QUỐC
KHÁNH 2-9, VIỆT NAM NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
TỪ ĐẠI DỊCH.
Ngày 2-9 năm nay, Việt Nam kỷ niệm 75 năm Quốc khánh. Đây là dịp để chúng ta nhìn lại, đánh giá lại những gì chúng ta đã làm được, chưa làm được. Nhưng quan trọng hơn là nhìn về những năm tới, Việt Nam phải làm gì?
Xin giới thiệu bài viết của GS Trần Văn Thọ:
Đối với quá trình
phát triển của một đất nước, thời gian 75 năm là rất dài. Thông thường, nếu
hoàn toàn ở trong thời bình và có chiến lược, chính sách đúng đắn thì chỉ cần
60 năm để một nước chậm tiến vươn lên địa vị của một nước tiên tiến.
Sau năm 1945, một
số nước ở châu Á đã thực hiện quá trình vươn lên đó trong thời gian ngắn hơn,
chỉ độ 40 năm.
Việt Nam ta từ năm
1945 đến nay, chiến tranh và đường lối phát triển sai lầm trước đổi mới đã làm
mất đi hơn 40 năm, khoảng 30 năm gần đây mới thực sự bước vào quá trình phát
triển. Kinh tế Việt Nam đã đạt mức thu nhập trung bình thấp từ 10 năm trước.
Từ đó chúng ta bàn
luận làm sao để phát triển thành nước trung bình cao và sau đó tiếp tục vươn
lên thành nước tiên tiến.
Để phác họa con
đường phát triển tương lai, cho đến gần đây chúng ta thường tham khảo kinh
nghiệm các nước đi trước, và dựa trên các khung mẫu lý luận đã được xác lập, dĩ
nhiên có tính toán đến những thay đổi về khoa học, công nghệ, về địa chính trị,
về phân công quốc tế...
Nhưng đại dịch Covid-19
đã làm thay đổi tất cả. Chúng ta phải thay đổi tư duy phát triển và vẽ ra một
viễn cảnh mới về tương lai Việt Nam.
Thế giới "hậu corona" hay "với corona"?
Hiện
nay chúng ta chưa biết bao giờ sẽ chấm dứt đại dịch virus corona, bao giờ sẽ có
vắcxin để trị dịch và ngăn ngừa lây nhiễm. Thế giới sẽ bước vào giai đoạn
"hậu corona" (post corona) hay sẽ phải sống chung với corona (with
corona)?
Dù tính bất xác
định còn cao, chưa biết tình hình sẽ triển khai theo hướng nào, nhưng có hai
điều hầu như chắc chắn.
Một
là dù đại dịch lần này có thể khắc phục nhưng trong tương lai rất có thể sẽ xảy
ra các nạn dịch khác. Cho đến nay, loài người đã chứng kiến 4 lần đại dịch (thế
kỷ 14, thế kỷ 15, năm 1918 và 2020) và nhiều lần khác với quy mô nhỏ hơn.
Do đó, ngay từ bây
giờ chúng ta phải chủ động thiết kế một xã hội có thể sống chung với dịch, phải
tích cực tìm ra sự chuyển hoán mới chứ không nên mong tình thế trở lại bình
thường như trước.
Hai là qua đại dịch
lần này chúng ta thấy được thế nào là một xã hội nhân văn, thế nào là cuộc sống
chất lượng cao, một phương thức làm việc hợp lý...
Tổng hợp các yếu tố
liên quan hai điểm trên, chủ động phác họa một xã hội lý tưởng, thích nghi với
khả năng dịch bệnh tái phát và dựa trên những thay đổi về công nghệ, có thể nêu
ra viễn ảnh của thế giới.
Thứ nhất, tính chất
"tập trung" của hoạt động kinh tế, xã hội có hiệu quả làm tăng hiệu
suất nhưng sẽ phải thay đổi để đối phó với dịch bệnh. Đô thị hóa, tập trung dân
số sẽ chững lại hoặc phân tán về các địa phương.
Trong tương lai
"tập trung vừa phải", quy mô vừa phải sẽ là hình mẫu của đô thị. Việc
tiếp xúc giữa người với người phải bị hạn chế nên các ngành dịch vụ có tính
cách tập họp đông người như vui chơi, ca nhạc, hội thảo... sẽ phải giảm hoặc
chuyển sang hình thức "từ xa".
Thứ hai, phương
thức làm việc sẽ thay đổi. Sẽ ngày càng có nhiều công việc, nhiều người làm
việc tại nhà. Trên phạm vi quốc tế, người ở nước này có thể quản lý công việc
tại nước khác, làm giảm nhu cầu di chuyển. Công nghệ thông tin, kỹ thuật số
phát triển giúp cho phương thức làm việc tại gia, tại nơi mình ở thực hiện dễ
dàng.
Thứ ba, trong mùa
có dịch, cùng với số lượng lao động làm việc tại gia ngày càng đông, người lãnh
lương hưu và nhiều người khác sẽ sinh hoạt ở nhà. Nhưng xã hội vẫn phải cần những
người lao động làm việc ở bệnh viện và các cơ sở sản xuất. Đó là những lao động
thuộc loại thiết yếu, là những người dấn thân vì cộng đồng, xã hội cần có biện
pháp khích lệ và biết ơn họ.
Thứ
tư, trong thời đại phải sống chung với dịch bệnh, sẽ có nhiều người do tính
chất của nghề nghiệp họ không thể làm việc tại gia nhưng không thuộc loại lao
động thiết yếu nói ở trên nên phải chịu thất nghiệp hoặc thu nhập rất thấp.
Chúng ta phải nghĩ
đến biện pháp tái phân phối thu nhập để cứu giúp những người đó. Chẳng hạn Nhà
nước đưa ra chính sách cung cấp thu nhập cơ bản cho tất cả mọi người ở dưới
giới tuyến nghèo.
Thứ năm, thực phẩm
và hàng hóa liên quan y tế ngày càng thiết yếu. Vì an ninh quốc gia, các nước
sẽ ngày càng ưu tiên cung cấp cho các nhu yếu phẩm này. Chủ nghĩa dân tộc, chủ
nghĩa ưu tiên nước mình mà một số nước gần đây đã áp dụng sẽ có khuynh hướng
mạnh hơn.
Thứ sáu, dịch bệnh
Covid-19 có khuynh hướng làm yếu toàn cầu hóa. Lưu thông hàng hóa, dịch chuyển
lao động bị hạn chế. Đặc biệt, lao động giản đơn di chuyển phải tập trung tại
các cơ sở sản xuất nên dễ lây bệnh.
Để tránh rủi ro đó,
các nước thiếu lao động sẽ tích cực dùng người máy trong những lĩnh vực có thể
dùng được thay vì nhập khẩu lao động.
Công nghệ thông tin
trong 25 năm qua đã thúc đẩy toàn cầu hóa (vì giảm chi phí kết nối quốc tế)
nhưng bây giờ sẽ chuyển sang giai đoạn làm yếu toàn cầu hóa vì sẽ làm cho các
dịch vụ, quản lý có thể thực hiện từ xa, không cần di chuyển lao động.
Con đường phát
triển của VN trong thời đại mới
Theo tư duy cũ, con
đường phát triển của một nước chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và sau đó
sang thời đại hậu công nghiệp trong đó các ngành dịch vụ giữ vai trò chủ đạo.
Trong công nghiệp lại có các giai đoạn từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng
và công nghiệp có hàm lượng chất xám, hàm lượng trí tuệ cao.
Trong quá trình
phát triển đó, đô thị hóa và tập trung dân số, tập trung hoạt động kinh tế ngày
càng mạnh. Theo tư duy này thì Việt Nam hiện nay đang ở trình độ giữa thu nhập
trung bình thấp và trung bình cao, công nghiệp đang chuyển từ nhẹ sang nặng, và
độ 15 năm nữa sẽ dần dần bước qua thời đại hậu công nghiệp.
Tuy nhiên thời đại
sống chung với Covid-19 cùng với sự lớn mạnh của kinh tế số sẽ làm đảo lộn trật
tự phát triển của tư duy cũ. Với tư duy mới, con đường phát triển của Việt Nam
trong tương lai có thể phác họa như sau:
Thứ nhất, nông,
công và dịch vụ hầu như đồng thời phát triển, không theo tuần tự như tư duy cũ.
Nông ngư nghiệp phải được coi trọng hơn và kết hợp với công nghiệp, với kinh tế
số và một số ngành dịch vụ (lưu thông, phân phối, tiếp thị...) để hiện đại hóa.
Việt Nam có lợi thế
về tài nguyên nông ngư nghiệp, nên được tận dụng theo hướng hiện đại hóa sẽ vừa
bảo đảm an ninh lương thực cho 100 triệu dân vừa xây dựng thành mặt hàng xuất
khẩu chủ lực, cung cấp thực phẩm chất lượng cao cho thế giới.
Thứ hai, phải đặt
lại vấn đề đô thị hóa và phát triển nông thôn. Nếu tiền đề là dịch bệnh còn kéo
dài hoặc chấm dứt nhưng về lâu dài có khả năng tái phát thì phải xây dựng đô
thị theo mô hình khác với tư duy cũ.
Mật độ dân số phải
thấp hơn, đường sá rộng rãi hơn, công viên nhiều hơn. Giao thông công cộng như
tàu điện, xe buýt cũng phải thiết kế theo hướng giãn cách xã hội. Ngoài ra cần
khuyến khích mọi người dùng xe đạp trong thành phố.
Việt Nam có nhiều
thành phố cỡ trung và nhỏ nằm rải rác khắp nước, nhất là ven biển, nên nếu được
đầu tư xây dựng theo hướng mới, dân số sẽ phân tán từ Hà Nội và TP.HCM về các
thành phố cỡ trung và nhỏ này.
Trong quá trình chú
trọng phát triển nông nghiệp kết hợp với công nghiệp thực phẩm và xây dựng hạ
tầng kinh tế và văn hóa, nông thôn sẽ giữ lại một lực lượng lao động và dân số
nhất định. Tóm lại, đây là chiến lược phân tán và không quá tập trung vào một
vài đô thị.
Thứ ba, công nghệ
thông tin, kỹ thuật số, tự động hóa là trọng tâm của thời đại sắp tới làm thay
đổi phương thức lao động (ngày càng tăng hình thức làm việc tại nhà, quản lý từ
xa...) và làm phát sinh chênh lệch giữa người dân trong việc tiếp cận với kỹ
thuật, công nghệ mới và thích ứng với hoàn cảnh mới.
Giáo dục từ xa cũng
sẽ phổ biến hơn (nhất là trong mùa dịch) và sẽ gây tình trạng bất bình đẳng
giữa gia đình có và không có điều kiện tham gia. Nhà nước sẽ phải có biện pháp
trợ giúp và cải cách nội dung giáo dục, đào tạo theo hướng làm cho tất cả mọi
người dân đều có điều kiện tham gia và có năng lực tối thiểu về kỹ thuật số.
Thứ tư, tự động hóa
làm cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ ngày càng ít dùng lao động. Mặt khác,
để tránh rủi ro bệnh dịch lan truyền khi có tập trung lao động, các nước thiếu
lao động cũng sẽ tìm cách đẩy mạnh tự động hóa và hạn chế nhập khẩu lao động.
Việt Nam sẽ chịu áp
lực tạo công ăn việc làm cho 100 triệu dân nên sẽ phải nghiên cứu một hình thức
chia sẻ công việc, trong đó người có công việc giảm giờ làm và giảm thu nhập để
nhiều người khác có thể tham gia lao động. Giải quyết tốt việc làm cũng sẽ làm
cho Việt Nam sớm chấm dứt xuất khẩu lao động, một biểu hiện của giai đoạn phát
triển thấp và không đáng tự hào.
Thứ năm, một xã hội
nhân văn dựa trên tinh thần tương thân tương ái sẽ rất cần thiết và Việt Nam
phải hướng tới. Để đánh giá một nước văn minh hay không, một trong những tiêu
chí quan trọng để phán đoán sẽ là chính sách của chính phủ và thái độ của người
dân đối với người yếu thế trong xã hội.
Hình ảnh nào cho
Việt Nam kỷ niệm 100 năm độc lập?
Trong 75 năm qua,
Việt Nam chỉ có độ 30 năm thật sự phát triển và đã đạt được một số thành quả
nhất định.
Theo thống kê của
Ngân hàng Thế giới, năm 2018 GDP trên danh nghĩa của Việt Nam xếp thứ 47 và GDP
tính theo sức mua ngang giá (PPP) xếp thứ 30 trên 193 nước. Hầu như các dự báo
dài hạn đều cho thấy Việt Nam sẽ phát triển với tốc độ cao hơn nhiều nước và
vào khoảng năm 2045 sẽ lọt vào nhóm 20 nước (G20) có nền kinh tế lớn.
Tôi cũng nghĩ là
khả năng đó rất cao. Dân số nước ta sắp đạt 100 triệu. Hiếm có nước nào đông
dân như thế mà có sự thống nhất cao về văn hóa, ngôn ngữ và hầu như không có
mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, lại nằm giữa vùng phát triển nhất trên thế
giới. Một nước có các tính chất đó rất dễ phát triển thành một nước tiên tiến.
Dĩ nhiên Việt Nam
sẽ có tiếng nói quan trọng hơn trên vũ đài thế giới. Nhưng uy tín, giá trị của
Việt Nam không phải chỉ ở mặt đó.
Trong thời đại mới
với khả năng đại dịch sẽ tái phát, nếu Việt Nam xây dựng được một đất nước theo
tư duy mới, mô hình mới và trên cơ sở một xã hội nhân văn thì người Việt Nam sẽ
hạnh phúc hơn và thế giới sẽ tham khảo mô hình phát triển của chúng ta.
VT.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét