Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

TỪ KHI NÀO NHỮNG KẺ BÁN NƯỚC NHƯ TRƯƠNG VĨNH KÝ LẠI ĐƯỢC VINH DANH?

   Vừa qua các báo được coi là chính thống đồng loạt đưa tin, bài ca ngợi Trương Vĩnh Ký, một người có thừa tài năng nhưng mang dạ phản trắc, kẻ đã dành trọn cả đời để cúc cung tận tụy với thực Dân Pháp, giúp giặc Pháp thôn tính và cai trị nước ta. Tuổi Trẻ là tờ báo “chính thống” đắc lực nhất trong việc đăng tải đề tài vinh danh ông ta với rất nhiều bài viết trong nhiều năm nay. Ngày 11/9/2020, tại buổi tọa đàm về “nhà báo Trương Vĩnh Ký” do Bảo tàng Báo chí Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, nhà báo Trần Hữu Phúc Tiến và Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc cho rằng “dù theo Pháp nhưng Trương Vĩnh Ký yêu nước theo cách của Ông ấy”. Thế đấy! bảo sao mà trước đây Dương Trung Quốc từng khẳng định “Pháp chiếm Việt Nam là để mượn đường đánh Trung Quốc”. Con người có lương tri và nhận thức đầy đủ về lịch sử thì phải khẳng định là: Trương Vĩnh Ký yêu nước Pháp và Vatican chứ không phải là nước Việt Nam của chúng ta!

Trương Vĩnh Ký tội nghiệt chồng chất, cao hơn cả đỉnh Hoàng Liên Sơn và dù có lấy hết nước của 4 bể dưới gầm trời này thì chẳng bao giờ rửa sạch tội phản quốc của ông ta. Ký là kẻ phục vụ đắc lực cho lợi ích của Pháp; ông ta được chính phủ Pháp ban tặng huy chương Đệ Ngũ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh, và được chính phủ thuộc địa bỏ tiền mua sách, cấp cho tiền lương mỗi năm là 13.800 quan (kể cả tiền dạy học). Để so sánh, lúc đó lương của Thống đốc Nam Kỳ cũng chỉ có 18.000 quan, lương của ông Tổng thư ký là 15.000 quan. Như vậy lương của Trương Vĩnh Ký đứng hàng thứ ba, chỉ sau hai viên chức cao cấp nhất người Pháp. Những thành tích nổi bật của Ký như: Bày mưu, tính kế để người Pháp tàn sát, giết hại người yêu nước tham gia phong trào Cần Vương chống pháp, là kẻ bày mưu “dùng người Việt trị người Việt” khi đề xuất Toàn quyền Pháp hỗ trợ vũ khí, đào tạo kỹ thuật cho những kẻ tay sai là người Việt, dùng những người đó để đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân ta (Đây là kế “đổi màu da trên xác chết mà sau này người Mỹ học để xâm lược Việt Nam). 

Trong các bức thư gửi Toàn quyền Pháp, Pétrus Ký bày cho ông ta cách đàn áp phong trào kháng chiến Cần Vương như sau: "Nay họ chỉ còn cách thần phục nước Pháp. Xứ Trung kỳ mà ngài vừa ban cho nền tự trị sẽ phải bắt buộc ở dưới sự giám hộ của người bảo hộ nó. Bọn phiến loạn (nghĩa quân Cần vương) không đáng sợ; họ chỉ có những khí giới cổ lỗ của chính quyền An Nam và vài võ khí mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa".

Tự tưởng thần phục, cam chịu làm khuyển mã cho người Pháp, ông ta xem người Pháp là những người khai hóa văn minh: “về phương diện chính trị và kinh tế, nước Pháp là người đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ chịu đồng hóa. Ông tin rằng việc người Pháp tấn công Việt Nam là một "sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó", và người Pháp với tư cách là "chủ nhân", cần giảng dạy người An Nam những tư tưởng và khái niệm cần thiết cho việc cải tạo người An Nam”.

Năm 1886, Paul Bert được Trương Vĩnh Ký tư vấn, ép vua Đồng Khánh nhượng cho Pháp khu đất nằm giữa trấn Bình Đài và Linh Hựu Quán để Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bốt, nhà thương, kho hậu cần... Linh Hựu Quán bị triệt giải từ đó. Và cũng từ đó người dân ở Huế gọi khu nhượng địa mới này là Mang Cá Lớn, khu Trấn Bình Đài cũ là Mang Cá Nhỏ.

Chẳng biết từ bao giờ những kẻ bán nước, làm tay sai cho ngoại Bang như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký lại được vinh danh, đặt tên trường và tên đường ở nhiều tỉnh thành. Ngày xưa, Ngụy Sài Gòn là tay sai, là tôi tớ của Đế quốc Mỹ, thân phận của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu…và Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký là như nhau; thế nên ngụy ca ngợi và vinh danh ngụy cũng không có gì là lạ. Thế nhưng chẳng hiểu tại sao, ngành truyền thông của đất nước ta, đất nước của những người anh hùng chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc lại làm cái việc vong luân, bại lý thế này? Xin dành câu hỏi này cho các vị có trách nhiệm quản lý lĩnh vực “văn hóa tư tưởng”, các vị phải có trách nhiệm trả lời cho nhân dân Việt Nam câu hỏi này./.
Yêu nước ST.

ĐỂ “CÁI TÔI” YÊU NƯỚC HÒA VÀO “NHỊP ĐẬP CHUNG” CỦA TOÀN XÃ HỘI

            Trong suốt thời gian qua, Việt Nam được dư luận thế giới đánh giá là một đất nước có nền chính trị ổn định, là điểm đến thân thiện, an toàn của hàng triệu du khách quốc tế và là một trong những nước có môi trường đầu tư hấp dẫn. Những đánh giá, ca ngợi đó thể hiện sự khâm phục, ngưỡng mộ của bạn bè thế giới dành cho nhân dân ta, đồng thời cũng là một cách tôn vinh hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.  Vậy nên, không có lý do gì để chúng ta lại làm cho hình ảnh đất nước bị tổn thương, tình hình xã hội thêm phức tạp chỉ vì những lời dụ dỗ, kích động bởi những kẻ quá khích, bất mãn, những phần tử cơ hội chính trị, phản động. Trước những thông tin hoài nghi, trước những lời tuyên truyền mị dân của các phần tử xấu, người dân cần hết sức bình tĩnh, tỉnh táo nhận diện đâu là đúng - sai, phải - trái, chính - tà, thật - giả, thiện - ác để không bị mắc mưu, “sập bẫy”. Hãy biết trân trọng lịch sử cách mạng của ông cha ta, hãy biết nâng niu những giá trị, thành quả hòa bình mà chúng ta đang có, hãy bày tỏ tình yêu quê hương đất nước bằng những thái độ, hành vi ứng xử chuẩn mực, hợp đạo lý, đúng pháp luật. 
             Lo lắng cho vận mệnh đất nước cũng là một biểu hiện của tinh thần yêu nước. Nhưng thời gian gần đây, cũng có một số người lo lắng đến mức chỉ biết ngồi “khóc lóc”, than thở, hoài nghi… thì lại là một thứ “yêu nước suông”! Cũng không nên “bày tỏ tình yêu nước” bằng cách suốt ngày chỉ ngồi bên bàn phím để “than thân trách phận”, đổ lỗi, chỉ trích, mong muốn xã hội thế này, đòi hỏi đất nước phải thế kia… trong khi hàng triệu người dân đang cần mẫn lao động hăng say ở khắp mọi miền đất nước và hàng vạn chiến sĩ đang ngày đêm đổ mồ hôi trên thao trường huấn luyện và làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác giữ gìn biên cương, biển, đảo, lãnh thổ Tổ quốc. 
            Tình yêu nước không phải là điều gì đó quá cao siêu, mà đôi khi bắt đầu bằng suy nghĩ giản dị là hiểu những gì mình đang có, những quyền lợi mình đang được thụ hưởng và cố gắng làm tốt công việc của mình; đồng thời, làm tròn bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.
            Tình yêu nước của mỗi người chỉ thật sự có giá trị khi biết khơi nguồn, lan truyền cảm hứng tình cảm thân thương của mình cho người khác và cộng đồng. Yêu nước vừa là “cái chung” của mọi người, vừa là “cái riêng” của mỗi con người. Và tình yêu nước chân chính chỉ thể hiện đúng mực, đúng lúc, đúng chỗ khi “cái tôi” yêu nước của mỗi người luôn biết bắt nhịp, hòa chung với “cái tôi” yêu nước của cộng đồng, của mọi người trong xã hội./. 
 TBQL 17

 

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU VU KHỐNG CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

  

Có lẽ không người dân Việt Nam nào còn lạ chuyện những công dân vi phạm pháp luật Việt nam bị khởi tố, bị bắt thường bị các thế lực thù địch vu khống, bịa đặt để quy chụp cho công an và chính quyền.

            Gần đây nhất khi vụ việc ở Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội) đang được đưa ra xét xử, trên mạng xã hội, những người mệnh danh là “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà đấu tranh nhân quyền”… đã tự cho mình như một nhà hoạt động vì Đồng Tâm, đại diện cho “dân oan” và trở thành một “nhà truyền thông chủ lực” cho nhóm chống đối chính quyền và lực lượng chức năng ở Đồng Tâm. Điển hình như đối tượng Trịnh Bá Phương đã đưa lên mạng xã hội các bài viết về sự việc Đồng Tâm nhằm kích động dư luận.

            Chúng tôi cho rằng, những người mượn vụ việc để bịa đặt và hướng dư luận hiểu theo ý đồ xấu độc của họ, nhằm làm rối loạn thông tin về hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền. Sự việc ở Đồng Tâm đã được xác định là vụ án được đem ra xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, trong đó các bị cáo bị truy tố với các tội danh “giết người” theo quy định tại Điều 123, khoản 1 và “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 330, khoản 2, Bộ luật Hình sự năm 2015. Vụ án rất rõ ràng về việc đưa các đối tượng ở Đồng Tâm ra xét xử trước pháp luật là hoàn toàn đúng pháp luật, không có chuyện “trấn áp, bắt bớ” như rêu rao của thế lực phản động.

            Người viết bài này muốn nhắc lại một điều chưa cũ, đó là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, phần lớn mỗi người đều có một chiếc điện thoại thông minh cầm tay. Và đó cũng chính là phương tiện hữu hiệu nhất mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng. Bởi vậy chúng ta – những người xem, người nghe, người sử dụng điện thoại thông minh, trước hết phải là người sử dụng thông minh, phải học cách nhận biết được thông tin thật và giả, đúng và sai.

 


 

NHỮNG TÁC PHẨM TRỞ THÀNH “BẢO VẬT QUỐC GIA”

CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH 
                                       

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng trọn đời mình cho mục tiêu cao cả là giành độc lập, tự do cho Tổ quốc ta; mang ấm no, hạnh phúc cho nhân dân ta và để lại những giá trị nhân văn cao quý cho nhân loại. Trước khi đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng và toàn dân di sản vô giá, đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những di sản đó có 5 tác phẩm đã được công nhận Bảo vật Quốc gia đó là:

1. Đường Kách mệnh (Bác viết năm 1927)

2. Nhật ký trong tù (Bác viết năm 1942-1943 với 133 bài thơ bằng chữ Hán)

3. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến chống Pháp (Bác viết năm 1946, lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

4. Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước chống Mỹ (văn bản này Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam sáng ngày 17/7/1966, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh)

5. Di Chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (văn bản gốc viết từ ngày 10/5/1965 đến ngày 19/5/1969, lưu trữ tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng)

Mỗi di sản mà Người để lại đều chứa đựng những giá trị, ý nghĩa lớn lao và luôn tỏa sáng, soi đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên giành những thắng lợi vẻ vang và đang vững bước trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hơn nửa thế kỷ đã qua, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh và Di chúc của Người vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc, soi rọi, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân luôn kiên định và trung thành với sự nghiệp cách mạng; kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà Người đã trọn đời cống hiến và hy sinh, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đích cuối cùng.
——-
TB.

 

 

 





“NGOAN ĐỘT XUẤT, TỐT NHẤT THỜI”

             Dạo này đi đâu cũng nghe người ta bàn tán chuyện nhân sự cấp ủy khóa mới. Ai cũng biết rằng, cùng với chuẩn bị văn kiện thì chuẩn bị nhân sự là hai nhiệm vụ quan trọng nhất đối với đại hội đảng các cấp. Nhưng trên thực tế, nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức, nếu không nói là xem nhẹ, lơi lỏng việc chuẩn bị văn kiện bảo đảm chất lượng, mà chỉ nhăm nhăm, ngấm ngầm lo toan cái chuyện “ai vào, ai ra” cấp ủy khóa mới. Thậm chí, cũng chỉ vì mong muốn bằng mọi giá được “có chân” trong cấp ủy khóa mới mà thời nay còn nảy sinh một loại người cơ hội mới “ngoan đột xuất, tốt nhất thời”.

Gọi là “ngoan đột xuất, tốt nhất thời” vì trong cả nhiệm kỳ họ là người không nổi trội về chuyên môn, chẳng xuất sắc về năng lực, quan hệ ứng xử với mọi người có khi “nhất bên trọng, nhất bên khinh”, thậm chí nịnh trên, nạt dưới; nhưng từ khi biết mình có khả năng nằm trong (hoặc tiếp tục nằm trong) “tầm ngắm” của cấp ủy khóa mới, họ lươn lẹo hình thức ứng xử và chú tâm “đánh bóng” bề ngoài nhằm tạo ra “hình ảnh thân thiện” nhất thời đối với người khác.
Thực hiện phương châm ứng xử “gió chiều nào, che chiều ấy”, họ luôn nói năng, giao tiếp mềm mỏng, nhã nhặn, nhún nhường để hy vọng làm hài lòng tất cả mọi người trong cơ quan, đơn vị. Với cấp trên thì một mực “dạ, vâng”, thủ trưởng nói gì “em” cũng tuân lệnh, lãnh đạo bảo gì “em” cũng nghe theo. Với cấp dưới, làm việc gì họ cũng khen tốt, nói cái gì họ cũng bảo hay. Với đồng nghiệp thì họ rất niềm nở, mỗi khi mở miệng là “anh anh - chú chú”, “cậu cậu - tớ tớ” ngọt như mía lùi, nghe rất dễ xiêu lòng!

Nhưng “cao tay” hơn, có người còn âm thầm thực hiện cái gọi là chiến thuật “vây, lấn, tấn, diệt”; “bao vây” với tất cả những ai có thể mang lại lá phiếu, lợi ích cho mình, tìm mọi cách lân la, gần gũi, lôi kéo những người “đồng hương, đồng môn, đồng niên” và triệt để lợi dụng “nhóm lợi ích” để tạo ra vây cánh nhằm chiếm ưu thế áp đảo trong các cuộc bầu bán; tìm đủ thứ chiêu trò để tiếp cận, “lấn chiếm”, chi phối, mua chuộc tình cảm của người khác bằng cả lợi ích vật chất và tinh thần để “dụ dỗ” được càng nhiều người ủng hộ mình càng tốt. Thậm chí, họ kín đáo dùng đủ mọi mánh khóe để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của những nhân sự vốn được coi là “đối phương, đối thủ” tiềm tàng hay trực tiếp của họ trong cuộc bầu cử. Mục đích của họ là ngấm ngầm “tấn công” nhằm làm giảm thiểu, suy yếu, tiêu hao những lá phiếu có thể dành cho nhân sự khác, cốt để “nâng mình, hạ người”, triệt hạ đối phương đến cùng.

Có một thực tế đáng buồn là không phải ai cũng phát hiện được những kẻ “ngoan đột xuất, tốt nhất thời” đó, vì loại người này bề ngoài lúc nào cũng tỏ ra xởi lởi, hào nhoáng, thân tình với người khác, nhưng thực chất họ là những “diễn viên siêu hạng” trong ứng xử, vì “cái ngoan” của họ là do tình thế bắt buộc “phải ngoan”, chứ cái ngoan đó không thực lòng, thực chất và “cái tốt” của họ là do hoàn cảnh đòi hỏi “phải tốt” giả vờ, chứ đâu phải cái tốt từ cái tâm, cái thiện chân chính. Như một con tắc kè đổi màu, những kẻ “ngoan đột xuất, tốt nhất thời” rất giỏi trong việc khéo léo che mắt thiên hạ, khi thì uốn éo “đóng rắn, giả lươn” không dễ ai hay; lúc lại ra vẻ ngây thơ “cưa sừng làm nghé” nhằm tạo thiện cảm với người tiếp xúc, trò chuyện. Cách “mị dân” siêu khéo của những kẻ “ngoan đột xuất, tốt nhất thời” khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân viên cấp dưới dễ bị đánh lừa nên không phân biệt được đâu là bản chất, đâu là hiện tượng, từ đó nhẹ dạ, cả tin rồi hồn nhiên tiếp tay bầu họ vào cấp ủy khóa mới, trong khi lại vô tâm loại bỏ những nhân tố tích cực, tiến bộ khác.
Không phải ngẫu nhiên mà Người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta từng cảnh báo rằng, đối với cơ quan chức năng và những người có trách nhiệm làm công tác nhân sự đại hội, khi giới thiệu, đề cử ai vào cấp ủy khóa mới thì phải rất tỉnh táo, tinh tường, chứ “đừng nhìn gà hóa cuốc”, “đừng thấy đỏ mà tưởng là chín”, đừng chỉ thấy “cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong”. Những lời cảnh tỉnh đó như nhắc nhở chúng ta - những cán bộ, đảng viên khi dự đại hội đảng các cấp được vinh dự cầm lá phiếu bầu trên tay - phải rất đề cao cảnh giác với những người “ngoan đột xuất, tốt nhất thời”, kiên quyết ngăn ngừa, không để những kẻ cơ hội “siêu tinh vi” này “chui” vào cấp ủy các cấp, vì họ chính là mầm mống gây ra tai họa khôn lường cho Đảng, cho nước, cho dân./.

ST.

 


 

 

 

QUỐC KHÁNH 2-9, VIỆT NAM NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

TỪ ĐẠI DỊCH.

           Ngày 2-9 năm nay, Việt Nam kỷ niệm 75 năm Quốc khánh. Đây là dịp để chúng ta nhìn lại, đánh giá lại những gì chúng ta đã làm được, chưa làm được. Nhưng quan trọng hơn là nhìn về những năm tới, Việt Nam phải làm gì?

Xin giới thiệu bài viết của GS Trần Văn Thọ:

Đối với quá trình phát triển của một đất nước, thời gian 75 năm là rất dài. Thông thường, nếu hoàn toàn ở trong thời bình và có chiến lược, chính sách đúng đắn thì chỉ cần 60 năm để một nước chậm tiến vươn lên địa vị của một nước tiên tiến.

Sau năm 1945, một số nước ở châu Á đã thực hiện quá trình vươn lên đó trong thời gian ngắn hơn, chỉ độ 40 năm.

Việt Nam ta từ năm 1945 đến nay, chiến tranh và đường lối phát triển sai lầm trước đổi mới đã làm mất đi hơn 40 năm, khoảng 30 năm gần đây mới thực sự bước vào quá trình phát triển. Kinh tế Việt Nam đã đạt mức thu nhập trung bình thấp từ 10 năm trước.

Từ đó chúng ta bàn luận làm sao để phát triển thành nước trung bình cao và sau đó tiếp tục vươn lên thành nước tiên tiến.

Để phác họa con đường phát triển tương lai, cho đến gần đây chúng ta thường tham khảo kinh nghiệm các nước đi trước, và dựa trên các khung mẫu lý luận đã được xác lập, dĩ nhiên có tính toán đến những thay đổi về khoa học, công nghệ, về địa chính trị, về phân công quốc tế...

Nhưng đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi tất cả. Chúng ta phải thay đổi tư duy phát triển và vẽ ra một viễn cảnh mới về tương lai Việt Nam.
Thế giới "hậu corona" hay "với corona"?

Hiện nay chúng ta chưa biết bao giờ sẽ chấm dứt đại dịch virus corona, bao giờ sẽ có vắcxin để trị dịch và ngăn ngừa lây nhiễm. Thế giới sẽ bước vào giai đoạn "hậu corona" (post corona) hay sẽ phải sống chung với corona (with corona)?

Dù tính bất xác định còn cao, chưa biết tình hình sẽ triển khai theo hướng nào, nhưng có hai điều hầu như chắc chắn.

Một là dù đại dịch lần này có thể khắc phục nhưng trong tương lai rất có thể sẽ xảy ra các nạn dịch khác. Cho đến nay, loài người đã chứng kiến 4 lần đại dịch (thế kỷ 14, thế kỷ 15, năm 1918 và 2020) và nhiều lần khác với quy mô nhỏ hơn.

Do đó, ngay từ bây giờ chúng ta phải chủ động thiết kế một xã hội có thể sống chung với dịch, phải tích cực tìm ra sự chuyển hoán mới chứ không nên mong tình thế trở lại bình thường như trước.

Hai là qua đại dịch lần này chúng ta thấy được thế nào là một xã hội nhân văn, thế nào là cuộc sống chất lượng cao, một phương thức làm việc hợp lý...

Tổng hợp các yếu tố liên quan hai điểm trên, chủ động phác họa một xã hội lý tưởng, thích nghi với khả năng dịch bệnh tái phát và dựa trên những thay đổi về công nghệ, có thể nêu ra viễn ảnh của thế giới.

Thứ nhất, tính chất "tập trung" của hoạt động kinh tế, xã hội có hiệu quả làm tăng hiệu suất nhưng sẽ phải thay đổi để đối phó với dịch bệnh. Đô thị hóa, tập trung dân số sẽ chững lại hoặc phân tán về các địa phương.

Trong tương lai "tập trung vừa phải", quy mô vừa phải sẽ là hình mẫu của đô thị. Việc tiếp xúc giữa người với người phải bị hạn chế nên các ngành dịch vụ có tính cách tập họp đông người như vui chơi, ca nhạc, hội thảo... sẽ phải giảm hoặc chuyển sang hình thức "từ xa".

Thứ hai, phương thức làm việc sẽ thay đổi. Sẽ ngày càng có nhiều công việc, nhiều người làm việc tại nhà. Trên phạm vi quốc tế, người ở nước này có thể quản lý công việc tại nước khác, làm giảm nhu cầu di chuyển. Công nghệ thông tin, kỹ thuật số phát triển giúp cho phương thức làm việc tại gia, tại nơi mình ở thực hiện dễ dàng.

Thứ ba, trong mùa có dịch, cùng với số lượng lao động làm việc tại gia ngày càng đông, người lãnh lương hưu và nhiều người khác sẽ sinh hoạt ở nhà. Nhưng xã hội vẫn phải cần những người lao động làm việc ở bệnh viện và các cơ sở sản xuất. Đó là những lao động thuộc loại thiết yếu, là những người dấn thân vì cộng đồng, xã hội cần có biện pháp khích lệ và biết ơn họ.

Thứ tư, trong thời đại phải sống chung với dịch bệnh, sẽ có nhiều người do tính chất của nghề nghiệp họ không thể làm việc tại gia nhưng không thuộc loại lao động thiết yếu nói ở trên nên phải chịu thất nghiệp hoặc thu nhập rất thấp.

Chúng ta phải nghĩ đến biện pháp tái phân phối thu nhập để cứu giúp những người đó. Chẳng hạn Nhà nước đưa ra chính sách cung cấp thu nhập cơ bản cho tất cả mọi người ở dưới giới tuyến nghèo.

Thứ năm, thực phẩm và hàng hóa liên quan y tế ngày càng thiết yếu. Vì an ninh quốc gia, các nước sẽ ngày càng ưu tiên cung cấp cho các nhu yếu phẩm này. Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa ưu tiên nước mình mà một số nước gần đây đã áp dụng sẽ có khuynh hướng mạnh hơn.

Thứ sáu, dịch bệnh Covid-19 có khuynh hướng làm yếu toàn cầu hóa. Lưu thông hàng hóa, dịch chuyển lao động bị hạn chế. Đặc biệt, lao động giản đơn di chuyển phải tập trung tại các cơ sở sản xuất nên dễ lây bệnh.

Để tránh rủi ro đó, các nước thiếu lao động sẽ tích cực dùng người máy trong những lĩnh vực có thể dùng được thay vì nhập khẩu lao động.

Công nghệ thông tin trong 25 năm qua đã thúc đẩy toàn cầu hóa (vì giảm chi phí kết nối quốc tế) nhưng bây giờ sẽ chuyển sang giai đoạn làm yếu toàn cầu hóa vì sẽ làm cho các dịch vụ, quản lý có thể thực hiện từ xa, không cần di chuyển lao động.

Con đường phát triển của VN trong thời đại mới

Theo tư duy cũ, con đường phát triển của một nước chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và sau đó sang thời đại hậu công nghiệp trong đó các ngành dịch vụ giữ vai trò chủ đạo. Trong công nghiệp lại có các giai đoạn từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng và công nghiệp có hàm lượng chất xám, hàm lượng trí tuệ cao.

Trong quá trình phát triển đó, đô thị hóa và tập trung dân số, tập trung hoạt động kinh tế ngày càng mạnh. Theo tư duy này thì Việt Nam hiện nay đang ở trình độ giữa thu nhập trung bình thấp và trung bình cao, công nghiệp đang chuyển từ nhẹ sang nặng, và độ 15 năm nữa sẽ dần dần bước qua thời đại hậu công nghiệp.

Tuy nhiên thời đại sống chung với Covid-19 cùng với sự lớn mạnh của kinh tế số sẽ làm đảo lộn trật tự phát triển của tư duy cũ. Với tư duy mới, con đường phát triển của Việt Nam trong tương lai có thể phác họa như sau:

Thứ nhất, nông, công và dịch vụ hầu như đồng thời phát triển, không theo tuần tự như tư duy cũ. Nông ngư nghiệp phải được coi trọng hơn và kết hợp với công nghiệp, với kinh tế số và một số ngành dịch vụ (lưu thông, phân phối, tiếp thị...) để hiện đại hóa.

Việt Nam có lợi thế về tài nguyên nông ngư nghiệp, nên được tận dụng theo hướng hiện đại hóa sẽ vừa bảo đảm an ninh lương thực cho 100 triệu dân vừa xây dựng thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cung cấp thực phẩm chất lượng cao cho thế giới.

Thứ hai, phải đặt lại vấn đề đô thị hóa và phát triển nông thôn. Nếu tiền đề là dịch bệnh còn kéo dài hoặc chấm dứt nhưng về lâu dài có khả năng tái phát thì phải xây dựng đô thị theo mô hình khác với tư duy cũ.

Mật độ dân số phải thấp hơn, đường sá rộng rãi hơn, công viên nhiều hơn. Giao thông công cộng như tàu điện, xe buýt cũng phải thiết kế theo hướng giãn cách xã hội. Ngoài ra cần khuyến khích mọi người dùng xe đạp trong thành phố.

Việt Nam có nhiều thành phố cỡ trung và nhỏ nằm rải rác khắp nước, nhất là ven biển, nên nếu được đầu tư xây dựng theo hướng mới, dân số sẽ phân tán từ Hà Nội và TP.HCM về các thành phố cỡ trung và nhỏ này.

Trong quá trình chú trọng phát triển nông nghiệp kết hợp với công nghiệp thực phẩm và xây dựng hạ tầng kinh tế và văn hóa, nông thôn sẽ giữ lại một lực lượng lao động và dân số nhất định. Tóm lại, đây là chiến lược phân tán và không quá tập trung vào một vài đô thị.

Thứ ba, công nghệ thông tin, kỹ thuật số, tự động hóa là trọng tâm của thời đại sắp tới làm thay đổi phương thức lao động (ngày càng tăng hình thức làm việc tại nhà, quản lý từ xa...) và làm phát sinh chênh lệch giữa người dân trong việc tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ mới và thích ứng với hoàn cảnh mới.

Giáo dục từ xa cũng sẽ phổ biến hơn (nhất là trong mùa dịch) và sẽ gây tình trạng bất bình đẳng giữa gia đình có và không có điều kiện tham gia. Nhà nước sẽ phải có biện pháp trợ giúp và cải cách nội dung giáo dục, đào tạo theo hướng làm cho tất cả mọi người dân đều có điều kiện tham gia và có năng lực tối thiểu về kỹ thuật số.

Thứ tư, tự động hóa làm cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ ngày càng ít dùng lao động. Mặt khác, để tránh rủi ro bệnh dịch lan truyền khi có tập trung lao động, các nước thiếu lao động cũng sẽ tìm cách đẩy mạnh tự động hóa và hạn chế nhập khẩu lao động.

Việt Nam sẽ chịu áp lực tạo công ăn việc làm cho 100 triệu dân nên sẽ phải nghiên cứu một hình thức chia sẻ công việc, trong đó người có công việc giảm giờ làm và giảm thu nhập để nhiều người khác có thể tham gia lao động. Giải quyết tốt việc làm cũng sẽ làm cho Việt Nam sớm chấm dứt xuất khẩu lao động, một biểu hiện của giai đoạn phát triển thấp và không đáng tự hào.

Thứ năm, một xã hội nhân văn dựa trên tinh thần tương thân tương ái sẽ rất cần thiết và Việt Nam phải hướng tới. Để đánh giá một nước văn minh hay không, một trong những tiêu chí quan trọng để phán đoán sẽ là chính sách của chính phủ và thái độ của người dân đối với người yếu thế trong xã hội.

Hình ảnh nào cho Việt Nam kỷ niệm 100 năm độc lập?

Trong 75 năm qua, Việt Nam chỉ có độ 30 năm thật sự phát triển và đã đạt được một số thành quả nhất định.

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, năm 2018 GDP trên danh nghĩa của Việt Nam xếp thứ 47 và GDP tính theo sức mua ngang giá (PPP) xếp thứ 30 trên 193 nước. Hầu như các dự báo dài hạn đều cho thấy Việt Nam sẽ phát triển với tốc độ cao hơn nhiều nước và vào khoảng năm 2045 sẽ lọt vào nhóm 20 nước (G20) có nền kinh tế lớn.

Tôi cũng nghĩ là khả năng đó rất cao. Dân số nước ta sắp đạt 100 triệu. Hiếm có nước nào đông dân như thế mà có sự thống nhất cao về văn hóa, ngôn ngữ và hầu như không có mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, lại nằm giữa vùng phát triển nhất trên thế giới. Một nước có các tính chất đó rất dễ phát triển thành một nước tiên tiến.

Dĩ nhiên Việt Nam sẽ có tiếng nói quan trọng hơn trên vũ đài thế giới. Nhưng uy tín, giá trị của Việt Nam không phải chỉ ở mặt đó.

Trong thời đại mới với khả năng đại dịch sẽ tái phát, nếu Việt Nam xây dựng được một đất nước theo tư duy mới, mô hình mới và trên cơ sở một xã hội nhân văn thì người Việt Nam sẽ hạnh phúc hơn và thế giới sẽ tham khảo mô hình phát triển của chúng ta.

VT.




 

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ TỪ VỤ ĐỒNG TÂM

     

            Từ ngày 07/9/2020, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Giết người” và “Chống người thi hành công vụ” xảy ra ngày 09/01/2020 tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.

Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án này là đặc biệt nguy hiểm đã khiến 3 cán bộ, chiến sĩ công an hy sinh; gây hoang mang, lo lắng đối trong nhân dân; mất trật tự an ninh và gây nhiều hệ lụy khác cho xã hội. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã cho trình chiếu đoạn clip tóm tắt lại quá trình các đối tượng cố tình tạo ra sự tranh chấp đất đai ở Đồng Tâm và những hành vi sai phạm của các bị cáo vào sáng 09/01/2020 dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

             Đứng trước vành móng ngựa, một số ít đối tượng đã quanh co, chối tội, còn lại các bị cáo khác đều cúi đầu khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và khẳng định hành động của mình là vi phạm pháp luật, gây rắc rối trong xã hội, đặc biệt đã làm 3 cán bộ chiến sĩ công an hy sinh và xin được sự khoan hồng của pháp luật. Trước tòa, Lê Đình Chức, Lê Đình Doanh đã kể lại quá trình sát hại 3 cán bộ chiến sỹ, tiến hành dùng dao phóng lợn đâm, xiên, rồi đổ xăng thiêu đốt cán bộ chiến sĩ công an như thế nào...; Lê Đình Công sau khi nhận tội cũng đã gửi lời xin lỗi tới gia đình các nạn nhân, mong được lượng thứ cho hành vi mất nhân tính của mình gây ra.

            Theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, những hành vi phạm tội giết người, phạm tội có tổ chức, trong đó có người giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu; có người chuẩn bị về công cụ, phương thức, thủ đoạn phạm tội; người trực tiếp thực hành tội phạm và có người đóng vai trò xúi giục, giúp sức, cổ vũ về mặt tinh thần… đều phải chịu những hình phạt rất nghiêm khắc của luật pháp, có thể bị xử phạt tù nhiều năm, tù chung thân hoặc tử hình.

            Tất cả vì nhận thức pháp luật không đúng đắn, tham lam mù quáng, nghe theo những lời kích động, cổ súy của những thành phần xấu, các bị cáo đã gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho xã hội, gia đình và cá nhân, cho dù bản thân có nhận thức ra được những lỗi lầm của mình thì tất cả cũng đã muộn màng và không có gì có thể bù đắp được nữa./.

           XH.


THÁNG 9 MÙA THU ĐỘC LẬP - QUỐC KHÁNH VIỆT NAM

Ngày Quốc khánh Việt Nam là ngày lễ chính thức của Việt Nam, diễn ra vào ngày 2 tháng 9 hằng năm, kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba ĐìnhHà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một trong các tiền thân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

CHUYỆN HAI NGƯỜI.

Một ông đại biểu Đồng Nai.

Bến Tre cũng có một ngài điểm tên.

Mỗi vùng dân cử đưa lên.

Chăm cho dân ở trên nền nhân dân.


Hãy làm cho hết tinh thần.

Vì lợi ích của nhân dân xứ mình.

Đừng làm mấy chuyện bất bình.

Để cho dân chúng họ khinh ở đời.


Ngẫm ra mà cứ nực cười.

Ở đâu cũng thấy hai người xía vô.

Hùa theo mấy đứa vong nô.

Lộng ngôn, cuồng chữ, hồ đồ quá đi.


Tạo dựng điều tiếng thị phi.

Mục đích hai vị là gì nữa đây?

Phải chăng tạo gió chuyển lay.

Kích động dân chúng đổi thay cơ đồ.

VIẾT LÁO - LỀU BÁO VIỆT TÂN.

 Lại một bài viết láo.

Của lều báo Việt Tân.

Một tay viết ngu đần.

Lấy bút danh Lạc Việt.


Nội dung bài báo viết.

Nhằm chống lại Đảng ta.

Công kích lãnh đạo là.

Tổng Bí thư - Bác Trọng.


Một bài viết lật lọng.

Không hiểu rõ ngọn nguồn.

Mang bản chất con buôn.

Bồi bút làm chính trị.


Mọi người nên chú ý.

Tránh trang Việt Tân ra.

Một trang web xấu xa.

Chỉ toàn là rác rưởi.

CHU HẢO - KẺ PHẢN BỘI THẾ HỆ


Chu Hảo sinh năm 1940. Cùng thời với hắn là một thế hệ kiêu dũng biết chừng nào. Thế hệ ấy đã phải oằn mình ngay từ trong bụng mẹ bởi gót giày xâm lăng của thực dân, chào đời, tiếng khóc đầu tiên cất lên lại hòa lẫn trong tiếng rít bom đạn trút xuống thân thể Tổ quốc, hắn bú mớm sữa mẹ trong cảnh đói rét thê lương của đồng bào bị đọa dày dưới gót dày Nhật, Pháp, hắn và thế hệ hắn chập chững bước đi khi cả dân tộc phải bò trườn dưới đòn roi của đế quốc. Rồi hắn và bạn bè được cả dân tộc che chở để đến trường, được học tập dù ngoài trời đất kia, cả nước là chết chóc, là tang thương, là máu và nước mắt của đồng bào chiến sỹ đang lầm lũi đánh giặc cứu nước. 15, 16 tuổi thế hệ của hắn đứng trước chọn lựa quan trọng nhất của đời người: Hiến dâng thân mình, đem sinh mệnh của mình hòa vào sinh mệnh Tổ quốc, cùng sống - chết với Tổ quốc hay là đứng yên giữ lấy an toàn mạng sống riêng của mình?

QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ VIỆT NAM CỘNG HÒA CÓ TÍNH CHÍNH DANH HAY KHÔNG ?


Ngày 30/08/1945, Hoàng đế Bảo Đại đọc bản thoái vị trao "ấn, kiếm" lại cho phái đoạn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Như vậy ông đã công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính phủ lâm thời đại diện cho toàn dân Việt Nam, trở thành công dân Vĩnh Thụy và chính bọn thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam. (tướng sĩ Nguyễn Tri Phương tiêu biểu cho cuộc chống lại thực dân Pháp xâm lược những năm đầu)

Bằng những thủ đoạn chống phá mới, các thế lực thù địch, phản động đã thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.

 Dù muốn hay không, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, trong hàng ngũ của chúng ta có một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bị lôi kéo, mua chuộc, thoái hóa, biến chất. Một số cán bộ, đảng viên sau khi bị tiêm nhiễm thông tin tiêu cực, độc hại đã tỏ ra hoài nghi về con đường cách mạng, có tư tưởng xét lại một số chủ trương của Đảng, như đảng viên làm kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân hay vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,... Họ hoài nghi và cho rằng, đây chính là biểu hiện, là minh chứng về sự dần “đổi màu” của Đảng, của chế độ. Nhiều cán bộ, đảng viên từ lung lay lập trường, lại bị tác động, tấn công dồn dập của kẻ thù trên không gian mạng nên dẫn tới tha hóa, biến chất, biến thành những phần tử cơ hội chính trị, thậm chí phản bội lại lợi ích dân tộc và nhân dân.

Có những cán bộ phai nhạt lý tưởng, không kiên định con đường cách mạng, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói và làm trái với quan điểm của Đảng, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, lợi dụng công nghệ và mạng xã hội để “chia sẻ”, “bình luận”, hùa theo các quan điểm sai trái, lệch lạc; không tận tâm, tận lực vì Tổ quốc, vì cách mạng, vì nhân dân, không làm tròn chức trách, bổn phận được giao; kết bè, kéo cánh, tham nhũng, hủ hóa, cơ hội, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân; gián tiếp tiếp tay cho các lực lượng thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng.

Mạng xã hội hiện nay giúp kết nối những người xa lạ, nhưng lại bị lợi dụng làm xa cách con người trong một tổ chức. Một bộ phận cán bộ, đảng viên dần đi vào lối sống “ảo”, làm việc thiếu chuyên tâm, ngại học tập lý luận chính trị, dẫn tới xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, từ bỏ con đường đã chọn. Nhiều cán bộ, đảng viên mất phương hướng, lầm lẫn giữa cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, thực và “ảo”, bạn và thù. Thực tế cho thấy, sau khi bị tiêm nhiễm, có những cán bộ đi vào quá trình “tự diễn biến”, căn bệnh ngày càng trầm trọng thêm nếu tổ chức không phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời. “Diễn biến” đến “độ” nhất định sẽ dẫn tới sự “chuyển hóa”, trở thành “sâu mọt” trong tổ chức và hành vi tất yếu tiếp theo là tiếp tay cho kẻ địch lên mạng nói xấu, bôi nhọ, tuyên truyền các quan điểm sai trái, phản động, thù địch.

Có thể nhận thấy rằng, dưới tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư các thế lực thù địch, phản động đang đẩy mạnh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên với những cách thức và biện pháp mới vừa tinh vi, đa dạng, vừa phức tạp và nguy hiểm hơn trước. Nhưng dù được tiến hành với hình thức và biện pháp nào đi chăng nữa thì mục tiêu, bản chất chống phá của các thế lực thù địch, phản động vẫn không hề thay đổi, từ gieo rắc sự nghi ngờ, lung lay về lý tưởng và cuối cùng là sự thay đổi, buông bỏ lập trường giai cấp công nhân, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, vấn đề đặt ra là phải nhận diện chính xác những tác động, nhất là những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để từ đó, có những biện pháp khắc chế hữu hiệu./.

Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thủ đoạn chống phá đa dạng, tinh vi, phức tạp và nguy hiểm hơn.

Thông qua không gian mạng, mà trực tiếp là các trang mạng xã hội, các diễn đàn, hệ thống truyền thông đa phương tiện, các thế lực thù địch gieo rắc các thông tin xấu, độc, xuyên tạc, tấn công trực diện, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phá hủy nền tảng tư tưởng của Đảng, bản chất cách mạng của Đảng và Nhà nước. Với luận điệu xuyên tạc được lặp đi lặp lại nhiều lần, các thế lực thù địch sử dụng công nghệ để tạo ra sự “thu hút” ảo, như số lượng người đọc, người bình luận, người chia sẻ “khủng” để gây chú ý, hoài nghi, hoang mang và dần làm lung lay tư tưởng của một số cán bộ, đảng viên. Chúng đội lốt, nhân danh “công lý”, “tập thể”, “quyền dân sự” để lập các hội, nhóm nhằm tập hợp, lôi kéo một số cán bộ thoái hóa, biến chất; lập ra cái gọi là “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị” rồi phát tán nội dung trên các trang mạng xã hội, trong đó có facebook, zalo cá nhân hòng làm nhiễu loạn tình hình.

Lợi dụng một số sai lầm, khuyết điểm, sơ hở trong quản lý kinh tế - xã hội ở nơi này hay nơi khác, sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, chúng tung ra các bài viết, phát tán tài liệu kích bác, bôi nhọ lãnh tụ, bôi đen chế độ. Chúng thổi phồng tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của một số cán bộ, coi đó là căn bệnh “thâm căn cố hữu” của chế độ ta. Chúng lợi dụng công nghệ để kết nối giữa các tổ chức, cá nhân, các trang mạng phản động ở nước ngoài và trong nước nhằm trao đổi thông tin, tài liệu, tài chính, phương tiện và phối hợp triển khai các biện pháp chống phá ta từ bên trong. Các tổ chức phản động ở nước ngoài cũng lợi dụng công nghệ như một “cánh cửa” dang rộng “vòng tay” đón những phần tử phản động, cơ hội, bất mãn chính trị trong nước để tập hợp lực lượng.

Các lực lượng thù địch lợi dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ trí tuệ nhân tạo để đầu tư tài chính, công nghệ, con người cho lĩnh vực truyền thông nhằm tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống, lôi kéo, dần dần làm “đổi màu” truyền thông, tách truyền thông khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Chúng triệt để lợi dụng công nghệ để đầu tư kỹ lưỡng cho các sản phẩm truyền thông xấu, độc, phản giá trị; khoét sâu vào trí tò mò, thích cái mới lạ, tin giật gân về các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để nhanh chóng lan tỏa trên môi trường mạng toàn cầu. Điều đó không chỉ khiến một bộ phận người dân có trình độ nhận thức thấp, ít thông tin bị mê hoặc mà còn làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên hoài nghi, hoang mang, dao động, lung lay lập trường và dần tin theo, nghe theo, nói theo, từ đó hình thành dư luận tiêu cực lan tỏa trong xã hội. Cuối cùng, điều nguy hiểm nhất là chúng tiêm nhiễm tư tưởng thù địch, dẫn đến sự chống đối, quay lưng lại với chế độ của một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất.

Tiện ích của nền tảng công nghệ 4.0 cho phép người dùng tiếp cận thông tin mới nhất, nhanh nhất, nóng nhất ở bất kỳ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào. Báo in chính thống đứng trước những thách thức to lớn của mạng xã hội. Công nghệ đã biến những kẻ chống đối, cơ hội chính trị, lực lượng phản động thành các “nhà báo”, “nhà quay phim”, “nhiếp ảnh gia” hiện trường (livestream), thậm chí là “học giả uy tín” để chúng nhào nặn thông tin, trộn lẫn thật giả, đúng sai để bình luận, thêu dệt, gán ghép với mưu đồ chính trị đen tối trong mọi sự kiện; làm cho cán bộ, đảng viên dao động, nghi ngờ giữa đúng và sai, thật và giả, dần dần đi đến chỗ mất niềm tin vào Đảng và chế độ. Chúng kêu gọi phi chính trị hóa với mưu đồ đen tối làm cho Quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng; làm cho cán bộ, chiến sĩ lung lạc, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, dần mất phương hướng, bạc nhược về chính trị, tê liệt sức chiến đấu; biến Quân đội thành đội quân không còn là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nữa.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm cho cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trở nên khó khăn, phức tạp hơn.

 Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm thực hiện các âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước ta; khiến cuộc đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng ta càng khó khăn, phức tạp và khó lường hơn. Giờ đây, tiến bộ công nghệ bị các thế lực thù địch lợi dụng biến thành “công cụ” hữu hiệu tuyên truyền xuyên biên giới nhằm xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhờ sự trợ giúp của công nghệ, hoạt động chống phá gia tăng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian; làm “mờ đi” chủng tộc, màu da, quốc tịch, hệ tư tưởng, bạn - thù. Con người dễ bị lạc vào thế giới “ảo” dưới sự dẫn dắt bởi tin giả, tin xấu, độc của các thế lực phản động với sự hỗ trợ đắc lực của các thành tựu công nghệ mới. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng công nghệ để đẩy tin giả, tin xấu, độc lên không gian mạng, gây nên hỗn loạn thông tin, lẫn lộn thật giả, rồi tiến tới “tiêm nhiễm”, “dẫn dắt”, “đánh lừa”, “ru ngủ” đến mức làm cho người sử dụng đôi khi mất cảnh giác, không thể tự nhận biết về việc mình đang “tự diễn biến”, đang “tự chuyển hóa”./.

Một bức tranh sinh động đối với mạng xã hội ở Việt Nam

 Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet nói chung và MXH nói riêng. Điều này đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được biểu hiện sinh động trên thực tế.

Ngoài các báo điện tử, các trang tin, thông qua MXH (Facebook, YouTube, Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng MXH để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân…

Hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, Luật An ninh mạng (ANM), sau một năm có hiệu lực đã dần đi vào cuộc sống, mang lại những hiệu quả rất rõ nét, thiết thực trong đời sống xã hội. Trước, trong và sau khi luật ra đời, không ít thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc Việt Nam ban hành Luật ANM là "vi phạm quyền con người, bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...". Thực tế, sau một năm thực thi đã chứng minh Luật ANM hoàn toàn không vi phạm quyền con người, không bóp nghẹt tự do ngôn luận, mà ngược lại đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân vẫn được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, tự do ngôn luận hoàn toàn không bị hạn chế nếu chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo môi trường lành mạnh, an toàn. Nhiều thông tin, bài viết, video clip ảnh hưởng tiêu cực đến chuẩn mực, đạo đức xã hội đã được ngăn chặn, xử lý; đời tư cá nhân được bảo vệ; hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng được bảo đảm; các đối tượng tung tin sai lệch, nhất là về dịch Covid-19 gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch đã bị xử lý./.
.

Cần có chế tài xử phạt nghiêm minh

 Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có tự do internet, MXH. Mặt khác, đối với những người vi phạm các quy định của pháp luật trên không gian mạng, đăng phát các thông tin thất thiệt, lừa đảo, xuyên tạc, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân... các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Việt Nam kiên quyết phản đối, đấu tranh với mọi hành vi lợi dụng quyền con người nói chung và quyền tự do internet, MXH nói riêng để chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

 Ngày 3-2-2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử” thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13-11-2013.

Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định khá cụ thể về hành vi thông tin sai sự thật trên môi trường viễn thông. Nhưng quá trình tổ chức thực hiện có những hạn chế và diễn biến tình hình đã thay đổi, xuất hiện những kẽ hở, mức độ xử phạt chưa đủ sức răn đe... Vì thế mà tình trạng dùng MXH, trang thông tin, tài khoản cá nhân để đăng thông tin sai sự thật chưa giảm, thậm chí có chiều hướng gia tăng.

Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ra đời với 124 điều, đã quy định rõ hơn, chi tiết hơn về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực. Đây được xem là phương thuốc mạnh hơn trong việc phòng, chống những thông tin giả, sai lệch, xấu độc đang lan tràn trên không gian mạng thời gian vừa qua.

Hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, kịp thời điều chỉnh mọi mặt của đời sống. Việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho người dân đang được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng thực hiện. Cùng với đó, trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, điều quan trọng đối với mỗi người dân là phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo trong tiếp nhận và xử lý thông tin. Trong khi thực hiện quyền của mình, mỗi người còn phải tôn trọng quyền và lợi ích của tập thể, cá nhân; luôn đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên hàng đầu, thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật.

Việc Việt Nam ban hành Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thực chất là nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet, tự do MXH của người dân ngày càng tốt hơn; làm cho môi trường mạng của Việt Nam ngày càng trong lành và an toàn hơn, phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luận điệu cho rằng Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP cùng các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam ban hành và thực hiện là "bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...", “vi phạm tự do mạng xã hội”... thực chất là hành vi tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước ta. Việt Nam luôn hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền, tiến bộ, dân chủ và văn minh, trong đó các quyền con người nói chung, quyền tự do internet, tự do MXH nói riêng được tôn trọng và bảo đảm. Đồng thời, Việt Nam kiên quyết vạch trần và đấu tranh không khoan nhượng với những tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề này để vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân.

Tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin

Cũng cần thấy rằng nhận thức, quan điểm về internet, MXH và tham gia MXH của một số người chưa đúng, chưa đầy đủ. Không ít người dùng nghĩ rằng tự do internet, tự do MXH là vô hạn, không thấy rõ sự gắn bó giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia MXH. Do cách nhìn thiên về mặt trái của MXH nên vẫn có người nhìn nhận MXH với thái độ thành kiến. Đi kèm với tốc độ phát triển mạnh mẽ của internet, MXH, Việt Nam cũng là quốc gia có nguy cơ xảy ra các hành vi phạm pháp từ MXH.

Đặc biệt, tình trạng tin giả, lừa đảo, xuyên tạc, bịa đặt qua MXH là một trong những vấn đề nhức nhối nổi lên thời gian qua. Nguyên nhân của tình trạng này do đâu? Phân tích chúng ta thấy dư luận phản ứng rất mạnh mẽ trước những vấn đề thuộc giá trị đạo đức truyền thống hoặc các vấn đề nóng, vấn đề có tính thời sự cao trong đời sống xã hội. Lợi dụng yếu tố tâm lý này, nhiều người đã tạo ra các tin giả, tin lừa đảo, tin bóp méo, xuyên tạc sự thật với động cơ và mục đích cá nhân. Vì mục đích kinh tế mà một bộ phận bán hàng online cố tình tạo ra tin giả và lan truyền tin giả nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng vào trang MXH của mình.

Sự bùng phát của tin giả, tin xuyên tạc cũng một phần do chính những người tiếp cận thông tin, những người tham gia MXH. Do nhận thức hạn chế, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết nên không ít người không biết thông tin mình tiếp cận là đúng hay sai, có cơ sở khoa học hay không, tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội như thế nào nên đã đăng tải, chia sẻ, bình luận một cách tùy tiện, vô trách nhiệm... Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng mang danh “thực hiện quyền tự do ngôn luận” thông qua MXH để “bày tỏ quan điểm cá nhân” nhưng thực chất là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và đã bị xử lý trước pháp luật. Sau mỗi trường hợp bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động lại lu loa rằng “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do internet”... Cần khẳng định rõ rằng giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là bao che, dung túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật và sâu xa là chống phá Việt Nam. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do MXH là nhiệm vụ của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng cũng như các quyền cơ bản khác, quyền tự do MXH chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào mục đích đúng đắn và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Mọi hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm pháp luật thì không chỉ có Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải xử lý nghiêm minh.

Để đối phó với nạn tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy rõ tính nguy hại của vấn đề; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân, nhất là người tham gia MXH cần tỉnh táo trong tiếp cận thông tin để tránh bị lợi dụng tiếp tay cho kẻ xấu, đồng thời tích cực đấu tranh với vấn nạn tin giả.

Tin giả lan truyền nhanh nhất ở bộ phận độc giả thiếu hiểu biết nhưng lại quá nhẹ dạ, cả tin… Do vậy, mỗi người cần đề cao trách nhiệm tự thân, nâng cao trách nhiệm đối với các nội dung được đăng tải, chia sẻ. Có thể ví MXH như cái chợ, ở đó người ta bán đủ thứ thông tin, hình ảnh mà không ai kiểm chứng, kiểm duyệt. Ở đó có cả hàng thật lẫn hàng giả, hàng nhái; lẫn cả hàng tươi ngon với hàng ôi thiu… Mỗi chúng ta hãy trở thành những người “tiêu dùng thông thái” khi tham gia vào chợ thông tin này. Hãy giữ cho mình tác phong thận trọng và luôn mang tâm thế của người hiểu biết, tỉnh táo. Chỉ có như vậy mới tạo ra cho mình một bộ lọc chuẩn trong thời đại "bão" thông tin này.

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

YÊU NƯỚC HAY YÊU ĐẢNG?

Bọn Phản động nó luôn tìm cách xuyên tạc vấn đề, cố tách tính quần chúng nhân dân ra khỏi Đảng. Họ cố dẫn dắt rằng Đảng chỉ là một tổ chức không liên quan đến lòng yêu nước, họ cố lái để hướng dân theo quan niệm sai lầm rằng “đất nước là trường tồn, đảng phái là nhất thời”, vì vậy chỉ cần yêu nước thôi là đủ. Thế nhưng yêu nước là gì? Yêu nước bắt nguồn từ những điều rất đỗi bình thường. Bạn yêu quý cảnh đẹp quê hương, thích thú với lịch sử, truyền thống của dân tộc, trân trọng ngôn ngữ, văn hóa, giá trị vật chất và tinh thần của ngàn xưa để lại... Thế là chủ nghĩa yêu nước từ đó hình thành và chi phối mọi hoạt động của bạn. Người yêu nước chân chính, dù đi khắp 4 phương trời thì tình cảm vẫn hướng về đất mẹ, hành động vẫn nhằm làm giàu đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần cho quốc gia, dân tộc, làm vẻ vang thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Và khi có giặc xâm lăng, chính chủ nghĩa yêu nước đó sẽ kết thành sức mạnh chống lại quân xâm lược. Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã từng nói: "Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, và những người thi đua là những người yêu nước nhất". Như vậy, yêu nước là hành động nhằm làm giàu đẹp cho đất nước cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần, chứ không có kiểu yêu nước mà bằng mồm thuần túy, cũng không có kiểu hô hào yêu nước nhưng tâm trí lại ở tít tận trời Tây hoặc làm những việc phương hại đến uy tín của quốc gia, dân tộc; cũng không thể mang tư tưởng tự nhục cao mà bảo rằng mình yêu nước; hoặc tệ hại hơn nữa là hàng ngày hàng giờ bám gót ngoại bang nhưng vẫn treo trên đầu lưỡi chữ yêu nước thương dân! Không phải! Đối với bọn này, Tổ quốc chỉ là công cụ để xu nịnh ngoại bang và lừa gạt đồng bào. Như vậy, trong mỗi người dân Việt Nam đúng nghĩa nói chung, đều có lòng yêu nước nồng nàn. Truyền thống 4.000 năm dựng nước và giữ nước là đáng tự hào, tự tôn dân tộc. Hiếm có quốc gia nhỏ bé nào trải qua ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm Tây xâm lại giữ vững bản sắc văn hóa tinh thần đến vậy. Trong mỗi người dân Việt Nam đều bùng cháy ngọn lửa của chủ nghĩa yêu nước mạnh mẽ, để khi cần, chỉ cần một xu hướng cách mạng đưa lối chỉ đường sẽ kết thành làn sóng dữ dội cuốn bay tất cả những khó khăn. Đảng Cộng sản Việt Nam chính là xu hướng cách mạng đó. Mang trong mình hơi thở thời đại và lý tưởng cách mạng đúng đắn, Nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam là hướng ngọn lửa yêu nước của người dân trở thành ngọn lửa chung của toàn dân tộc, hiệu triệu sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để hoàn thành sứ mạng lịch sử là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự thực là trước khi có Đảng, chủ nghĩa yêu nước với những người con ưu tú như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Cao Thắng, Phan Đình Phùng, Trương Định, Đội Cấn... đã từng rực cháy ngọn lửa yêu nước sáng ngời nhưng chừng đó là chưa đủ để hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc. Từ khi có lý tưởng Cộng sản, với bản chất, lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng Cộng sản Việt Nam có lợi ích gắn liền với lợi ích của giai tầng chiếm số đông trong xã hội đã đủ thế và lực để đưa cách mạng đến thành công. Những gì Đảng làm đều để phục vụ lợi ích của các giai tầng ấy. Lịch sử hình thành và phát triển đã chứng minh rằng, lợi ích của Đảng cũng là lợi ích chung của toàn dân tộc. Hai khái niệm này chưa bao giờ có thể tách rời như những gì bọn phản động đang tích cực rêu rao. Là một người Đảng viên trước hết phải là người yêu nước. Có lòng yêu nước nồng nàn mới thúc đẩy hành động của con người lên một tầng cao mới đó là khát khao cống hiến, có thêm một lý tưởng để phấn đấu. Đứng dưới lá cờ vinh quang của Đảng, người Đảng viên phải ý thức được rằng họ đã mang trong mình một lý tưởng cách mạng, nhiệm vụ của họ là cụ thể hóa chủ nghĩa yêu nước theo lý tưởng cộng sản tức là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngoài ra không có lợi ích nào khác. Không ý thức được điều đó tức là họ chưa xứng đáng là người đảng viên cộng sản. Hoặc là một kẻ cơ hội, hoặc là những kẻ phá hoại, sớm muộn cũng bị loại trừ, đào thải. Những người phấn đấu suốt đời cho lý tưởng Cộng sản, chỉ biết còn Đảng còn mình là những người yêu nước chân chính. Điều đó không thể phủ nhận. Như vậy, yêu Đảng là toàn tâm toàn ý cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, lý tưởng Cộng sản. Không phải tách rời khỏi lòng yêu nước mà ngược lại chính lòng yêu nước là động lực to lớn cho những đảng viên chân chính quyết tâm, phấn đấu hi sinh cho lý tưởng cách mạng của Đảng. Không phải cứ trở thành Đảng viên là mặc định mình đủ tư cách làm cách mạng. Làm sao cho xứng với danh dự và truyền thống của Đảng mới là điều mà mỗi Đảng viên phải luôn tâm niệm để trưởng thành. Người dân bình thường luôn có sẵn tinh thần yêu nước. Họ chưa tiếp xúc với lý tưởng của Đảng, chưa có cảm tình với Đảng nên họ chưa hiểu hết, chưa yêu Đảng là chuyện hết sức bình thường. Nhưng bọn phản động tuyên truyền rằng yêu nước là phải chống lại Đảng, phải ghét Đảng. Đó là xuyên tạc, là đánh tráo khái niệm. Rõ ràng rằng những kẻ ra rả luận điệu đó luôn tìm cách chia rẽ dân tộc, kích động bạo lực, phá rối cuộc sống bình yên hiện tại. Đối với chúng trách nhiệm tối thiểu của công dân đó là nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật chúng còn không thực hiện được thì nói gì đến lòng yêu nước như chúng rêu rao? Đó là chưa kể đến ý thức tự nhục cao luôn sẵn sàng hạ thấp dân tộc mình để xu nịnh ngoại bang. Những kẻ đó nói về lòng yêu nước nghe chừng hơi lố. Trách nhiệm của một công dân bình thường trong xã hội là làm thật tốt chức trách mà xã hội đã giao. Bên cạnh đó coi trọng những chuẩn mực đạo đức, tôn trọng pháp luật là đủ. Chỉ khi nào tiếp xúc, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, tự nguyện đi theo con đường cách mạng, vấn đề yêu Đảng, cống hiến cho Đảng mới được nghiêm túc đặt ra. Người yêu nước chưa cần phải yêu Đảng nhưng đi ngược lại lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xuyên tạc lý tưởng Cộng sản, phủ nhận công sức mà các thế hệ cha ông đã tốn công lao, xương máu gây dựng, ra sức phá hoại nền độc lập tự do mà Việt Nam đang xây dựng thì chắc chắn không phải là người yêu nước, càng không xứng đáng là Đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần khắc tâm: " Mưu đồ vào Đảng chỉ để vụ lợi cho bản thân thì không nên vào! .... Còn vào Đảng xong, lợi lộc không được như ý thì sinh ra bất mãn, hằn thù..., rồi trở cờ, bán đứng... là quân phản động"

Lật tẩy chiêu trò chia rẽ nhân dân với Đảng của các thế lực thù địch

Chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng. chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thường xuyên đưa ra Những luận điệu đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; đưa ra những lập luận, như: “một đảng cầm quyền thì không có dân chủ”, với những yêu sách đòi “Đảng ta phải từ bỏ quyền lãnh đạo” và coi đó là vấn đề “căn cốt”, “then chốt” để hợp lòng dân, v.v. Từ những lời lẽ, giọng điệu trên chúng ta thấy rõ, mục tiêu số một của các thế lực thù địch là nhằm chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; làm cho nhân dân hoài nghi vai trò lãnh đạo của Đảng, xa Đảng, đối lập, chống lại Đảng, thủ tiêu nguồn sức mạnh vô địch và sức sống của Đảng, để đi đến thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Chúng ta không cần phải trình bày nhiều về các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa đã thiết lập nên vị thế lãnh đạo, vai trò dẫn dắt dân tộc, vị thế cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như tính chất mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong quá trình cách mạng nước ta. Đảng đã vì dân mà ra đời, lãnh đạo cách mạng, đưa nhân dân thoát khỏi đêm trường nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo, duy nhất cầm quyền ở nước ta. Và, nhân dân Việt Nam đã theo Đảng, đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng làm nên những kỳ tích vĩ đại của thế kỷ XX, ngày nay đang vững bước trên con đường đổi mới. Đó là bản chất và nội dung cốt lõi của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân đã, đang và vẫn thể hiện sinh động trong thực tiễn và là nguồn sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, không có thế lực nào, dù nham hiểm đến đâu cũng không thể xuyên tạc, chia rẽ được. Bởi, vai trò của Đảng đối với vận mệnh và tương lai của dân tộc, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là khách quan. Tính khách quan đó, không chỉ do chính lịch sử dân tộc và khát vọng của nhân dân Việt Nam quy định, mà còn do chính bản chất cách mạng, tính tiền phong, gương mẫu của Đảng. Vai trò và mối quan hệ đó đã được khẳng định trong thực tiễn lịch sử Việt Nam suốt 90 năm qua, không ai có thể bác bỏ. Do đó, không thể vì sự hạn chế, khuyết điểm nào đó mà nói bừa rằng, Đảng ta đã “hết vai trò”, “không còn khả năng để lãnh đạo đất nước”, “không còn là đảng của nhân dân, vì nhân dân”, v.v. Và, cũng không thể phán xét một cách hồ đồ rằng, quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân không còn nữa, rồi kích động, hô hào nhân dân chống đối lại Đảng và chế độ. Không chỉ trong lịch sử, mà thực tiễn ngày nay cho thấy, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã và đang được thụ hưởng thực sự trong cuộc sống hằng ngày, được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ và lạc quan tin tưởng vào sự phát triển của Việt Nam. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Mọi người dân đều trực tiếp hoặc gián tiếp đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, phát huy hiệu quả. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát không chỉ trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong xã hội, mà còn là phương châm hành động trong xây dựng hệ thống chính trị và là yêu cầu ứng xử của cán bộ, đảng viên trong tiếp xúc, quan hệ với nhân dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lợi và nghĩa vụ; quyền hạn và trách nhiệm; cống hiến và hưởng thụ. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Đảng đã thực sự gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình đúng với Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hiến định. Đó là thực tế, hiện thực sinh động không thể phủ nhận, đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc chống phá, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.