Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020
Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng chúng ta vẫn có thể nói rằng "Đảng ta thật là vĩ đại"
âm mưu của kẻ thù và hành động của chúng ta?
Mưu đồ chiến lược của TQ ở Biển Đông
Thứ nhất, lợi ích của Biển Đông là về vấn đề kinh tế, đầu bảng là tài nguyên dầu khí, sau đó là băng cháy. Khu vực Đông Nam Á có lượng băng cháy cực lớn. Đây là nguồn năng lượng của tương lai, có thể sử dụng trong nhiều thế kỷ, theo tính toán sơ bộ là khoảng 800 năm tới. Đây là nguồn năng lượng tuyệt vời. Do đó, TQ nhìn vào nguồn băng cháy như một loại tài nguyên thay thế cho dầu khí đang dần trở nên cạn kiệt.
Thứ hai, Biển Đông được xác định là
một trong 4 khu vực đánh cá chủ yếu của ngư dân TQ.
Thứ ba, Biển Đông cũng được xác định
là con đường sinh mệnh của nền kinh tế TQ. Trong số 27 tuyến vận tải của TQ, 17
trong số đó nằm ở Biển Đông. Biển Đông giúp kết nối TQ với 125 nước và vận
chuyển 3/4 lượng dầu nhập khẩu vào nước này.
Về an ninh quốc phòng, đây là một
bức trường thành tự nhiên trên biển. Biển Đông như một vành đai quân sự, phòng
thủ, là rào cản an ninh để ngăn chặn những rủi ro và uy hiếp từ bên ngoài.
Về mặt địa chiến lược, TQ xác định
Biển Đông như sân sau, nơi tập dượt của hải quân TQ để tiến ra thế giới bên
ngoài.
Biển Hoa Đông ở phía đông TQ quá
nông, lại có một đối thủ khó nhằn là Nhật Bản án ngữ phía ngoài. Còn đối với
Biển Đông, vùng biển này rộng 3,4 triệu km2, độ sâu trung bình là 1.400 mét và
có rất nhiều rãnh sâu. Đây là địa điểm tuyệt vời cho sự hoạt động của các loại
tàu ngầm.
Muốn thành bá chủ toàn cầu, TQ phải
trở thành cường quốc trên biển. Điều này chỉ có thể thực hiện được ở Biển Đông,
vùng biển mà xung quanh đó toàn các quốc gia nhỏ bé. Về mặt địa chiến lược, đây
là cửa ngõ duy nhất, là bàn đạp để TQ đi ra thế giới bên ngoài. Do vậy, trong
cái nhìn đại chiến lược của người TQ, Biển Đông có lợi ích sống còn.
Trung Quốc sắp đặt Biển Đông trong chiến
lược an ninh - phát triển như thế nào?
Từ các văn kiện Đại hội Đảng, chương
trình nghị sự của chính phủ và thông tin chính thức từ phía TQ, nước này xác
định Biển Đông là một phần quan trọng, cũng là điểm khởi đầu cho con đường tơ
lụa trên biển. Con đường này là trọng tâm của sáng kiến Vành đai - Con đường.
Sáng kiến này là một phần của giấc mơ chấn hưng TQ.
Biển Đông là một phần của chiến lược
biến TQ thành một cường quốc biển. Một quốc gia muốn tiến vào vị trí trung tâm
quyền lực chính trị của thế giới thì không thể không trở thành một cường quốc
biển.
Chính giới TQ đã lồng ghép vấn đề
Biển Đông vào mục tiêu trăm năm, coi đó là việc triển khai thực hiện giấc mộng
Trung Hoa. Nước này thậm chí còn đưa vấn đề chủ quyền và lợi ích trên biển
thành một trong những lợi ích cốt lõi của TQ, tương tự như vấn đề Đài Loan, Tân
Cương và Tây Tạng. Tần suất TQ đưa ra lời khẳng định các đảo ở Biển Đông thuộc
về mình từ ngàn đời đang không ngừng tăng lên.
Nguyên thủ các quốc gia trên thế
giới thường ít nói về vấn đề chủ quyền. Thay vào đó, họ thường để cho những cơ
quan có thẩm quyền lên tiếng. Tuy nhiên, liên tiếp trong năm 2016, Chủ tịch TQ
đã 3 lần phát biểu câu chuyện này ở nước ngoài, điều trước đây chưa từng có đã
thể hiện sự quan tâm đến mức tối đa của TQ đối với vấn đề Biển Đông.
Bên cạnh đó, cơ quan truyền thông
nhà nước TQ liên tục khẳng định rằng nước này không có gene xâm lược, không xâm
phạm vào lợi ích của các nước khác, thế nhưng TQ sẽ không bao giờ từ bỏ quyền
lợi của mình.
Năm 2021, TQ sẽ diễn ra sự kiện kỷ
niệm 100 năm thành lập Đảng. Cùng với các sự kiện lớn này, TQ sẽ tiến hành
nhiều hành động lớn, tình hình Biển Đông vì thế cũng sẽ liên quan đến câu
chuyện này.
TQ không đem lợi ích cốt lõi ra trao
đổi, không có chuyện nhân nhượng, thỏa thuận và từ bỏ tham vọng Biển Đông. Đây
là một thông điệp rất rõ ràng.
Chủ tịch TQ từng có một câu nói mà
chúng ta cần phải lưu ý: “Quân đội TQ triệu tập là có, đến là có thể đánh và
đánh là có thể thắng, để bảo vệ chủ quyền và các quyền liên quan ở Biển Đông”.
Vậy vài chục năm nữa Biển Đông sẽ
như thế nào? Biển Đông sẽ có thể lúc nóng, lúc lạnh, lúc căng thẳng
lúc hòa hoãn. Tất nhiên, chúng ta cần có những nhìn nhận đúng đắn, có những
động thái kiên quyết đối với vấn đề này; để chúng ta không để bị động, bất ngờ./.
Đã đoàn kết rồi thì phải tiếp tục đoàn kết hơn nữa
Trong bài viết mới đây với nhan đề: “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội 13 của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhắc lại lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa”.
Ngày 3/4/1960, trước khi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 3 của Đảng 5 tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Một cách thảo luận dự thảo Điều lệ Đảng” đăng trên Báo Nhân Dân. Bài báo có đoạn viết: “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa. Cho nên, toàn thể đồng chí ta phải thảo luận kỹ càng các đề án và đóng góp ý kiến dồi dào, để đảm bảo đại hội thành công thật tốt đẹp”. Đây chính là bài học xây dựng đảng của Đảng ta mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết- Thành công, thành công, đại thành công".
Mỗi lần Đại
hội là dịp để nhìn lại công việc Đảng đã làm, xác định phương hướng, nhiệm vụ
trong những nhiệm kỳ tới. Chính vì thế, với một tinh thần thẳng thắn, nhìn thẳng
sự thật, phát hiện ra sự thật và nói đúng sự thật để tìm ra nguyên nhân và biện
pháp, phương hướng khắc phục. Đó vừa là những cơ hội vừa là điều kiện làm cho Đảng
ta mạnh hơn, vĩ đại hơn, xứng đáng với niềm tin tưởng của Nhân dân. Cho nên Đại
hội được coi là dịp để giữ vững, tăng cường đoàn kết, để tinh thần “đã đoàn kết
rồi thì phải tiếp tục đoàn kết hơn nữa”./.
VÌ SAO VIỆT NAM ĐỀ XUẤT LẬP TRUNG TÂM GÌN GIỮ HOÀ BÌNH
Đánh giá cao các sĩ quan "mũ nồi
xanh" Việt Nam, Liên Hợp Quốc "gợi ý chúng ta thành lập Trung tâm
nâng cao năng lực gìn giữ hoà bình khu vực", theo đại diện Bộ Quốc phòng.
Theo Thiếu
tướng Hoàng Kim Phụng – Cục trưởng gìn giữ hòa bình Việt Nam (Bộ Quốc phòng)
cho biết:
Việt Nam đề xuất thành lập Trung tâm gìn
giữ hòa bình khu vực châu Á Thái Bình Dương? Bởi vì
- Việt Nam đưa ra đề xuất này từ gợi ý
của Liên Hợp Quốc. Chúng ta tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình muộn so với
nhiều nước, nhưng được các quốc gia liên quan và Liên Hợp Quốc đánh giá là đạt
kết quả xuất sắc.
Sáu năm qua, Việt Nam đã cử hàng trăm sĩ
quan đi làm nhiệm vụ bảo vệ hòa bình Liên Hợp Quốc (các Phái bộ ở châu Phi).
Trong 30 sĩ quan đã hoàn thành nhiệm vụ trở về thì 10 người khi kết thúc nhiệm
kỳ được đánh giá 11/11 tiêu chí xuất sắc (chiếm 33%). Tỷ lệ này thường là 1-2%
ở các quốc gia khác.
Các sĩ quan nữ đang tham gia gìn giữ hòa
bình trong đội hình bệnh viện dã chiến là 10/63 (15,8%), nữ sĩ quan hoạt động
cá nhân là 2/10 (20%). Trong khi đó tỷ lệ bình thường các nước đạt 5-10% đã
được Liên Hợp Quốc đánh giá cao.
Có thể nói, kết quả xuất sắc của các sĩ quan
Việt Nam làm nhiệm vụ tại Phái bộ đã chứng minh năng lực huấn luyện, chuẩn bị
lực lượng của chúng ta và gây ấn tượng rất tốt với các bên liên quan.
Tại cuộc hội đàm trực tuyến với Phó tổng
thư ký Liên hợp quốc Atul Khare hồi tháng 7, lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã chia sẻ
mong muốn Liên Hợp Quốc cùng Việt Nam xây dựng Trung tâm gìn giữ hòa bình khu
vực với hình thức phù hợp.
Nếu được thành lập, Trung tâm đặt tại
Việt Nam sẽ là nơi huấn luyện, chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao năng lực của các
lực lượng như công binh, quân y, ngoại ngữ, pháp luật, phụ nữ tham gia gìn giữ
hòa bình Liên Hợp Quốc... Bước đầu một số quốc gia đối tác rất hào hứng với
sáng kiến này của Việt Nam. Họ chờ đợi Liên Hợp Quốc và Việt Nam xác định mô
hình phù hợp và sẽ sẵn sàng tham gia.
Hiện nay, Cục Gìn giữ Hoà bình Việt Nam
có một Trung tâm huấn luyện đào tạo lực lượng trong nước đi làm nhiệm vụ
"mũ nồi xanh". Quy mô huấn luyện sẽ lớn hơn nếu Trung tâm được mở
rộng ra cấp khu vực và được sự hậu thuẫn của Liên Hợp Quốc, các quốc gia thành
viên.
- Tháng 4/2018, đoàn kiểm tra của Liên
Hợp Quốc đến khảo sát Cục gìn giữ hoà bình Việt Nam, tìm hiểu lịch trình, giáo
án, chương trình huấn luyện, và bày tỏ rằng rất tâm đắc. Họ nói Việt Nam đào
tạo lực lượng phù hợp tiêu chí của Liên Hợp Quốc, nâng cao năng lực, kỹ năng
mềm để bộ đội xử lý công việc ở từng vị trí như sĩ quan tham mưu, sĩ quan phân
tích tình báo, quan sát viên quân sự...
Cục gìn giữ hoà bình Việt Nam cũng có
những biện pháp đáp ứng hậu cần tại chỗ, khả năng khắc phục khó khăn, thích ứng
địa bàn, có những kế hoạch tác chiến để đảm bảo an ninh an toàn khi thực hiện
nhiệm vụ. Ngoài ra, sĩ quan Việt Nam còn có phẩm chất chính trị, kỷ luật rất
tốt. Lúc đó, Liên Hợp Quốc đã chọn Cục gìn giữ hòa bình Việt Nam là một trong
bốn trung tâm của ASEAN đạt chuẩn quốc tế cho chương trình hợp tác 3 bên giữa
Liên Hợp Quốc - Nhật Bản - Việt Nam.
- Sau chuyến khảo sát nói trên của Liên
Hợp Quốc, Việt Nam đã triển khai ba khóa huấn luyện ba bên. Khóa gần đây nhất
là tháng 3/2020 khi bắt đầu có đại dịch Covid-19. Nhật Bản là nước tài trợ
chương trình đã đánh giá rất cao Việt Nam. Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản đề
nghị tham dự hội nghị khai mạc khóa huấn luyện 1,5 tháng này cùng Thượng tướng
Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng tại Cục gìn giữ hòa bình Việt Nam. Ba
khóa huấn luyện ba bên của Việt Nam rất thành công trong huấn luyện công binh
hạng nặng với 29 giảng viên Nhật Bản sang tham dự và triển khai. Phó tổng thư
ký Liên hợp quốc Atul Khare đã gửi thư khen kết quả của lớp đào tạo hợp tác ba
bên này.
Chúng tôi cũng đào tạo được khóa 25 học
viên của 5 quốc gia tại Việt Nam. Đó là những thành công lớn mà các quốc gia
trong ASEAN nói riêng và trong lĩnh vực gìn giữ hoà bình nói chung rất ngưỡng
mộ. Họ muốn Việt Nam trở thành một trong những trung tâm quốc tế và khu vực về
huấn luyện gìn giữ hoà bình.
Để đáp lại nguyện vọng của các quốc gia
và cũng phản ánh được thực tế Việt Nam, dù tham gia gìn giữ hoà bình Liên Hợp
Quốc muộn nhưng đạt kết quả xuất sắc, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ
phải xây dựng Cục gìn giữ hoà bình Việt Nam trở thành trung tâm nâng cao năng
lực gìn giữ hoà bình tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Những điểm nổi bật trong phiên tòa sơ thẩm vụ án Đồng Tâm
Trải qua bốn ngày xét xử, phiên tòa được ghi nhận với những
chuyển biến tích cực của các bên tham gia tố tụng. Những chuyển biến đó được
thể hiện ở sự điều hành hợp lý, sáng tạo của Hội đồng xét xử; sự ghi nhận, điều
chỉnh phù hợp của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân; và trên hết là sự thành
khẩn, ăn năn hối cải của các bị cáo tại phiên tòa
Xem xét lời khai bằng hình ảnh Tại phần
xét hỏi, Hội đồng xét xử đã cho trình chiếu các clip nêu tóm tắt toàn bộ quá
trình tranh chấp đất đai ở Đồng Tâm, Mỹ Đức; hành vi sai phạm của các bị cáo
vào rạng sáng 9/1/2020 dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, làm 3 cán bộ, chiến sĩ
công an hy sinh. Trong đó có các đoạn clip dẫn chứng lời khai của các bị cáo
tại cơ quan điều tra.
Điều đáng nói, thông qua những lời khai này đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn trong lời
khai của chính các bị cáo tại phiên tòa. Qua đó, nhiều bị cáo đã tự nhận thức
sai phạm, thừa nhận hành vi phạm tội và xin được Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình
phạt.
Chiều 7/9, trình bày tại tòa, bị cáo Bùi Viết Hiểu khai về nguồn gốc đất ở đồng
Sênh và bị cáo cho một phần trong đó là đất nông nghiệp. Trước lời khai này,
Hội đồng xét xử đã cho trình chiếu clip lời khai của bị cáo Hiểu tại cơ quan
điều tra và công bố đơn của bị cáo Hiểu gửi Hội đồng xét xử sáng 7/9, ngay
trước khi bắt đầu phiên tòa. Trong đó, bị cáo Hiểu xin được giảm nhẹ tội, đồng
thời nêu rõ việc bị cáo đã ký bàn giao đất, nhận đủ tiền bồi thường và thừa
nhận đất đồng Sênh là đất quốc phòng. Sau sự đối chiếu này, sáng 8/9, bị cáo
Hiểu đã xin lỗi Hội đồng xét xử vì đã khai sai về nguồn gốc đất ở đồng Sênh.
Tiếp đó, bị cáo Hiểu khai, bị cáo tích cực tham gia "Tổ
đồng thuận" nhằm mục đích phòng chống tham nhũng tại địa phương. Tuy
nhiên, khi Hội đồng xét xử công bố clip lời khai của bị cáo Hiểu tại cơ quan
điều tra, trong đó bị cáo lại khai cảm thấy mệt mỏi, muốn xin ra khỏi "Tổ
đồng thuận", nhưng Lê Đình Kình cản: "đã trót đâm lao thì phải theo
lao" nên bị cáo tiếp tục tham gia cùng nhóm này. Trước mâu thuẫn đó, bị
cáo Hiểu đã phải thừa nhận lời khai tại cơ quan điều tra là đúng sự thật.
Tại Tòa, bị cáo Hiểu tiếp tục khai tối 8/1/2020 bị cáo lên nhà Lê Đình Kình ngủ
vì lo sợ "xã hội đen" sẽ thuê người bắt cóc, nên tới đó để "lánh
nạn". Nhưng lời khai trong clip trình chiếu tại tòa, bị cáo Hiểu lại khai
do Lê Đình Công gọi sang nhà Lê Đình Kình ngủ nên bị cáo đi. Trước sự mâu thuẫn
này, sáng 8/9, bị cáo Hiểu xin khai lại và thừa nhận sự thật là do Lê Đình Công
gọi sang nhà Lê Đình Kình ngủ nên bị cáo Hiểu đi. Bị cáo Hiểu xin lỗi Hội đồng
xét xử về những lời khai này và mong cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp
luật.
Trước tòa, bị cáo Lê Đình Chức khai nhận đã thực hiện các hành vi là nguyên
nhân trực tiếp khiến 3 cán bộ, chiến sĩ công an hy sinh như: sử dụng tuýp sắt
có gắn dao bầu chọc nhiều lần vào lực lượng công an; chỉ đạo Lê Đình Doanh mang
chậu xăng lên đổ xuống hố - nơi có 3 cán bộ, chiến sĩ công an rơi xuống. Đồng
thời, bị cáo Chức cũng khai nhận bản thân là người nhiều lần đổ xăng xuống hố.
Ngoài lời khai của bị cáo Chức, Hội đồng xét xử đã cho trình chiếu các hình ảnh,
clip diễn biến đêm xảy ra vụ án. Bị cáo Chức đã thừa nhận trong đó có hình ảnh
của mình sử dụng các loại hung khí chống đối lực lượng công an.
Trong phần tranh tụng, một số luật sư đặt câu hỏi về nguồn gốc các clip trình
chiếu tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát cho biết những clip này được lấy từ
2 nguồn: Một nguồn công khai do các cơ quan báo chí, phóng viên phỏng vấn và đã
công chiếu trên truyền hình cho nhân dân cả nước đều biết, có giá trị chứng
minh nên Cơ quan điều tra đã thu thập; một nguồn khác được thực hiện trong quá
trình hỏi cung, ghi lời khai của các bị cáo theo quy định tại Điều 183 – Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 2015, có thể ghi âm, ghi hình song song với ghi lời
khai trong các bút lục của hồ sơ.
Những ghi nhận kịp thời của Viện Kiểm sát nhân dân
Trong vụ án này, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ra cáo trạng truy
tố 29 bị cáo, trong đó có 25 bị cáo bị truy tố về tội "Giết người".
Đánh giá tổng thể quá trình xét hỏi, đại diện Viện Kiểm sát nhận thấy hành vi
của 25 bị cáo này có đủ căn cứ cấu thành tội "Giết người" thông qua
việc góp tiền mua lựu đạn, mua xăng, làm bom xăng, làm bùi nhùi tẩm xăng… tấn
công lực lượng chức năng. Cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố các bị cáo này về
tội "Giết người" là có căn cứ pháp luật.
Không bị cáo nào kêu oan Xuyên suốt phiên tòa, trải dài từ phần
xét hỏi đến tranh tụng, tất cả các bị cáo đều nhận ra sai phạm, thừa nhận hành
vi của mình là vi phạm pháp luật và mong được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ
hình phạt, hưởng khoan hồng của pháp luật. Không có bị cáo nào kêu oan, hoặc
cho rằng hành vi của mình là không vi phạm pháp luật. Đa số các bị cáo đều bày
tỏ sự ăn năn hối hận, xin lỗi gia đình 3 cán bộ, chiến sĩ công an đã hy sinh.
Quá trình tranh tụng, nhiều luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ
vụ án để tiến hành điều tra bổ sung. Đáp lại luận điểm này, đại diện Viện Kiểm
sát giữ quyền công tố tại phiên tòa cho rằng không có cơ sở để trả hồ sơ điều
tra bổ sung. Các luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho 3 gia đình bị hại
cũng đề nghị Hội đồng xét xử không trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ngay cả một
số bị cáo cũng chung mong muốn không trả hồ sơ vụ án, bởi với họ, kéo dài thêm
thời gian tố tụng trong vụ án này là làm xấu đi tình trạng của họ.
Bị cáo Bùi Văn Tiến khi nói lời sau cùng đã thừa nhận mặc dù không trực tiếp
tham gia thực hiện hành vi sát hại 3 cán bộ, chiến sĩ công an, nhưng bị cáo tự
nhận thấy bị cáo cũng có một phần lỗi lầm, mong các gia đình bị hại tha lỗi cho
bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo cảm ơn đại diện Viện Kiểm sát
nhân dân đã chuyển tội danh cho bị cáo, cảm ơn các luật sư đã tham gia bào chữa
cho bị cáo. Bị cáo mong các luật sư bào chữa không yêu cầu trả hồ sơ vụ án nữa,
để bị cáo sớm trở về với vợ con, bị cáo có 3 con còn rất nhỏ, bản thân bị cáo có
nhiều bệnh nặng.
Nói lời sau cùng tại phiên tòa, các bị cáo bày tỏ mong muốn được
Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm quay trở về với xã hội, với
gia đình và hứa hẹn sẽ không vi phạm pháp luật. Sáu bị cáo đề nghị các luật sư
không tiếp tục bào chữa cho mình nữa, mong muốn được dừng vụ án ở đây. Điều
đáng nói, trước phiên tòa sơ thẩm, cả 6 bị cáo này và gia đình bị cáo đều chủ
động mời luật sư bào chữa.
Sau khi cảm ơn các luật sư đã
tham gia bảo vệ cho mình, bị cáo Lê Đình Doanh xin được dừng, không cần các
luật sư bào chữa cho bị cáo nữa. Bị cáo Doanh xin được hưởng khoan hồng của Nhà
nước, được trở về làm công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo Nguyễn
Quốc Tiến khẳng định không mời và cũng không cần luật sư bào chữa cho mình. Bị
cáo Bùi Thị Đục thừa nhận đã sai và xin các luật sư dừng bào chữa cho bị cáo,
bị cáo hứa sau này sẽ không làm việc gì sai với pháp luật, với Đảng và Nhà
nước. Đào Thị Kim, Trần Thị Phượng cảm ơn các luật sư đã bào chữa cho mình, bản
thân các bị cáo đã nhận rõ tội lỗi của mình và xin các luật sư không tiếp tục
bào chữa cho bị cáo nữa…
Trong một vụ án, để công lý
được thực thi đòi hỏi phải có quá trình điều tra, truy tố, xét xử công minh,
khách quan, nhưng quan trọng hơn cả là sự thành khẩn của các bị cáo. Tự bản
thân mỗi bị cáo cần nhận thức được sai phạm, thành khẩn khai nhận tội và thức
tỉnh lương tâm của mình, để từ đó ăn năn hối cải, thực sự mong muốn sửa chữa
sai lầm, trở thành người có ích cho xã hội.
MỘT PHIÊN TÒA SƠ THẨM KHÔNG BỊ CÁO NÀO KÊU OAN
Xuyên suốt phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án "Giết người"
và "Chống người thi hành công vụ" xảy ra tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm
(huyện Mỹ Đức, Hà Nội) , trải dài từ phần xét hỏi đến tranh tụng, tất cả các bị
cáo đều nhận ra sai phạm, thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và
mong được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, hưởng khoan hồng của pháp
luật. Không có bị cáo nào kêu oan, hoặc cho rằng hành vi của mình là không vi
phạm pháp luật. Đa số các bị cáo đều bày tỏ sự ăn năn hối hận, xin lỗi gia đình
3 cán bộ, chiến sĩ công an đã hy sinh.
Quá trình tranh tụng, nhiều
luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ vụ án để tiến hành điều tra
bổ sung. Đáp lại luận điểm này, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại
phiên tòa cho rằng không có cơ sở để trả hồ sơ điều tra bổ sung. Các luật sư bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho 3 gia đình bị hại cũng đề nghị Hội đồng xét xử
không trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ngay cả một số bị cáo cũng chung mong muốn
không trả hồ sơ vụ án, bởi với họ, kéo dài thêm thời gian tố tụng trong vụ án
này là làm xấu đi tình trạng của họ.
Bị cáo Bùi Văn Tiến khi nói
lời sau cùng đã thừa nhận mặc dù không trực tiếp tham gia thực hiện hành vi sát
hại 3 cán bộ, chiến sĩ công an, nhưng bị cáo tự nhận thấy bị cáo cũng có một
phần lỗi lầm, mong các gia đình bị hại tha lỗi cho bị cáo và xin được giảm nhẹ
hình phạt. Bị cáo cảm ơn đại diện Viện Kiểm sát nhân dân đã chuyển tội danh cho
bị cáo, cảm ơn các luật sư đã tham gia bào chữa cho bị cáo. Bị cáo mong các
luật sư bào chữa không yêu cầu trả hồ sơ vụ án nữa, để bị cáo sớm trở về với vợ
con, bị cáo có 3 con còn rất nhỏ, bản thân bị cáo có nhiều bệnh nặng.
Nói lời sau cùng tại phiên
tòa, các bị cáo bày tỏ mong muốn được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình
phạt để sớm quay trở về với xã hội, với gia đình và hứa hẹn sẽ không vi phạm
pháp luật. Sáu bị cáo đề nghị các luật sư không tiếp tục bào chữa cho mình nữa,
mong muốn được dừng vụ án ở đây. Điều đáng nói, trước phiên tòa sơ thẩm, cả 6
bị cáo này và gia đình bị cáo đều chủ động mời luật sư bào chữa.
Sau khi cảm ơn các luật sư đã
tham gia bảo vệ cho mình, bị cáo Lê Đình Doanh xin được dừng, không cần các
luật sư bào chữa cho bị cáo nữa. Bị cáo Doanh xin được hưởng khoan hồng của Nhà
nước, được trở về làm công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo Nguyễn
Quốc Tiến khẳng định không mời và cũng không cần luật sư bào chữa cho mình. Bị
cáo Bùi Thị Đục thừa nhận đã sai và xin các luật sư dừng bào chữa cho bị cáo,
bị cáo hứa sau này sẽ không làm việc gì sai với pháp luật, với Đảng và Nhà
nước. Đào Thị Kim, Trần Thị Phượng cảm ơn các luật sư đã bào chữa cho mình, bản
thân các bị cáo đã nhận rõ tội lỗi của mình và xin các luật sư không tiếp tục
bào chữa cho bị cáo nữa…
Trong một vụ án, để công lý
được thực thi đòi hỏi phải có quá trình điều tra, truy tố, xét xử công minh,
khách quan, nhưng quan trọng hơn cả là sự thành khẩn của các bị cáo. Tự bản
thân mỗi bị cáo cần nhận thức được sai phạm, thành khẩn khai nhận tội và thức
tỉnh lương tâm của mình, để từ đó ăn năn hối cải, thực sự mong muốn sửa chữa
sai lầm, trở thành người có ích cho xã hội.
Trong khi các bị cáo đều
thừa nhận sai phạm của mình bằng thái độ thành khẩn và xin được
giảm án thì những kẻ "dân chủ tự xưng", luật sư "dân
chủ" không chấp nhận cái sai của vụ án vẫn cố tình lươn lẹo,
muốn lèo lái chiều hướng sai lệch về sự thật của vụ án, gây hoài
nghi sự công bằng của phiên tòa xét xử các bị cáo trong lòng dư
luận. Đúng là bản chất 'bồi bút' rẻ tiền thì miễn có tiền thì
bất chấp đúng hay sai, lương tâm của một con người. Những kẻ mục đích
không phải vì lợi ích của Nhân dân thì suốt đời chỉ là con rối cho
kẻ khác giật dây mà thôi
VẪN LÀ NHỮNG KIỂU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 đã và đang được tổ chức trong năm 2020. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
Hãy thể hiện trách nhiệm với cộng đồng!
Trên mạng xã hội giờ hay xuất hiện những tin tức theo kiểu “nghe nói là”, “biến căng”, “toang rồi”, “ở chỗ này có người này như này, ở phố kia có người như thế kia”... mà không có bất cứ sự kiểm chứng và nguồn thông tin chính thống nào xác nhận.
NHẬN DIỆN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã, đang và sẽ tập trung sử dụng internet, không gian mạng, chủ yếu là mạng xã hội để chống phá cách mạng nước ta, do vậy, việc phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong tình hình mới cần được nhận diện và lưu ý một số vấn đề.
XIN ĐỪNG ĐỘNG ĐẾN NỖI ĐAU NGƯỜI NHÀ CÁC LIỆT SĨ!
Trước tòa, bị cáo Lê Đình Chức thành khẩn khai báo diễn biến sự việc đêm 9/1 trong đó có các hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự hi sinh của 3 cán bộ chiến sỹ công an như sử dụng tuýp sắt có gắn dao; chỉ đạo người khác mang chậu xăng lên đổ xuống hố - nơi có 3 cán bộ công an ngã xuống. Đồng thời, bị cáo Chức cũng là người nhiều lần đổ xăng xuống hố.
Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2020
Thể chế chính trị không phải là bản chất tạo ra tham nhũng
Hiện
nay có ý kiến sai trái cho rằng, chế độ độc đảng lãnh đạo là căn nguyên tạo ra
tham nhũng. Muốn hiểu về vấn đề này chúng ta phải nhìn nhận bản chất của tham
nhũng là gì? Karl Marx cũng giống như nhiều nhà triết học phương Tây đã cho rằng,
động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Mà con người
thường có xu hướng muốn tối ưu hóa lợi ích của cá nhân mình, từ đó có thể làm
xâm hại đến lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ
đó phải có giải pháp để điều chỉnh lợi ích của cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Bản chất của tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, là tham
lam, là trộm cướp”. Như thế, hành vi tham ô, tham nhũng liên quan đến tư cách
đạo đức của con người chứ không liên quan đến thể chế chính trị. Bởi vì, dù thể
chế chính trị gì, nhưng nếu con người không được giáo dục tốt từ gia đình, nhà
trường, xã hội; không có một hệ thống pháp luật tốt để ngăn chặn, răn đe, công
tác quản lý nhà nước bị buông lỏng thì tham nhũng sẽ có cơ hội hoành hành.
Nhìn
rộng ra thế giới, không một quốc gia nào, thuộc chế độ chính trị nào có thể tự
hào là miễn nhiễm đối với tham nhũng. Nước Mỹ cũng luôn đau đầu bởi vấn nạn
tham nhũng. Theo thống kê của Đại học Illinois, thủ đô Washington D.C và các
thành phố lớn, như: Chicago, Los Angeles, Manhattan, Miami có số công chức bị
kết tội tham nhũng rất cao. Theo đó, giai đoạn từ năm 1976 tới năm 2016,
Chicago có hơn 1.700 công chức bị xử lý, cao nhất tại Mỹ. Los Angeles đứng thứ
hai với hơn 1.500 công chức bị xử lý. Manhattan đứng thứ ba với hơn 1.300 công
chức. Đứng thứ tư và thứ năm lần lượt là Miami với 1.165 công chức và
Washington D.C với gần 1.200 công chức. Nếu so sánh các bang trên bình quân đầu
người (số người bị kết tội trong 10.000 dân), Columbia là bang có tình trạng
tham nhũng tồi tệ nhất tại Mỹ vì cứ 10.000 dân lại có 17,24 công chức bị kết
tội. Như thế, mặc dù Mỹ có rất nhiều đảng phái cạnh tranh với nhau, giám sát
nhau, hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, nhưng tình trạng tham nhũng vẫn nghiêm
trọng. Hay tại châu Âu, nơi đại đa số các quốc gia theo chế độ đa đảng thì theo
báo cáo về tham nhũng của Đảng Xanh châu Âu (European Green Party) công bố cuối
năm 2018 cho biết một thực trạng tồi tệ, đó là các quốc gia thành viên của EU
mất tới 900 tỷ euro (khoảng 1.000 tỷ USD) mỗi năm vì tham nhũng. Trước đó, báo
cáo chống tham nhũng của Liên minh châu Âu (EU) năm 2014 cho hay, tham nhũng
gây thiệt hại cho nền kinh tế khu vực này khoảng 120 tỷ euro mỗi năm. Như thế,
chống tham nhũng là cuộc đấu tranh, là cuộc chiến mà mọi quốc gia đều phải tiến
hành. Như vậy, đâu phải chế độ độc đảng thì có tham nhũng, còn đa đảng thì không có tham nhũng.
Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện tốt cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng nếu luôn giữ vững quyết tâm cao trong toàn Đảng, toàn dân. Thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng từ đầu nhiệm kỳ đại hội Đảng lần thứ XII đến nay đã chứng minh điều đó. Tuy chưa hoàn toàn dẹp bỏ, nhưng đã làm nức lòng cán bộ, đảng viên chân chính và Nhân dân.
Trong thời gian tới, cùng với nâng cao chất lượng công tác
giáo dục công dân, hoàn thiện các quy định của Đảng và hệ thống pháp luật, bịt
các kẽ hở của luật pháp, thì việc kiên quyết trừng trị hành vi tham nhũng, tội
phạm tham nhũng sẽ làm cho những người thực thi công vụ “không thể tham nhũng,
không dám tham nhũng và không muốn tham nhũng”.
Chủ lực
Sự thật của luận điệu: "Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, lạc hậu...”
Hiện
nay, trên những trang mạng xã hội và các website không chính thống, các thế lực
thù địch đang tập trung, ráo riết chống phá cách mạng Việt Nam bằng những luận
điệu sai trái, thù địch. Một trong những nội dung xuyên tạc, chống phá là cho
rằng “Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, đã và đang cáo chung”.
Đây là một dạng quan điểm thù địch do bản thân nó đã chứa đựng nội dung sai lầm về thực tiễn và khoa học, đồng thời đó là quan điểm mang tính chất đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp mà chủ thể của nó thường là những kẻ đối lập về lập trường tư tưởng; đối lập về lợi ích giai cấp, quốc gia, dân tộc. Để đạt được mục tiêu “tối thượng” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, các thế lực thù địch, phản động tập trung phản kích, phủ định những giá trị trường tồn Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong cuốn sách "1999 - chiến thắng không cần chiến tranh", Tổng thống Mỹ Richard Milhous Nixon đã xác định "Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng". Để đánh phá vào Chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng ta và của xã hội ta, tạo ra một "khoảng trống tư tưởng" trong cán bộ, đảng viên, nhân dân ta, từ đó tạo điều kiện thuận lợi du nhập hệ tư tưởng tư sản vào quần chúng, vào nội bộ ta, các thế lực thù địch, phản động tập trung mọi cố gắng để chứng minh sự "lỗi thời" của Chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng còn vu cáo Đảng ta đã "đem Chủ nghĩa Mác - Lênin áp dụng máy móc, gượng ép vào Việt Nam", đồng thời quảng cáo cho mô hình "xã hội dân chủ". Chúng nuôi dưỡng, kích động các khuynh hướng cơ hội, hữu khuynh, dao động... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng để nhằm tạo ra sự phân hóa, phân liệt, đối lập, xung đột trong đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của xã hội. Các thế lực thù địch cho rằng “Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lạc hậu, lỗi thời, đã và đang bị cáo chung”.
Trên thực tế, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Theo Người, Chủ nghĩa Mác - Lênin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nghiên cứu lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Người đã nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin một cách cơ bản, hệ thống, hoàn toàn không rập khuôn, máy móc. Ngày 12-7-1946, trả lời trong cuộc họp báo tại biệt thự Roa-yan Mông-xô, Hồ Chí Minh đã nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Hồ Chí Minh không bao giờ “tách mình” ra khỏi Các Mác, Ăngghen và Lênin để đưa ra các quan điểm riêng mà như Người nói là “cố gắng vận dụng” tư tưởng của các nhà kinh điển đó, “nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”.
Thực tế đã và đang khẳng định rằng, Chủ nghĩa
Mác - Lênin từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách
mạng, giá trị và sức sống bền vững của nó. Nhiều chính khách, nhà khoa học ở cả
trong và ngoài nước có những bài nói, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học
khẳng định Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng trong
bối cảnh hiện nay.
Một số học giả tư sản đã thừa nhận, tinh thần
của Các Mác vẫn tỏa sáng và dù muốn hay không người ta vẫn phải dựa vào Các Mác
mới có thể phân tích đúng chủ nghĩa tư bản đương đại. Đời sống xã hội đương đại
mặc dù rất phức tạp, trải qua biết bao biến cố thăng trầm, quanh co, khúc
khuỷu, vẫn không đi ngoài những quy luật phổ biến đã được Các Mác tổng kết.
Thực tiễn đổi mới thành công ở Việt Nam, Trung
Quốc trong hơn hai thập kỷ qua; sự vững vàng của cách mạng Cuba trước sự bao
vây, cấm vận, chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, cũng như sự trỗi
dậy của phong trào cánh tả theo xu hướng xã hội chủ nghĩa ở các nước châu Mỹ
Latinh trong những năm gần đây đã khẳng định sức sống mãnh liệt và sự lan tỏa
của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chúng ta khẳng định rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách lý luận và phương pháp nhận thức thế giới, cải tạo thế giới vẫn giữ nguyên giá trị. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Học thuyết giá trị thặng dư và lý luận về chủ nghĩa xã hội, trong đó Học thuyết giá trị thặng dư được các nhà khoa học coi đó là “hòn đá tảng” của Chủ nghĩa Mác. Và cho đến nay, các học thuyết đó vẫn là cơ sở rất quan trọng để xem xét, phân tích sự phát triển của thời đại. Điều đó giải thích vì sao giữa lúc cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu diễn ra vào năm 2008 - 2009, một số nhà tư bản ở Ý, Anh, Đức... lại đổ xô đi mua bộ “Tư bản” của Mác để nghiên cứu với hi vọng tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng. Giáo sư người Anh Francis Wheen - một trong những nhà khoa học chuyên nghiên cứu về Mác đã viết: "Các Mác chưa bị chôn cất dưới đống đổ nát của bức tường Béc-lin. Thực tế, có lẽ chính lúc này, Các Mác càng cho thấy tầm giá trị lớn của ông. Các Mác đã tỏ ra là nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ XXI". Từ ngày 18 đến 21-6-2013, tại Gwangju Nam (Hàn Quốc) Ủy ban Tư vấn quốc tế (IAC) và trang mạng UNESCO “Memory of the World” đã đưa Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và tập đầu tiên trong Bộ Tư bản của Các Mác (xuất bản năm 1867) vào danh sách Trí nhớ của nhân loại (Memory of the World) của UNESCO. UNESCO giải thích sự lựa chọn rằng, cả hai văn bản này đều có ảnh hưởng to lớn đến tất cả “phong trào xã hội”...
Chính vì thế, bảo vệ học thuyết Mác-xít trước
sự xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch, những người thiếu thiện chí,
không chỉ là bảo vệ lý tưởng xã hội, mà còn là bảo vệ quyền lợi thiết thực của
dân tộc trong thời kỳ mới.
Chủ lực
Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.
Quá trình
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá
nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương
hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập
tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ"
phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi
xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một
số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn
đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những
thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu
hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một
số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho
nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa
ngã ba đường".
Để bảo vệ
hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt
để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa
thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp
tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy
nhất đúng, bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để,
vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội.
Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát
triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong
hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân.
Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện
chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý
kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng
từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội
chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự
chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước,
cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn
những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để
tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an
ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh,
chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến
hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối
tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng
đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch./.
NƠI NÀO KHỔ NHẤT BỘ ĐỘI PHẢI CÓ MẶT, QUÂN ĐỘI GƯƠNG MẪU ĐI ĐẦU ĐẤU TRANH TRÊN MẶT TRẬN TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ
Sáng 12-9, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư
Quân ủy Trung ương, đã chủ trì cuộc làm việc của tập thể Bộ Chính trị với
Thường vụ Quân ủy Trung ương, cho ý kiến về dự thảo văn kiện và công tác chuẩn
bị nhân sự Đại hội Đại biểu quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025.
Sau khi nghe Thường vụ Quân ủy Trung ương báo cáo về dự thảo văn kiện và công
tác chuẩn bị nhân sự, Bộ Chính trị đánh giá cao công tác chuẩn bị Đại hội XI
Đảng bộ Quân đội đã được tiến hành khoa học,
công phu, nghiêm túc, trách nhiệm, đúng quy trình, quy định, bám sát Chỉ thị 35
của Bộ Chính trị và các văn bản hướng dẫn của trung ương. Các dự thảo văn kiện
được xây dựng trên cơ sở khảo sát thực tiễn, hội thảo nhiều lần, xin ý kiến các
nhà khoa học, các chuyên gia, các cơ quan - ban - ngành liên quan, các Đảng ủy
trực thuộc Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Bộ Tư lệnh thủ đô Hà Nội
Báo cáo Chính trị phản ánh khá toàn diện
những thành tựu, kết quả nổi bật của Đảng bộ Quân ủy trong thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng và Đại hội X Đảng bộ Quân đội; làm rõ những hạn chế,
khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; phân tích, đánh giá, dự báo
tình hình, trên cơ sở đó đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng và xây dựng Đảng bộ Quân đội 5 năm tới (2020-2025), tầm nhìn đến năm 2030
và từ năm 2030, sát thực tế.
Phát biểu kết luận buổi làm việc, Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh cần tiếp tục xây dựng lực
lượng, xây dựng Đảng bộ Quân đội thực sự trong sạch vững mạnh, mẫu mực nêu
gương; không để xảy ra tiêu cực, một số hiện tượng đáng tiếc như thời gian vừa
qua; nơi nào khó khăn gian khổ nhất thì bộ đội phải có mặt. Quân đội cần gương
mẫu đi đầu, tiếp tục đấu tranh phản bác mạnh hơn nữa trên mặt trận tư tưởng
chính trị; giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của bộ đội Cụ Hồ,
đấu tranh chống tiêu cực ngay trong nội bộ, ngăn chặn và xử lý nghiêm các vụ
việc, hiện tượng tiêu cực.
Xô viết Nghệ - Tĩnh! Sức mạnh quần chúng làm nên lịch sử
Cách đây 90 năm, với khí thế tiến công thần tốc, nhân dân ta đã làm nên một cao trào cách mạng vô cùng mạnh mẽ - cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh.
Phong
trào Xô viết Nghệ -Tĩnh là một sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy chỉ tồn tại trong vòng 7 tháng và còn
sơ khai nhưng đã để lại những dấu ấn tốt đẹp về một Nhà nước công - nông đầu
tiên, chưa có trong tiền lệ lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng
của người dân mất nước, nô lệ.
Thành quả
lớn nhất của Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ -Tĩnh là đã khẳng định
trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp công
nhân thông qua chính đảng tiên phong của mình, đoàn kết với các tầng lớp nhân
dân yêu nước có đủ khả năng đánh đổ nền thống trị của đế quốc, phong kiến tay
sai, giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Đây chính
là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, không chỉ đặt ra vấn đề liên minh công nông, vấn đề ruộng đất
và dân cày, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, vấn đề đấu tranh chính
trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, từng bước tạo thế và lực để dân tộc ta đi tới
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Từ phong
trào này, lần đầu tiên công nhân và nông dân liên minh với nhau trong cuộc đấu
tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; chính quyền cách mạng ở một số vùng
nông thôn đã ra đời. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử to lớn của cao trào cách mạng
1930 - 1931, Hồ Chí Minh đã viết: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó
trong một biển máu nhưng Xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và
năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại,
nhưng nó rèn lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”.
Cao trào
1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh đã để lại bài học lớn về sức lôi
cuốn, tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân của Đảng ta thông qua đường lối,
chủ trương, khẩu hiệu đấu tranh đúng đắn, đáp ứng được khát vọng cháy bỏng của
nhân dân. Từ đó, rút ra kinh nghiệm lịch sử quý báu là bao giờ nhân dân lao động
cảm nhận được những lợi ích của mình trong các chủ trương, chính sách, việc làm
cụ thể của giai cấp lãnh đạo, thì họ sẽ tích cực, tự giác tham gia hưởng ứng.
Và chính
Đảng ta ngay từ đầu đã giúp nhân dân cảm nhận được những lợi ích cơ bản và cấp
bách của mình thông qua các chủ trương, khẩu hiệu đúng đắn là giành độc lập
thoát khỏi ách nô lệ, giành ruộng đất, nhà máy về tay công - nông, thực hiện những
quyền dân sinh, dân chủ cơ bản đầu tiên...; từ đó khơi dậy và thúc đẩy động lực
cách mạng trong quần chúng.
90 năm đã
trôi qua nhưng khí thế ngất trời của Xô viết Nghệ - Tĩnh những năm 30 thế kỷ XX
vẫn luôn bừng cháy trong mỗi người dân yêu nước Việt Nam. Tinh thần Xô viết Nghệ
- Tĩnh không chỉ đồng hành cùng nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách
thức để giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc
mà còn tiếp tục giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện
nay. Ngày nay, tinh thần Xô Viết Nghệ - Tĩnh luôn song hành cùng nhân dân ta vượt
qua khó khăn, thách thức để xây dựng Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn./.
NGƯỜI VIỆT CHỐNG CỘNG Ở HẢI NGOẠI XẢO TRÁ NHƯ THẾ NÀO ?
Sau khi chính quyền ngụy - Việt Nam Cộng Hoà tan rã, một bộ phận của nhân dân bỏ nước ra đi, kết thành những cộng đồng ly hương tại hải ngoại, ta thấy những hiện tượng xã hội sau đây:
Ở một thái cực cuồng tín c.hống cộng cực đoan, do đ.au k.hổ mất mát, nhưng chính yếu là do t.hù h.ận, có một số người lập luận như sau: chỉ chế độ Ngụy VNCH mới là “Tổ Quốc”, chỉ chế độ ấy mới có “chính nghĩa”, mặc dù nó đã được Mỹ dựng nuôi, Vatican cai quản giúp, để hòng cắt đứt miền Nam từ miền Bắc, để tận diệt giết hết các thành phần kháng chiến đuổi giặc, và để biến miền Nam thành tiền đồn chống cộng của Mỹ và thành thuộc quốc của Vatican (với tham vọng cải đạo 100% dân miền Nam thành con chiên).
Vì, với họ, chỉ có chế độ Ngụy VNCH là “Tổ Quốc” duy nhất (để “phục quốc”) nên ai chống lại tư duy tuyên truyền của họ cũng đều là “phản quốc”, “việt cộng”, “phi chính nghĩa”, đáng bị khinh bỉ, trù dập, đánh phá bằng mọi cách, và thậm chí sát hại… bằng khủng bố ám sát!
Họ muốn phục dựng cái thây ma đã chết (Ngụy VNCH), họ kiếm tiền, quyên tiền, moi tiền đồng hương từ tưởng niệm xác chết VNCH, ăn mày bằng dĩ vãng đau thương, hành hung khủng bổ ai chống đối họ bằng hồn ma quá khứ VNCH một thời 1955-1975.
Ở một thái cực khác là số đông Việt kiều yêu nước thầm lặng: họ gửi tiền về giúp thân nhân trong nước, và khi đất nước yên bình, phục hồi, cởi mở, hòa hợp, họ trở về thăm thân nhân, thăm mồ mả cha ông, chứng kiến tận mắt mọi đổi thay tích cực hàng ngày trên quê hương thì họ rất vui và tự hào về dân tộc Việt Nam ngày càng phát triển và vươn xa như thế!
Và rồi khi từ Việt Nam trở về Mỹ, họ bị sốc vì môi trường tuyên truyền xảo trá đầy hận thù của những kẻ chống cộng cực đoan ấy, những kẻ cố tình nhắm mắt chối bỏ thực tại lịch sử, chối bỏ hiện tại phát triển phục hưng ấn tượng, để duy trì mục đích tiếp tục ác nghiệp, moi tiền đồng hương, chống phá đất nước và tiếp tay cho đám thiểu số dân chủ cuội chống đối trong nước, hòng gây hoang mang dư luận, chờ “đục nước béo cò”, lật đổ chế độ, rước giặc ngoại về cai trị dân ta một lần nữa.
Đây là một sự xảo trá hết sức bỉ ổi mà bọn chống cộng ở hải ngoại lúc nào cũng tuyên truyền xuyên tạc đòi lật đổ chế độ ở Việt Nam, xem ra cũng chỉ vì tiền chúng sẵn sàng một lần nữa bán rẻ đi đồng bào dân tộc, bán rẻ đi nơi mà chúng gọi là cố hương./.
LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUY ĐỊNH KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG
Ngày 23-9-2019, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Quy định này là phương thức, giải pháp để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, là bước cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về xây dựng Đảng.
Tuy nhiên, lợi dụng việc này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị,
phản động lại gia tăng xuyên tạc, chống phá. Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới, Đảng ban hành Quy định kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và
chống chạy chức, chạy quyền là hết sức cần thiết nhằm nâng cao năng lực của
Đảng cầm quyền, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Lợi dụng Quy định
này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động lập tức “diễn
biến”, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông quốc tế, blog hải ngoại,
mạng xã hội.
Đài Á châu tự do và nhiều trang mạng chống phá đăng tải loạt bài với mục đích
chính trị, hướng lái cách mạng Việt Nam rằng “Bỏ độc quyền lãnh đạo mới có thể
chấm dứt nạn đảng viên tha hóa”, họ hà hơi tiếp sức cho nhiều phần tử phản động
lưu vong, cơ hội chính trị trong nước thể hiện quan điểm xuyên tạc rằng: Hiến
pháp đã thể hiện mầm mống và bắt đầu của sự suy thoái, đó là Điều 4 khi cho
phép đảng lãnh đạo độc quyền và tuyệt đối.
Và bản thân bất kể những cái gì độc
quyền sẽ trở nên lạm quyền và lạm quyền thì tất yếu sẽ dẫn đến sự suy thoái. Họ
cũng quy kết, sự độc quyền quá lâu, thiếu minh bạch trong một thời gian dài nên
dẫn tới tình trạng phổ biến là tha hóa đạo đức của cán bộ lãnh đạo. Rồi cho
rằng, đây là vấn đề mang tính bản chất của chế độ, vì không có đối trọng quyền
lực, không có giám sát, kiểm soát một cách độc lập, khách quan thì chắc chắn sẽ
dẫn đến sự lạm quyền và tha hóa. Hay Quy định này là cơ hội để thanh trừng nội
bộ, loại trừ phe nhóm, để hủy diệt đối với những người có khả năng tranh giành
quyền lực…Để kết thúc, họ kết luận “Trong Đại hội XIII sắp tới, nếu không tỉnh
ngộ và có những thay đổi về đường lối (cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội) thì Việt Nam cứ trượt dài theo con đường cũ, ngày
càng mất niềm tin, rối loạn xã hội ngày càng tăng”.
Khi nghiên cứu về vấn đề kiểm soát quyền
lực có thể thấy, mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về phương pháp, cách
thức, tính chất được quy định trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, nhưng
nhiều học giả quốc tế và trong nước đều thống nhất cho rằng kiểm soát quyền lực
nhà nước đóng vai trò quan trọng và là tất yếu. Không quốc gia nào có thể phát
triển nhanh, ổn định và bền vững nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát và
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng lạm
quyền, tha hóa quyền lực vẫn luôn tiềm ẩn và thường xuyên xảy ra ở bất kỳ quốc
gia nào cho dù thể chế chính trị có khác nhau.
Trong một hội thảo quốc tế về kiểm soát quyền lực và
phòng chống tham nhũng (của Viện Nghiên cứu lập pháp - Quốc hội), bà Eleanor
Valentine, chuyên về xây dựng và phát triển năng lực Nghị viện Hoa Kỳ cho biết,
ngay cả ở Mỹ cũng luôn nỗ lực phòng chống tham nhũng, đây là nhiệm vụ phải được
thực hiện một cách toàn diện và tổng thể, bắt đầu từ những bước phòng ngừa và
tăng cường giám sát là vô cùng quan trọng. Chính phủ có vai trò quan trọng
trong việc đề xuất, soạn thảo và hướng dẫn thi hành luật như ở Việt Nam. Hay
trong công trình nghiên cứu và cuốn sách “Quyền lực chính trị và kiểm soát dân
chủ ở Anh”, nhà nghiên cứu - học giả Stuart Weir và David Beetham rút ra kết
luận, trong hệ thống chính trị ở Vương quốc Anh, kiểm soát quyền lực là phương
thức tốt để đảm bảo chuẩn mực của nền dân chủ xã hội…Nói như thế để thấy, kiểm
soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi vi
phạm pháp luật, xa rời chuẩn mực của cán bộ, công chức là vấn đề được hầu hết
các quốc gia quan tâm và có thiết chế quy định.
Do vậy không thể nói, sự tha hóa của cán
bộ, đảng viên là bản chất của thể chế chính trị ở Việt Nam, việc ban hành Quy
định kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền
là cơ hội để thanh trừng nội bộ, loại trừ phe nhóm, để hủy diệt đối với những
người có khả năng tranh giành quyền lực… như những quy kết xuyên tạc, ác ý của
những phần tử nói trên. Ở một phương diện khác, thực tiễn đã chứng minh, người
ta không thể nói ở các nước đa đảng thì đảm bảo vấn đề dân chủ, nhân quyền hơn ở
các nước có một đảng (như ở Việt Nam) lãnh đạo; ngược lại cũng không thể khẳng
định ở các quốc gia có một đảng duy nhất lãnh đạo lại dân chủ, đảm bảo vấn đề
quyền con người hơn ở các nước đa đảng. Vấn đề dân chủ, nhân quyền, thể chế
chính trị một đảng hay đa đảng, nhất nguyên hay đa nguyên ở mỗi nước là tùy
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, điều kiện lịch sử, văn hóa,
chính trị, xã hội và thực tiễn lịch sử dân tộc, con đường cách mạng vô sản, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và của dân tộc Việt Nam. Đây là con đường cách mạng chân
chính, tiến bộ, phù hợp với quy luật phát triển khách quan, đáp ứng được yêu
cầu mong mỏi của nhân dân. Hơn nữa, Đảng là đội quân tiên phong của giai cấp
công - nông, tầng lớp trí thức, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích
của dân tộc và nhân dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Do vậy việc Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội trong Điều 4 - Hiến pháp 2013 là hiển nhiên, phù hợp với tư cách là một
đảng chính trị cầm quyền và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó không thể phủ nhận, dưới tác
động mặt trái của cơ chế thị trường, một số cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng,
rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa
cá nhân, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm bổn phận
của mình trước Đảng, trước dân; việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể
nang, cục bộ; một số cơ chế chính sách đề bạt, bổ nhiệm chưa công bằng, chưa
đầy đủ…
Để đáp ứng yêu của thời kỳ cách mạng mới, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu, việc hoàn thiện chủ trương, đường lối, quy định
nói chung và ban hành Quy định kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo
hướng hoàn thiện, bổ sung, cụ thể hóa các Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh là hoạt
động bình thường, cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Nói như thế để thấy,
các luận điệu trên là suy diễn, xuyên tạc của những đối tượng cơ hội, phản
động, có nhiều hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, đi ngược lại với lợi ích
của dân tộc, nhân dân, của Đảng, Nhà nước. Vậy âm mưu, thủ đoạn của chúng là
gì?
Một là, mục đích của họ là xóa bỏ Điều 4
– Hiến pháp 2013 quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước và xã hội, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Từ đó lật đổ
sự lãnh đạo của Đảng với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng.
Hai là, cổ xúy, thúc đẩy từ bỏ con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng lái theo con đường tư bản chủ nghĩa, theo
hướng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, “xã hội dân sự” ở Việt Nam.
Ba là, tạo cớ diễn biến tình hình chính
trị ở nước ta, cố tình xuyên tạc công tác cán bộ theo kiểu “tung hỏa mù”,
“khuấy nước đục, ngư ông đắc lợi” để tạo ra nhận thức sai lệch trước thềm Đại
hội XIII của Đảng. Từ đó tạo ra sự hoang mang, dao động, làm suy giảm niềm tin
của nhân dân vào thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống trong nội bộ. Đây là âm mưu diễn biến hòa bình với thủ
đoạn tinh vi, thâm độc. Cán bộ, đảng viên, nhân dân cần tỉnh táo, cảnh giác,
đấu tranh làm thất bại âm mưu nguy hiểm này.
CÓ PHẢI ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG MỚI CÓ DÂN CHỦ?
Họ cho rằng “cần phải thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ”. Điển hình là bài viết “Triết lý do thái và Việt Nam” của Thuan Van Bui trên trang của tổ chức Vịt tần. Xin khẳng định quan niệm này hoàn toàn sai lầm!
Trước hết, đối với chủ nghĩa xã hội, dân chủ thuộc bản chất. Chủ nghĩa xã hội không thể tách rời dân chủ, không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là đỉnh cao trong sự phát triển của nhân loại, nên cũng là đỉnh cao của dân chủ. Chỉ có giai cấp vô sản và Đảng tiên phong của mình với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại quần chúng nhân dân lao động mới đảm bảo dân chủ và lợi ích của quần chúng nhân dân.
Hai là, chế độ đa đảng không phải là dấu hiệu của dân chủ. Cái gốc để đảm bảo dân chủ hay không dân chủ là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai. Dưới chủ nghĩa xã hội tư liệu sản xuất nằm trong tay nhân dân lao động và họ là người làm chủ xã hội.
Chế độ đa đảng trong hệ thống chính trị tư sản chỉ là sự phân chia quyền lực của các nhà tư bản độc quyền. Thực chất, chế độ đa đảng ở phương Tây cũng dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, phục vụ giai cấp tư sản, các đảng thay nhau nắm quyền lãnh đạo đất nước.
Ba là, chỉ có Đảng cộng sản mới có thể lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu thực hiện đa nguyên thì các đảng khác chỉ có tìm cách thủ tiêu Đảng cộng sản, thủ tiêu chủ nghĩa xã hội, đi ngược với xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người, như vậy chính là mất dân chủ.
Mặt khác, Đảng cộng sản Việt Nam không hề áp đặt vai trò độc quyền lãnh đạo của mình, để được nhân dân thừa nhận, Đảng đã trải qua quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, đầy thử thách, hy sinh.
Hiện nay Đảng ta không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng để xứng đáng với sứ mệnh lãnh đạo đất nước. Có điều, quá trình xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới không tránh khỏi việc phải thải loại một số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, và đó cũng là cơ hội để các thế lực thù địch “mượn gió bẻ măng” chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Vì vậy, không thể phủ nhận tính dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam.
Yêu nước ST.
VỤ ÁN ĐỒNG TÂM SỰ ÂN HẬN MUỘN MÀNG
Chiều ngày 10 tháng 9 năm 2020, sau
4 ngày làm việc, phiên tòa xét xử 29 bị cáo trong vụ án giết người và chống
người thi hành công vụ xảy ra ở xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà nội kết thúc phần tranh
luận. Hội đồng xét xử sẽ tuyên án vào chiều 14 tháng 9 năm 2020.
Qua vụ án các tội danh và các mức án
đã được xác định, các bị cáo đều vô cùng hối hận, đã thành khẩn, ăn năn hối lỗi
và nhận thấy những sai lầm của mình bị cắn dứt lương tâm do nghe lời những kẻ
xấu, tội lỗi của mình rất khó tha thứ. Tất cả các bị cáo đều mong sự khoan hồng
của pháp luật, mong tòa giảm nhẹ hình phạt.
Qua vụ án này thiết nghĩ nếu như
trước đây khi các bị cáo thực hiện các hành vi giết người và chống người thi
hành công vụ mà chỉ cần suy nghĩ như trước khi xử án thì đã không xảy ra khiếu
kiện, không xảy ra âm mưu góp tiền mua lựu đạn, bom xăng và tổ chức chống trả
giết người, chống người thi hành công vụ, vi phạm nghiêm trọng luật pháp. Qua
sự việc này mong mọi người hãy cảnh tỉnh, dù sự việc cũng nên suy xét trước
sau, đừng để bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo dẫn đến sự việc xảy ra phải chịu hình
phạt của pháp luật, lúc đó ăn lăn, hối lỗi cũng đã quá muộn.


