu của nguồn cội dân tộc, thấy được sự kết nối từ quá khứ đến hiện tại, thấy được tình thân của giống nòi, của gia đình lớn, thấy được sự bình đẳng, không phân biệt. Chữ “Hiếu” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được mở rộng biên độ, đối tượng nhưng cũng rất thực tế. Chữ “Hiếu” trong gia đình nhỏ được đặt cao nhất thì vị trí của chữ “hiếu” trong cộng đồng của gia đình lớn cũng tương tự như vậy.

Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm là lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhiều thế hệ cha ông đã hy sinh xương máu để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Sự sống ngày hôm nay là sự tiếp nối của ngày hôm qua nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Bởi vậy “hiếu với dân” là thể hiện lòng biết ơn đối với đất nước, đối với các thế hệ cha ông.

Thầy của cụ Phan Bội Châu là cụ Nguyễn Đức Đạt đã nói về mối quan hệ gần gũi của bản thân với dân: “Yêu như yêu thân mình, kính như kính thân mình. Ôi! Dân là người bảo vệ cho thân mình, chẳng yêu sao được? Lại là người chủ tế của thân mình, chẳng kính sao được”. Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”. Vì vậy mà phải kính dân, yêu dân, chăm lo lợi ích cho dân.

Trong mối quan hệ giữa nước và dân thì sức mạnh của nước nằm ở nơi dân, nước và dân tuy hai mà một. “Trung với nước” là thực hiện mục tiêu bao trùm lên lợi ích của toàn thể dân tộc; “hiếu với dân” là thực hành trong mối quan hệ với đối tượng cụ thể là nhân dân (giai cấp, tầng lớp, cộng đồng, tập thể, cá nhân) mà đích cuối cùng đều là thực hiện mục tiêu chung cho quốc gia, dân tộc. “Trung với nước” được thể hiện thông qua “hiếu với dân”, hiếu với dân là góp phần thực hiện “trung với nước”.

“Trung với nước, hiếu với dân” là đạo đức, là văn minh.
Khi nói “trung với nước” là hướng đến sự gắn bó với dân, với lợi ích của số đông và khắc phục được tính chủ quan, phụ thuộc vào một cá nhân như chuẩn mực đạo đức cũ là “trung với vua”. Thực hiện “trung với nước” là con người thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm và sự cống hiến của mình với đất nước; khẳng định vai trò, trách nhiệm trước cộng đồng. Lợi ích giữa dân tộc và giai cấp, tập thể và cá nhân là thống nhất, có mối liên hệ mật thiết. Lợi ích của các cá nhân nằm trong lợi ích của giai cấp, dân tộc. Nước mà độc lập thì dân mới có tự do, nước mà nô lệ thì dân cũng là nô lệ. Nước nghèo thì dân khổ, nước giàu thì dân được hưởng ấm no, hạnh phúc. Bởi vậy, khi thực hiện lợi ích cá nhân thì không thể tách rời với việc bảo vệ, chăm lo, phấn đấu vì lợi ích cộng đồng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Dân tộc được độc lập, quốc gia được thịnh vượng, mục đích cũng là để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Với Người, “trung với nước, hiếu với dân” cũng chính là “yêu nước, thương dân”. Yêu nước, thương dân phải thể hiện tinh thần thái độ hăng hái, phải thông qua hành động cụ thể, phải thực hiện mục tiêu vì nước vì dân. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”.

Đối với cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt ngắn gọn mục tiêu này là: cán bộ, đảng viên phải có Đức và Tài, trong đó Người khẳng định “Đức là gốc”. Theo Người: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”. Thực tế cách mạng cho thấy, đạo đức của người cán bộ, đảng viên là nhân tố quyết định nhất đến niềm tin của nhân dân với Đảng: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”, coi đây là chuẩn mực trung tâm, là phẩm chất cốt lõi trong những phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên. Năm 1946, trong Lễ khai trường tại trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Người phát biểu rất ngắn gọn: “Mong rằng anh em ở đây, bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của anh em: trung với nước, hiếu với dân”. Một lần khác, trong thư gửi cho trường Trần Quốc Tuấn nhân dịp khai giảng khóa IV, Người tiếp tục nhấn mạnh: “Tôi vui lòng tặng trường 6 chữ: Trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”.

2. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “trung với nước, hiếu với dân” trong rèn luyện đạo đức người cán bộ, đảng viên
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động, tác động nhiều chiều đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của người cán bộ, đảng viên, việc cán bộ, đảng viên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trước hết, cán bộ, đảng viên thực hiện “trung với nước, hiếu với dân” với các nội dung sau:

Trung với nước phải thể hiện ở sự trung thành tuyệt đối với lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng, của tổ chức mà mình tham gia.
Trung với nước trước tiên là phải có niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng của Đảng và phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Niềm tin phải từ ý chí vươn lên thoát khỏi đói nghèo, khát vọng vươn lên hạnh phúc, giàu có và thịnh vượng, khát vọng được cống hiến cho xã hội, như Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Người cán bộ, đảng viên cần xây dựng niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào khả năng của mỗi con người để từ đó phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự chủ của cả dân tộc. Niềm tin đó phải được bồi dưỡng thường xuyên trên cơ sở khoa học và thực tiễn để trở thành niềm tin khoa học mang tính bền vững. Niềm tin đó là cơ sở cho sự trung thành đối với đất nước, dân tộc, đối với Đảng của cán bộ, đảng viên.

Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, nghiêm túc thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy định của cơ quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi cán bộ, đảng viên là một mắt xích trong hệ thống chính trị, thực hiện nhiệm vụ mà tổ chức giao. Vì vậy, cán bộ, đảng viên cần ý thức về vị trí, vai trò của mình trong hệ thống để thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm túc, trách nhiệm, chuẩn mực, đúng luật, đúng với quy định của tổ chức.

Cán bộ, đảng viên phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của đất nước, của tổ chức mình tham gia. Bởi lợi ích chung được bảo đảm thì lợi ích của bộ phận, cá nhân mới được bảo đảm. Phải luôn đặt việc công lên trên việc tư, luôn quy chiếu lời dạy của Hồ Chí Minh: “Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể luôn phải cân bằng, bảo đảm lợi ích chung và xem xét những lợi ích cá nhân có chính đáng hay không; tránh tư thù, tư lợi, bè phái, trù dập; vì cảm tình riêng, lợi ích riêng mà gây ra bất bình đẳng, bất công trong cơ quan, đơn vị.

Hiếu với dân trong điều kiện hiện nay là tôn trọng nhân dân, chăm lo lợi ích cho nhân dân, đặc biệt là không ngừng mở rộng dân chủ nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân.
Cán bộ, đảng viên muốn hoàn thành nhiệm vụ được giao thì phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Muốn vậy, phải biết gần dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, làm lợi cho dân. Ngoài phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên còn cần thể hiện thái độ khiêm tốn, thật thà đối với nhân dân.

Mở rộng dân chủ là nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu, động lực của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, được Đảng, Nhà nước luôn rất quan tâm. Mở rộng dân chủ là phương pháp để người dân ý thức tự nâng cao trình độ, nâng cao sự hiểu biết và tích cực, chủ động tham gia phản biện, giám sát Nhà nước. Vì vậy, càng đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên phải phục vụ người dân đúng chức trách, phải tuân thủ những chuẩn mực của đạo đức công vụ, phải tận tâm, tận lực. Mở rộng dân chủ cũng tạo điều kiện tăng cường đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Cán bộ, đảng viên cần coi mục tiêu chăm lo lợi ích cho nhân dân, làm lợi cho nhân dân là mục tiêu lớn nhất trong công việc của mình. Bởi nhân dân là nguồn lực xã hội mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Là những người có kiến thức khoa học, hiểu biết pháp luật, cán bộ, đảng viên cần chủ động hướng dẫn nhân dân học tập, lao động, sản xuất, xây dựng đời sống hạnh phúc, giàu mạnh và phát triển.

Cán bộ, đảng viên cần đi đầu trong hoạt động đền ơn, đáp nghĩa đối với những người có công với cách mạng, với đất nước, quê hương, thể hiện sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

“Trung với nước, hiếu với dân” không chỉ là trách nhiệm mà còn là đạo lý của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải chủ động, sáng tạo, hết lòng, hết sức làm tròn những việc được giao, nếu không làm tốt thì phải chịu trách nhiệm về những hậu quả của việc đó. Cán bộ, đảng viên thực hành đạo đức “trung với nước, hiếu với dân” là làm đúng đường lối của Đảng, quy định của pháp luật; làm đúng với đạo lý uống nước nhớ nguồn, mang lại lợi ích cho bản thân và cộng đồng. Thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, cán bộ, đảng viên, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”./.
Yêu nước ST.

CÙNG ĐỘC VÀ SUY NGẪM: ĐỀ NGHỊ CÁC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN GIẢI THÍCH RÕ?

     Chúng tôi, công dân nước CHXHCNVN yêu cầu Ban Tuyên giáo Trung Ương, Bộ Thông tin và Truyền thông trả lời: “chế độ cũ là chế độ nào? Được quy định ở đâu trong Hiến Pháp?
     Ngày 28/5/2024, hàng loạt báo chí truyền thông Cách mạng Việt Nam đồng loạt đưa tin về sự cố mà báo chí gọi là “gây tranh cãi” về sự xuất hiện của cờ 3 sọc ngụy Sài Gòn trên đầu giường của gia đình Giang Quốc Nghiệp và Lê Như Ngọc Mai (O sen Ngọc Mai), đang có chuyến du lịch và biểu diễn tại Mỹ.

     Việc sử dụng lá cờ ba sọc của tổ chức khủng bố, Việt gian bán nước, tay sai của đế quốc Mỹ và chư hầu, tội phạm chiến tranh này hiển nhiên là hành vi công khai phản bội Tổ Quốc, đây hoàn toàn không phải là hành vi “gây tranh cãi” như báo chí Truyền thông Cách Mạng Việt Nam đã nói. Phải chăng báo chí Việt Nam đang cố gắng giảm tội cho những kẻ thực tế đã phản bội Tổ Quốc và công khai chống lại Nhân dân Việt Nam? Nhưng vấn đề nghiêm trọng hơn không nằm ở sự cố bẩn thỉu, khi các nghệ sĩ có truyền thống cứ sang Mỹ và phương Tây là quay lại chống lại dân tộc, chống lại đất nước, nơi chôn nhao cắt rốn của họ, nuôi họ nên người, cho họ có được khả năng rạng danh trên thế giới và được hưởng thụ những lợi ích mà hàng chục triệu những Cựu chiến binh, nạn nhân chất độc màu da cam, nạn nhân chiến tranh, những nạn nhân đã bị Mỹ - ngụy tàn sát dã man trong cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo và bẩn thỉu nhất của lịch sử loài người.

     Vấn đề là hầu như tất cả các trang báo Truyền thông Cách mạng Việt Nam, nằm dưới quyền quản lý của Ban Tuyên giáo Trung Ương, thuộc quyền quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông đều sử dụng cụm từ “chế độ cũ”, “chế độ Sài Gòn cũ”, “việt nam cộng hòa”. Đây là hành vi công khai chống lại Hiến Pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến Pháp năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam là quốc gia có độc lập chủ quyền, liền một dải từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau, vậy cái gọi là “chế độ cũ” là chế độ nào? Theo các văn bản của Nước Việt Nam DC-CH và theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, ngụy quyền Sài Gòn là một tổ chức chính trị bất hợp pháp, Việt gian bán nước và tay sai của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ dựng lên nhằm xâm lược, nô dịch và tàn sát Nhân dân Việt Nam.
Do đó, hành vi sử dụng cụm từ “chế độ cũ”, “chế độ Sài Gòn cũ” là hành vi công khai chống lại Điều 1 và Điều 4 Hiến Pháp nước CHXHCNVN? 

     Vì sao truyền thông Việt Nam có quyền công khai vi phạm Hiến Pháp mà không phải chịu trách nhiệm Hình sự? Vì sao các cơ quan chức năng như Ban TGTW, Bộ TT&TT có được đặc quyền cho phép các cơ quan báo chí Việt Nam công khai vi phạm Hiến Pháp, xâm hại nguyên tắc Độc lập, Chủ quyền và Toàn vẹn Lãnh thổ của đất nước Việt Nam?

     Cần nhớ, cựu chủ tịch nước, cựu Trưởng ban TGTW Võ Văn Thưởng, khi chỉ đạo xây dựng bộ phim tài liệu VNTĐHCM-BNSTH cũng đã cho phép công khai sử dụng cụm từ “vnch”. Ông ta buộc phải từ chức do vi phạm “những điều đảng viên không được làm! Dường như việc chỉ đạo sử dụng cụm từ “vnch là một phần trong những điều “đảng viên không được làm” mà ông ta vi phạm.

     Cho đến nay, truyền thông Việt Nam đã rất nhiều lần công khai vi phạm Hiến Pháp, sử dụng cụm từ “vnch” “chính quyền Sài Gòn” “chế độ cũ”…Bộ GD&ĐT, trong chương trình GDPT năm 2018, sử dụng Sách giáo khoa do ông giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Minh Thuyết làm tổng chủ biên, sử dụng nguồn vay 80 triệu USD từ WB và IMF cũng công khai sử dụng cụm từ “chính quyền Sài Gòn” vi phạm Hiến Pháp, nhưng đến nay sách vẫn lưu hành và đầu độc nhân dân Việt Nam.

     Trong mọi tình huống, xét từ các mẫu như Đinh La Thăng, Trương Minh Tuấn và ví dụ gần đây nhất của các quan chức Việt Nam, dễ dàng nhận thấy, các hành vi tôn vinh, sùng kính những kẻ, những tổ chức Việt gian bán nước đều liên quan đến các vụ trọng án về tham nhũng, khi các quan chức đã có quá nhiều tiền và họ sử dụng quyền lực trong tay để tạo dựng maidan, bạo loạn, lật đổ nhằm rửa tiền và xin thẻ xanh, quốc tịch hai như Phạm Phú Quốc.

     Vậy có hay không hành vi dung túng chống phá Hiến Pháp Việt Nam nhằm mục đích gây dựng nguy cơ DBHB, bạo loạn lật đổ và khủng bố từ trên cao? Khi các cơ quan chức năng như Ban TGTW, Bộ TTTT đang thả lỏng cho báo chí Việt Nam sử dụng cụm từ “chế độ cũ, chế độ Sài Gòn cũ, việt nam cộng hòa”.

     Chúng tôi, công dân Nước CHXHCNVN yêu cầu Ban Tuyên giáo Trung Ương, Bộ Thông tin và Truyền thông trả lời?




Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỌC TẬP PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO BẰNG NÊU GƯƠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

     Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về tư chất, năng lực và phong cách lãnh đạo. Học tập phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của Người, đặc biệt là trong việc xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay!

Sự cần thiết của lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Nêu gương là việc thực hành để những giá trị của đạo đức và tài năng của người lãnh đạo được lan tỏa, truyền cảm hứng; qua đó, dẫn dắt, thúc đẩy mọi hành động của cấp dưới và người dân. Sự nêu gương của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị là mệnh lệnh không lời để thuyết phục cấp dưới noi theo. Sự yếu kém về nhân cách và phong cách lãnh đạo của người đứng đầu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy xấu cho hoạt động của cơ quan, đơn vị. Vì vậy, phát huy trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo trong các tổ chức của hệ thống chính trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Lãnh đạo bằng nêu gương là phương thức lãnh đạo khoa học, trí tuệ và nhân văn để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong mỏi. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”.

Phong cách Hồ Chí Minh dù là phong cách của vị lãnh tụ tối cao, nhưng cực kỳ gần gũi - “cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu” - mang đậm dấu ấn riêng. Cả cuộc đời Người là sự mẫu mực về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo dân chủ, khoa học, có kiểm tra, kiểm soát cụ thể, thường xuyên; về tác phong luôn gần dân, tin dân, trọng dân; ứng xử tinh tế trong thực hành đoàn kết, dựa vào nhân dân để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; về tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

Sau khi giành được chính quyền, với tư cách “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng”; theo đó, “Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”, “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Hiện nay, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu giữ vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù của đạo đức cách mạng, chống những nguy cơ suy thoái của cán bộ, đảng viên, nguy cơ đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Trong công cuộc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nêu gương trong tình hình mới, thì vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo luôn được Đảng ta chú trọng, ban hành các quy định cụ thể.  Các quy định, kết luận này đã kịp thời đáp ứng yêu cầu bức thiết của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tạo hiệu ứng tích cực. Bước đầu, việc thực hiện các quy định đã tạo chuyển biến tích cực, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ hơn về trách nhiệm nêu gương; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực. “Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực, nhất là vai trò tiền phong, gương mẫu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ, “Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”. Trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiệu quả chưa cao”. Tổng kết công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cho thấy: Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu. Các cán bộ bị kỷ luật đều có hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, các quy định của Đảng, Nhà nước và công tác cán bộ; vi phạm trong ban hành chủ trương, nghị quyết về đầu tư, góp vốn, chỉ định thầu, cổ phần hóa; thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát; tham nhũng, “lợi ích nhóm”; vụ lợi, ưu ái vun vén cho gia đình, người thân; không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, sử dụng bằng cấp không đúng quy định.

Điều đáng lưu ý là, ở một số địa phương, người đứng đầu chưa nghiêm túc thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo; không có chính kiến, quan điểm rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm; chưa tận tâm, tận lực, nhiệt huyết trong công việc; còn tình trạng mất đoàn kết nội bộ, nảy sinh mâu thuẫn cá nhân, ganh ghét, đố kỵ, so bì thiệt hơn,... Đặc biệt là, trong công cuộc phòng, chống dịch bệnh COVID-19, khi cả nước chung tay, gồng mình “chống dịch như chống giặc” thì vẫn còn một số cán bộ đứng đầu sở, ngành ở một số địa phương, bộ, ngành trung ương có hành vi xấu (không thực hiện nghiêm việc giãn cách xã hội, vi phạm trong đấu thầu mua trang, thiết bị y tế, kit xét nghiệm,...), bị kỷ luật, tạo dư luận tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm giảm uy tín tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nơi sinh hoạt, công tác; gây hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Rõ ràng, sự lãnh đạo bằng nêu gương đang bị thách thức và cuộc đấu tranh chống sự “thiếu gương mẫu”, “nêu gương xấu” của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách quyết liệt, triệt để, rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, cần phải tăng cường phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị; qua đó, góp phần củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Hiện nay, trước yêu cầu mới, việc noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa truyền thống quý báu của Đảng ta về nêu gương để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân, nhất là trong công cuộc đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh hiện nay. Việc xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng của Người có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần truyền cảm hứng, tạo dựng niềm tin và động lực để đội ngũ cán bộ, đảng viên nêu gương sáng trong phong cách, lề lối làm việc, trong ứng xử và phong cách sinh hoạt; từ đó, tạo ra sự lan tỏa và xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đại hội XIII của Đảng xác định, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh thì phải tăng cường “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”. Đặc biệt, để xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò tiên phong, gương mẫu của người lãnh đạo.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”, nên “chẳng những phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng, trong lúc gian khổ khó khăn, trong lúc thất bại, mà còn và càng phải rèn luyện và tu dưỡng trong lúc thuận lợi, trong lúc thành công”. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu đó là phải nâng cao nhận thức trên cơ sở khoa học về tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, về tầm quan trọng, vị trí, vai trò và nội dung nêu gương của đảng viên trước nhân dân với tư cách là những thành viên của Đảng tiên phong - Đảng cầm quyền.

Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo.
Tiếp tục nghiên cứu, chỉ đạo nghiêm túc việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của các tổ chức đảng, gắn với thực hiện Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII; các chỉ thị, quy định về nêu gương của Đảng, các quan điểm chỉ đạo và nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng. Các cấp ủy phối hợp với lãnh đạo cùng cấp tiếp tục chỉ đạo, lựa chọn các nhiệm vụ trọng tâm phù hợp với tình hình cụ thể, tập trung giải quyết và kiên quyết xử lý thỏa đáng những vấn đề nổi cộm, tồn đọng kéo dài gây bức xúc trong dư luận xã hội; đồng thời, xây dựng kế hoạch cụ thể để khắc phục những vấn đề đó; phải có thái độ kiên quyết theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng cần phải hết sức ngăn ngừa hiện tượng ấy, phải kịch liệt chống lại nó; phải tẩy những phần tử đã hủ hoá ra khỏi Đảng và cơ quan chính quyền, để giữ gìn tính trong sạch của Đảng và của chính quyền”(16). Xử lý nghiêm minh, kịp thời, không nể nang những kẻ vi phạm theo phương châm “quan phạm tội, xử nặng hơn thứ dân”, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.

Mặt khác, cần đặt vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên là một nội dung xem xét trong công tác tổ chức và bố trí cán bộ; hoàn thiện thể chế, quy định chuẩn mực về phong cách nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý từng cấp, từng ngành, từng đơn vị,... làm cơ sở cho đánh giá, giám sát, quản lý cán bộ. Tiếp tục cụ thể hóa để có thể đo lường lề lối, phong cách của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng cấp, từng ngành, từng đơn vị một cách phù hợp, làm cơ sở cho việc đánh giá, phân loại và giám sát cán bộ hằng năm theo Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, của Bộ Chính trị, “Về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.

Thứ ba, hoàn thiện mô hình đào tạo, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hướng tới xây dựng phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại đối với người đứng đầu.
Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu qua hoạt động thực tiễn; đặc biệt là đào tạo thông qua luân chuyển, xử lý tình huống, qua thực hiện hành vi chuẩn mực trước nhân dân và trong công việc; qua tự rèn luyện phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, giải quyết các vấn đề lãnh đạo một cách chuyên nghiệp, hiện đại. Theo đó, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo hướng có tinh thần tận tụy, gương mẫu, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực tìm tòi, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải gương mẫu, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, học tập suốt đời, học hỏi đồng nghiệp, học từ thực tiễn công việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ tư, tăng cường công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chủ động tham gia giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham mưu, góp ý với Đảng về những chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao và ngày càng hoàn thiện phẩm chất, năng lực, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; bảo đảm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”.

Phát huy vai trò của nhân dân đối với công tác cán bộ, tham gia giám sát phong cách lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp; tăng cường vai trò của báo chí trong tổng kết, cổ vũ, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, phê phán phong cách quan liêu, hách dịch của một bộ phận cán bộ, đảng viên có hành vi ứng xử đi ngược lại lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên có thể không bị lãnh đạo, hoặc cơ quan kiểm tra phát hiện kịp thời, nhưng không thể che giấu được trước trăm nghìn “tai mắt” của nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh bài học: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”. Từ đó, Đảng ta xác định, việc học tập phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, phù hợp với cương vị, nhiệm vụ, phẩm chất, trí tuệ, điều kiện của người lãnh đạo sẽ góp phần làm phong phú và đem lại hiệu quả thiết thực trong việc đổi mới phương thức, phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong điều kiện hiện nay./.
Môi trường ST.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người - Vận dụng vào chăm lo hạnh phúc con người Việt Nam hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc vĩ nhân đã hiến trọn đời mình cho hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp vĩ đại đó không chỉ bắt nguồn từ tình yêu thương con người, mà còn từ nhận thức sâu sắc của Người về hạnh phúc con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người thể hiện chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, là cơ sở lý luận cho nhận thức của Đảng về hạnh phúc của nhân dân và gợi mở những giải pháp thiết thực để hiện thực hóa lý tưởng đó vào đời sống đất nước hôm nay.

Bác Hồ thăm lớp học vỡ lòng. (Tranh của họa sĩ Đỗ Hữu Huề. Nguồn: nhandan.vn)
Bác Hồ thăm lớp học vỡ lòng. (Tranh của họa sĩ Đỗ Hữu Huề).
 Nguồn: nhandan.vn

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HẠNH PHÚC CON NGƯỜI

Mưu cầu hạnh phúc là khát vọng thường trực của con người, nên hạnh phúc có thể được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau, đặc biệt là từ phương diện triết học. Chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã làm một cuộc “cách mạng” trong quan niệm về hạnh phúc. Trước hết, triết học Mác phản đối những quan điểm mang tính thần bí, duy tâm của tôn giáo về hạnh phúc và khẳng định, con người cần được hạnh phúc trong thực tại. Trong bối cảnh xã hội tư bản đầy rẫy bất công thì “Hạnh phúc là đấu tranh” - đấu tranh chống áp bức giai cấp và dân tộc, chống cái ác, cái phản văn hóa để xây dựng xã hội cộng sản, mà ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Ngược lại với quan điểm cho rằng hạnh phúc là sự “nhận về”, là thụ hưởng cá nhân, C. Mác nhận định, người nào đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất thì đó là người hạnh phúc nhất. Quan niệm đó đã trở thành nhân sinh quan của C. Mác: “Nếu ta đã chọn một nghề mà qua đó ta có thể cống hiến nhiều nhất cho nhân loại, thì ta sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy bởi vì đó chính là sự hy sinh vì mọi người. Khi đó, niềm vui được hưởng không chỉ là một niềm vui ích kỷ, hẹp hòi và nhỏ nhen, mà hạnh phúc của ta sẽ thuộc về hàng triệu người”. Những quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan nói chung và nhận thức về hạnh phúc nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nổi bật nhất trong tư tưởng của Người về hạnh phúc là một số luận điểm chính sau:

Thứ nhất, con người chỉ có hạnh phúc khi dân tộc được độc lập, tự do.

Sinh ra trong bối cảnh “nước mất, nhà tan”, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu bi kịch của thân phận người dân mất nước - “vong quốc nô”. Chế độ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương hoàn toàn đối lập với ngọn cờ “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản Pháp. Với tất cả sự đau xót và căm phẫn, trong thư ngỏ gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp An-be Xa-rô, Nguyễn Ái Quốc đã mỉa mai, lên án: “Dưới quyền cai trị của ngài, dân An Nam đã được hưởng phồn vinh thật sự và hạnh phúc thật sự, hạnh phúc được thấy nhan nhản khắp trong nước, những ty rượu và ty thuốc phiện, những thứ đó song song với những sự bắn giết hàng loạt, nhà tù, nền dân chủ và tất cả bộ máy tinh vi của nền văn minh hiện đại, đã làm cho người An Nam tiến bộ nhất châu Á và sung sướng nhất trần đời”. Sống dưới chế độ phản động cùng cực đó, người dân các nước thuộc địa phải gánh chịu muôn vàn đau khổ, nên con đường tất yếu, duy nhất của họ là: Đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thành lập các quốc gia độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giúp dân tộc Việt Nam tái sinh, nhưng kẻ thù đế quốc vẫn nuôi dã tâm đàn áp, bắt nhân dân Việt Nam phải làm nô lệ. Với quan điểm hạnh phúc của mỗi người dân không thể tách rời nền độc lập dân tộc, nên khi thực dân Pháp “quyết cướp nước ta một lần nữa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Dù phải kháng chiến 5 năm, 10 năm, hay là lâu hơn nữa, để giữ gìn thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, để tranh lấy tự do và hạnh phúc cho giống nòi, chúng ta cũng quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng". Khi đế quốc Mỹ âm mưu dùng sức mạnh vật chất để hủy diệt ý chí thống nhất của dân tộc Việt Nam, Người đã đưa ra chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Theo lời hiệu triệu của Người, nhân dân Việt Nam đã tự nguyện dâng hiến, sẵn sàng hy sinh, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ niềm hạnh phúc của con người tự do.

Thứ hai, con người chỉ có hạnh phúc thực sự dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Hạnh phúc trước hết là hạnh phúc của nhân dân lao động. Ngay trong tác phẩm Đường Cách mệnh (năm 1927), Người đã khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Theo Người, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại khỏi lầm than, đem lại cho mọi người sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no mà không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc. Từ sự am hiểu sâu sắc đặc tính bản chất của các loại hình xã hội đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội là nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mọi phương diện, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho con người, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ góc độ lợi ích và tính ưu việt của chế độ mới, nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, mọi người đều có việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Người đã rút ra kết luận: “Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.

Thứ ba, mang lại hạnh phúc cho nhân dân là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì. Hạnh phúc luôn bao hàm sự thỏa mãn, hài lòng khi được hưởng thụ giá trị vật chất và tinh thần xứng đáng, khi được làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Người cũng thấu hiểu, nhân dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi được ăn no, mặc đủ. Chính vì vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tuyên bố “các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người” thì tất yếu Chính phủ có trách nhiệm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hiện dân quyền; trong đó, làm cho người dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có điều kiện học hành là nhiệm vụ cấp bách nhất. Sự hài lòng về chính thể cũng mang lại cho nhân dân niềm hạnh phúc, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan của Chính phủ phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Luôn tâm niệm, coi hạnh phúc của nhân dân là lý tưởng duy nhất của Đảng nên trong bản Di chúc thiêng liêng, Người đã căn dặn, Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

Lễ cưới tập thể dành cho công nhân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn được Trung tâm Hỗ trợ thanh niên công nhân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. (Nguồn: tuoitre.vn) 

Thứ tư, muốn có hạnh phúc, toàn dân phải đoàn kết phấn đấu và cán bộ phải biết hy sinh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải dựa vào nhân dân để đem lại hạnh phúc cho nhân dân, bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Do nước ta còn nghèo nên Người nhắn nhủ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Nói về sự cần thiết phải quy tụ sức dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng hình ảnh: “Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả”. Nếu mỗi người dân đều tự giác làm lợi cho đất nước thì “nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to”, nhất định đất nước sẽ giàu và người dân sẽ được hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây không chỉ là sự thụ hưởng, mà còn là hạnh phúc của con người tự tạo dựng cuộc đời mình; bởi lẽ, người nào chỉ biết trông chờ vào hạnh phúc “từ trên trời rơi xuống” sẽ không xứng đáng được hưởng hạnh phúc và sự thật là không thể có hạnh phúc.

Khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất kiên trì giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; bởi vì, nếu cán bộ tha hóa thì lợi ích, hạnh phúc của nhân dân sẽ bị tước đoạt. Người nói rõ: “Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”. Khi yêu cầu cán bộ, đảng viên thực hành đức hy sinh để phụng sự nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, sự hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân là niềm hạnh phúc to lớn; vì thế, “ta đã biết cần phải chịu khổ, thì ta chịu một cách vui vẻ, dần dần ta sẽ không lấy làm khổ... chúng ta vì nước, vì dân mà chịu khổ, một cái khổ rất có giá trị, thì vật chất càng khổ tinh thần càng sướng”.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hạnh phúc rất sâu sắc, không chỉ thông qua những quan điểm đầy tính khoa học, nhân văn, mà còn được bảo chứng bởi cuộc đời trọn vẹn đức hy sinh của Người. Người đã nói về trách nhiệm của mình trước dân tộc: “Vì yêu mến và tin cậy tôi, mà đồng bào giao vận mệnh nước nhà, dân tộc cho tôi gánh vác. Phận sự tôi như một người cầm lái, phải chèo chống thế nào để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi đến bờ bến hạnh phúc của nhân dân”. Suốt đời phấn đấu, hy sinh trọn vẹn cho hạnh phúc của nhân dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong lòng nhân dân.

CHĂM LO HẠNH PHÚC CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi Đại hội thời kỳ đổi mới lại là một “nấc thang” trong tiến trình nhận thức của Đảng ta về hạnh phúc của nhân dân. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh, đổi mới được tiến hành với tinh thần “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”. Trước sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa; bởi vì nhận thấy rõ, “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới mang lại cơm no áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân”. Đề cao giá trị hạnh phúc nên Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đều xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội mà trong đó, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Đảng ta không chỉ nhấn mạnh trách nhiệm của nhân dân trong công cuộc phấn đấu vì hạnh phúc của chính mình, mà còn lấy hạnh phúc của nhân dân làm thước đo đạo đức đảng viên khi khẳng định: “Phẩm chất cao quý của người cộng sản là... suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, vì độc lập của Tổ quốc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, trong đó có bản thân và gia đình mình”.

Đến Đại hội XIII của Đảng, hạnh phúc của nhân dân trở thành “âm hưởng chủ đạo” và được đề cập dưới nhiều góc độ. Đại hội đúc kết, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” là bài học quý báu; xác định “khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là động lực to lớn để phát triển đất nước; đồng thời, nhấn mạnh “nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” là một nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ.

Tuy nhiên, hiện nay việc bảo đảm hạnh phúc của nhân dân đang gặp không ít trở lực, khó khăn. Trên thế giới, nguy cơ về đe dọa vũ khí hạt nhân, xung đột vũ trang, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... đang là mối đe dọa lớn đối với sinh mệnh, sức khỏe và đời sống sản xuất của toàn nhân loại. Ở trong nước, ô nhiễm môi trường, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và sự yếu kém trong giải quyết các vấn đề xã hội ở một số nơi, sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội, sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo, tệ nạn xã hội, tội phạm... cũng gây ra nhiều trở ngại để người dân tiếp cận hạnh phúc. Đối ngược với sự bất cập đó là nhu cầu hạnh phúc ngày càng lớn của người dân và xu thế đề cao hạnh phúc của nhân loại. Năm 2012, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã lấy ngày 20-3 (ngày duy nhất mà mặt trời nằm ngang đường xích đạo, độ dài ngày đêm bằng nhau) là ngày Quốc tế Hạnh phúc (International Day of Happiness) để truyền đi thông điệp: Mưu cầu hạnh phúc là mục tiêu cơ bản của con người; hạnh phúc và thịnh vượng là các mục tiêu và khát vọng phổ quát của con người và tầm quan trọng của việc thừa nhận điều này trong các mục tiêu của chính sách công; cần có cách tiếp cận toàn diện, công bằng và cân bằng hơn đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo, hạnh phúc và thịnh vượng của mọi dân tộc. Việt Nam là một trong gần 200 quốc gia cam kết hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh phúc. Ngày 26/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2589/-TTg “Phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hằng năm””. Do đã trải qua thời kỳ chiến tranh ác liệt kéo dài và thời kỳ bao cấp khốn khó, nên khát vọng hạnh phúc, ấm no của nhân dân Việt Nam là rất mãnh liệt. Vì thế, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc đem lại hạnh phúc cho nhân dân lại càng trở nên cấp bách. Theo đó, từ tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người, cần đặc biệt chú trọng các giải pháp sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức về hạnh phúc của nhân dân cả từ phía Đảng, Nhà nước và người dân.

Hạnh phúc là hợp điểm giữa điều kiện khách quan và cảm nhận chủ quan. Về mặt khách quan, hạnh phúc là những giá trị vật chất, tinh thần tốt đẹp mà quốc gia, cộng đồng xã hội cần tạo lập để bảo đảm cho người dân có được một cuộc sống an lành, đầy đủ. Về mặt chủ quan, hạnh phúc là trạng thái tinh thần tích cực, thể hiện sự hài lòng của chủ thể trước bối cảnh, điều kiện tự nhiên, xã hội, gia đình và bản thân. Vì thế, để hiện thực hóa khát vọng về hạnh phúc thì phải nâng cao nhận thức về hạnh phúc cả từ phía lực lượng lãnh đạo, quản lý đất nước và người dân.

Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm phụng sự nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hạnh phúc nhân dân với tư cách là động lực, mục tiêu của cách mạng, mà còn phải thấm nhuần chân lý: Người hiến dâng nhiều nhất sẽ là người hạnh phúc nhất. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết rằng: “Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng”. Nếu người cán bộ, đảng viên biết vượt lên trên cái “tôi” của mình để hiến dâng cho nhân dân và đất nước thì họ sẽ là người hạnh phúc, vì tượng đài vững chắc nhất chính là ở trong lòng nhân dân.

Đối với nhân dân, hạnh phúc không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố “bên ngoài”, mà còn phụ thuộc vào yếu tố “bên trong”; chính là tâm hồn, khả năng nhận thức của họ về hạnh phúc. Người nào cho rằng, bản thân không thể hạnh phúc thì người ấy đã tự tước đi cơ hội hạnh phúc của chính mình. Ngược lại, một người coi hạnh phúc không chỉ là đích đến, mà là quá trình đến đích; hạnh phúc là sự chia sẻ, yêu thương, là biết “đủ”, biết làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh, biết khoan dung với người, với mình, biết coi khó khăn là một phần tất yếu của cuộc sống... thì người đó sẽ được an nhiên, hạnh phúc. Nhìn chung, để “hạt giống hạnh phúc nở hoa”, mỗi người phải có một tâm thế đúng. Vì thế, tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị sống đúng đắn, khơi dậy khát vọng cống hiến trong mỗi con người cũng là trách nhiệm cao cả của Đảng, Nhà nước.

Hai là, hoàn thiện thể chế về quyền con người và cơ chế nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân.

Con người hạnh phúc phải là con người tự do và có cảm nhận an toàn khi các quyền của họ được hiến định đầy đủ về mặt pháp lý và được thực thi trong thực tiễn. Việt Nam từng là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 và hiện nay là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025; điều này chứng tỏ, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực mở rộng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, muốn nhân dân được hưởng đầy đủ các quyền hợp pháp, chính đáng của mình như quy định của Hiến pháp, Nhà nước phải có kế hoạch lập pháp dài hạn để hiện thực hóa các quyền trong Hiến pháp.

Chăm lo giáo dục thế hệ mai sau. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)

Trong thế giới hiện đại, hạnh phúc không chỉ là sự cảm nhận đơn thuần, mà ngày càng mang tính định lượng. Một số tổ chức quốc tế và nước ngoài đã đề xuất các đại lượng cơ bản để đo lường hạnh phúc, như Chỉ số hạnh phúc (Happiness Index, viết tắt là HI), Chỉ số Hạnh phúc hành tinh (Happy Planet Index, viết tắt là HPI) và Báo cáo Hạnh phúc thế giới (World Happiness Report, viết tắt là WHR)... Trong xu hướng chung, Việt Nam đã thử nghiệm xây dựng Chỉ số hạnh phúc quốc gia của Việt Nam (Vietnam’s National Happiness Index, viết tắt là VNHI), được tính toán trên cơ sở bốn nhóm tiêu chí về kinh tế, xã hội, môi trường, hiệu quả quản trị và hành chính công. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và qua đó, cụ thể hóa chương trình hành động của từng đơn vị trong hệ thống chính trị để nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của nhân dân.

Thực tế đã chứng minh, giàu có chưa chắc đã hạnh phúc, nhưng điều chắc chắn là trong một đất nước đói nghèo thì người dân không thể có hạnh phúc; sự tăng trưởng kinh tế luôn là điều kiện “gốc” để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Ở Việt Nam, khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Mong muốn nhân dân được ấm no, sung sướng, dân tộc cường thịnh, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành “nước phát triển, thu nhập cao”. Để đạt mục tiêu đó, lúc này, Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường đầu tư cho khoa học, công nghệ, giáo dục, chú trọng bảo vệ môi trường để bảo đảm cả hai yêu cầu trong chiến lược phát triển kinh tế là vừa “nhanh”, vừa “bền vững”.

Bốn là, tiếp tục phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Do dân chủ vừa là động lực phát triển, vừa là điều kiện của hạnh phúc nên Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung một nội dung mới, quan trọng, đó là “dân thụ hưởng”, để hình thành phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(16). Việc đề cao yếu tố “dân thụ hưởng” sẽ góp phần “khai thông” nguồn lực vô tận trong nhân dân, thúc đẩy đất nước phát triển mạnh mẽ để người dân tiếp tục thụ hưởng và cống hiến.

Hạnh phúc của người dân luôn bao hàm sự hài lòng về chế độ, đặc biệt là chất lượng dịch vụ công. Chính thái độ và phong cách làm việc của đội ngũ công chức có thể làm cho người dân yên tâm hay lo lắng, tin tưởng hay nghi ngờ vào bộ máy công quyền. Do vậy, phải chú trọng nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, nỗ lực làm trong sạch bộ máy công quyền, nâng cao đạo đức công vụ; vì thực tế đã cho thấy, sự trục lợi của cán bộ có chức, có quyền đã làm vô hiệu hóa các chính sách vì con người của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng chính phủ điện tử để nâng cao tính minh bạch của nền hành chính công, tránh cho người dân những cảm xúc tiêu cực... cũng là nhiệm vụ cấp thiết.

Năm là, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an ninh con người, an sinh xã hội.

Sự bất công là nguồn gốc của xung đột xã hội, tạo ra nguy cơ đe dọa sự ổn định của đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng rõ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Yêu cầu đặt ra là Nhà nước có chính sách phù hợp để kiểm soát việc phân tầng xã hội, tiếp tục thực hiện chiến lược “xóa đói, giảm nghèo” bền vững, cải cách tiền lương, nâng mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng chính sách... Đặc biệt, cần nhận thức sâu sắc rằng, tham nhũng là biểu hiện rõ nhất của sự bất công, nên phải đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, chống thất thoát để dồn nguồn lực cho phát triển và gia tăng phúc lợi xã hội.

Vấn đề an ninh con người cần được chú trọng, bởi con người không thể hạnh phúc nếu luôn cảm thấy bất an vì tệ nạn xã hội, mất an toàn thực phẩm, mất an toàn giao thông hay nguy cơ dịch bệnh, thiên tai rình rập... Thế giới đang phải đối diện với hiện tượng mới là “tị nạn khí hậu” và Việt Nam là một quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, nên Nhà nước phải có kế hoạch, nguồn lực để ứng phó hiệu quả. Đây là những vấn đề lớn mà người dân không thể tự mình giải quyết được và Nhà nước phải thực hiện trách nhiệm bảo hộ công dân của mình trên tinh thần “an dân, trị quốc”.

Khi các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội có điều kiện sống khác biệt nhau, thì để thực hiện phương châm “không để ai tụt lại phía sau” và mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả của đổi mới, Nhà nước phải xây dựng hệ thống an sinh xã hội nhiều tầng nấc, giúp người dân giảm thiểu rủi ro và chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau; phải có chính sách thiết thực hơn nữa để nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam; nền y tế Việt Nam phải xác định luôn lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm trọng tâm.

Tầm vóc tư tưởng của một nhà hiền triết luôn thể hiện ở mức độ quan tâm đến con người, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư, hành động và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhà hiền triết với nghĩa cao quý đó. Dân tộc, đất nước Việt Nam có niềm hạnh phúc là nơi sản sinh ra con người vĩ đại Hồ Chí Minh. Để cho hạnh phúc ấy được vững bền, nhân lên gấp bội, mỗi người Việt Nam, trước hết là cán bộ, đảng viên, phải thấm nhuần và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, nỗ lực sống một cuộc đời hữu ích, góp phần xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; bởi lẽ, hạnh phúc của nhân dân chính là thước đo chuẩn xác nhất về tính ưu việt của chế độ xã hội và năng lực, bản lĩnh của đảng cầm quyền./.

ST.