Thứ Ba, 9 tháng 8, 2022
19 HÀNH VI TIÊU CỰC CẦN TẬP TRUNG PHÒNG, CHỐNG
CHỊ SỨ : "TAO LÀM CÁCH MẠNG ! BỌN MÀY PHẢI GHI NHỚ LÀ VIỆT CỘNG KHÔNG BIẾT KH.A.I B.Á.O"
QUÂN ĐỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG THÁCH THỨC AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
NỮ DÂN QUÂN XÉ ỐNG QUẦN LÀM LẠNH NÒNG SÚNG, 2 LẦN ĐỘI KHĂN TANG RA CHIẾN TRƯỜNG VÀ 4 LẦN BỊ B52 CHÔN SỐNG!
Đấu tranh phòng, chống căn bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở của cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay
Văn học, nghệ thuật không thể đứng ngoài chính trị
Văn học, nghệ thuật chính thống của một chế độ xã hội bao giờ
cũng phục tùng, phục vụ việc xây dựng và củng cố chế độ xã hội ấy. Cả trên
phương diện lý luận và thực tiễn đã chứng minh rõ ràng: Văn học, nghệ thuật
không thể đứng ngoài chính trị, không thể tách khỏi sự lãnh đạo của giai cấp
cầm quyền. Đó là quy luật. Ấy vậy mà, một số người, nhóm người vẫn cố tình đi
ngược lại quy luật khách quan đó.
Thời
gian qua, một số người biến chất hoạt động trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật
nước nhà được sự hà hơi, tiếp sức, kích động của các thế lực bên ngoài đã lớn
tiếng kêu gọi và đòi văn học, nghệ thuật không phụ thuộc vào sự lãnh đạo của
Đảng, đứng ngoài chế độ chính trị hiện hành (cho dù chính chế độ này đã mang
lại cho họ những giá trị đích thực và họ đã, đang được hưởng). Vì thế, họ ra
sức truyền bá các tác phẩm văn học, hội họa, những chương trình ca nhạc, phim
ảnh có nội dung chống chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), phủ nhận thành quả của
cách mạng, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đề cao, cổ
súy một số tác phẩm của những văn nghệ sĩ cực đoan, quá khích. Thậm chí, họ còn
cho rằng, những tác phẩm này đã tạo nên "luồng gió mới" trong lĩnh
vực báo chí, văn học, nghệ thuật nước ta và đã "tiên phong" thoát ra
khỏi sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện đúng tinh thần "văn nghệ mở".
Bên
cạnh đó, một số kẻ đã cố tình bôi nhọ, đả kích các nhân vật, các nhà phê bình
văn học có quan điểm chính thống; xuyên tạc cho rằng họ là những "bồi bút”
cho Đảng, "con rối" trên diễn đàn văn chương... Điển hình trong đó có
nhóm tự xưng “Ban vận động Văn đoàn Việt Nam độc lập”, phiến diện cho rằng: Văn
học, nghệ thuật do Đảng lãnh đạo là thứ văn học, nghệ thuật minh họa nghị
quyết, tô hồng thực tế theo chỉ đạo của Đảng. Thật đáng buồn hơn, khi có nhà
văn, nhà thơ trưởng thành trong nền văn chương cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhưng đã “mắc bệnh nặng” nên “mờ mắt”, phủ nhận chính những đứa con tinh
thần của mình khi "loạn ngôn" cho rằng: Các tác phẩm văn học viết
trong chiến tranh là những kiểu viết minh họa đầy chất “đặt hàng” của Đảng mà
không phải viết do cảm xúc, do tình người của nhà văn. Do đó, những tác phẩm đó
không có giá trị và phải có nhận thức mới để thoát khỏi sự can dự của Đảng (!)
Chắc
chắn các “nhà văn nghệ mở” đều đã biết, sự tồn tại của chính trị trong một xã
hội thường được thể hiện trên hai phương diện là học thuyết chính trị và nhà
nước. Trong đó, học thuyết chính trị giữ vai trò chủ đạo trong ý thức xã hội để
giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp trong xã
hội và xây dựng nên một nhà nước nhằm tổ chức, quản lý, điều chỉnh và định
hướng xã hội phát triển theo lý luận, quan điểm của học thuyết chính trị đó.
Như
vậy, trong một xã hội, nói đến chính trị là nói đến vai trò chủ đạo cả trong ý
thức xã hội lẫn hệ thống thiết chế mang tính chất nhà nước để bảo đảm cho sự
hiện thực hóa tư tưởng chính trị. Khi đã hiển nhiên giữ vai trò chủ đạo trong
một xã hội, thì chính trị không chỉ ảnh hưởng và tác động tới các hình thái ý
thức xã hội khác cùng trong một kiến trúc thượng tầng, mà còn giữ vai trò lãnh
đạo và chi phối mọi hoạt động trong lĩnh vực vật chất, tinh thần của xã hội.
Bằng cách tiếp cận thực sự khách quan, toàn diện, khoa học, Chủ nghĩa Mác-Lênin
đã chỉ ra, văn học, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội nhưng là hình
thái ý thức xã hội đặc thù; biểu hiện tập trung, đầy đủ, sâu sắc nhất quan hệ
thẩm mỹ của con người đối với hiện thực và luôn nhấn mạnh văn học, nghệ thuật
phải thấm nhuần tư tưởng cách mạng, có tính giai cấp, tính đảng, tính định
hướng...
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ
cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”[1]. Vì vậy, dù
có những đặc trưng, đặc thù nào đi chăng nữa thì từ sự nhận thức, phản ánh của
mình, văn học, nghệ thuật vẫn phải nhằm mục đích góp phần vào sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu đặt ra của thời
đại. Ý thức chính trị và ý thức văn học là những người bạn đồng hành trên con
đường đi tìm hạnh phúc. Tiếng nói chính trị và tiếng nói nghệ thuật bổ sung cho
nhau, làm thăng bằng đời sống tinh thần của xã hội.
Thực
hiện sứ mệnh mà dân tộc, nhân dân giao cho, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo văn
học, nghệ thuật nhằm phát huy cao nhất tính “chân, thiện, mỹ” của nó, vì khát
vọng cao đẹp của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa, Đảng lãnh
đạo văn học, nghệ thuật không phải là sự áp đặt, mà trở thành nhu cầu khách
quan, không chỉ cho việc thực hiện mục tiêu, lý tưởng của dân tộc, mà còn vì
chính sự tồn tại, phát triển của văn học, nghệ thuật; bảo đảm cho “hình thái ý
thức xã hội đặc thù” này phát triển đúng hướng, toàn diện, có ích và đáp ứng
khát vọng tốt đẹp, phong phú, lành mạnh của nhân dân, của dân tộc.
Vì vậy,
ngay từ năm 1943, Ðề cương văn hóa-chiến lược đầu tiên về văn hóa (trong đó có
văn học, nghệ thuật) của Ðảng đã đặt văn hóa là một cuộc cách mạng được tiến
hành đồng thời với cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế. Quan điểm đúng đắn
đó, được khẳng định lại trong nhiều nghị quyết của Ðảng. Quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta luôn đề cao văn hóa, coi đó là nền tảng tinh thần của xã
hội, là mục tiêu, là sự bảo đảm cho phát triển bền vững: "Không có hình
thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây
dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống
của con người”[2].
Trong
quá trình lãnh đạo, Đảng không can thiệp sâu vào những vấn đề cụ thể như cá
tính sáng tạo, cảm hứng sáng tác, các tác nghiệp, kỹ năng thực hành văn hóa...
Đảng chủ trương đổi mới phương thức lãnh đạo đối với văn học, nghệ thuật theo
hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng
chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong
sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn. Trong bài
phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ
thuật Việt Nam (25-7-2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Để tạo
điều kiện cho văn học, nghệ thuật phát triển, Đảng và Nhà nước luôn khuyến
khích mọi tìm tòi, tôn trọng tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, xây dựng cơ chế,
chính sách đặc thù đối với văn học, nghệ thuật và văn nghệ sĩ phù hợp với sự
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, đường lối văn học, nghệ thuật của Ðảng
là một bộ phận trong đường lối phát triển con người, phát triển đất nước, được
xây dựng trên những căn cứ khoa học xác đáng, hướng tới những mục tiêu cao đẹp
mà văn học, nghệ thuật cũng nhằm hướng tới. Do đó, văn học, nghệ thuật Việt Nam
từ khi có Đảng lãnh đạo đã chuyển hóa lập trường cho nhiều trí thức tiểu tư sản
sang người trí thức cách mạng giàu lòng yêu nước.
Đơn cử
như, bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu (năm 1938) là một mốc son đánh dấu sự chuyển
biến, đi theo lý tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh của giới văn nghệ sĩ
lúc bấy giờ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã cảm ơn Đảng: Người thay đổi đời tôi, Người
thay đổi thơ tôi. Nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng đã khẳng định: Chính Cách mạng
Tháng Tám đã cứu sống đời ông, giải phóng cho gia đình ông và giải phóng cho
ngòi bút viết tiểu thuyết của ông... Trong giai đoạn cách mạng từ 1930 đến
1945, văn học, nghệ thuật đã có vai trò quan trọng trong vận động cách mạng, cổ
vũ đồng bào cả nước làm nên thắng lợi lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, các tên tuổi, như:
Nguyễn Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Xuân Hồng, Phạm Tuyên, Nguyễn Thi, Lê Anh
Xuân... đã vừa cầm súng, vừa cầm bút; vừa chiến đấu, vừa sáng tác, góp phần làm
nên hình ảnh cao đẹp, đáng tự hào-“Người nghệ sĩ-chiến sĩ”. Họ đã có những tác
phẩm đạt tới tầm cao về tư tưởng, văn học, nghệ thuật; tạo ra những hình tượng
đậm chất lý tưởng, thực sự mang tầm văn hóa lớn trong đấu tranh cách mạng,
hướng bạn đọc đi đến những cái cao thượng anh hùng... Từ khi đất nước thống
nhất, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, văn học, nghệ thuật tiếp tục đạt được
những thành tựu đáng trân trọng; đại đa số các văn nghệ sĩ phát huy trách nhiệm
công dân, trách nhiệm nghệ sĩ-chiến sĩ, sáng tác ra nhiều tác phẩm có giá trị
về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa nước nhà, xứng
đáng đại diện cho “những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng”[3].
Thực tế
là vậy! Thử hỏi các “nhà văn nghệ mở”, các ngòi bút “tiên phong” rằng, đó có
phải là bóp nghẹt tự do, dân chủ, áp đặt tư tưởng, quan điểm trong sáng tạo văn
học, nghệ thuật; hay trấn áp những văn nghệ sĩ, đấu tranh cho tự do tư tưởng,
tự do sáng tạo không? Và, nếu các tác phẩm được viết theo kiểu “minh họa”, hay
viết theo “đặt hàng mà không phải do cảm xúc” thì liệu có đạt tới tầm cao về tư
tưởng, văn học, nghệ thuật như vậy không? Phải chăng, từ ý thức chính trị kết
hợp với tài năng và tấm lòng trong sáng đã đem tới các thế hệ văn nghệ sĩ cách
mạng Việt Nam ý chí, tình yêu vô bờ bến với sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc.
Từ ý thức đó, các văn nghệ sĩ được tự do sáng tác và vững bước cùng dân tộc,
góp phần cùng dân tộc làm nên những kỳ tích mà lịch sử sẽ còn lưu giữ mãi.
Thời
gian qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã cấm phát hành và quyết định thu
hồi một số tác phẩm, ấn phẩm văn học đã phát hành là do vi phạm Luật Xuất bản;
thậm chí có tác phẩm có những quan điểm, nhận định, đánh giá thiếu căn cứ khoa
học, mơ hồ về chính trị, hoặc có nội dung xuyên tạc lịch sử, thông
tin tư liệu sai lệch, tuyên truyền chủ nghĩa xét lại một cách cực đoan, kích
động thù hằn dân tộc, tạo tâm lý oán trách...
Việc
làm đó là hoàn toàn chính xác, đúng đắn để tạo điều kiện cho nền văn học, nghệ
thuật chân chính phát triển, góp phần tích cực vào xây dựng chế độ XHCN mà nhân
dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn, chứ không như một số người rêu rao:
Trừng trị, triệt tiêu những đóng góp của giới tinh hoa, trí thức! Có chăng, đó
chỉ là việc làm ngăn chặn những tác phẩm bôi đen, trút bức xúc và hằn học cá
nhân, lấy cái tôi để làm thước đo phẩm chất cộng đồng...; những tác phẩm đó bao
giờ cũng mang tới sự “phản giá trị” đối với tác phẩm và chính chủ nhân của nó.
Đó là sự thật không thể chối cãi được. Cho nên, khi người ta đòi hỏi tách văn
học, nghệ thuật khỏi chính trị, thì nếu đó không nhằm tiếp tay, thực hiện ý đồ
đen tối cho các thế lực phản động, thì cũng là biểu hiện của sự ấu trĩ, mất
phương hướng trong nhận thức mà thôi.
Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước
Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát: “... phấn đấu đến giữa
thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chỉ có thể
được hiện thực hóa bằng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Vì vậa, Đảng ta xác định: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị,
của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân.
Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân”. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ
“giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường”. Đây là cơ sở để nhận thức và giải quyết tốt vấn đề
có tính nguyên tắc của phát triển và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc hiện nay.
Trên cơ
sở quán triệt quan điểm của Đảng, để phòng chống chia rẽ, bảo vệ và phát huy
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình hiện nay, cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp cơ bản sau:
Một
là, tiếp tục thấu triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về
đại đoàn kết toàn dân tộc. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tư
tưởng, tuyên truyền, tăng cường đồng thuận của các tầng lớp nhân dân với đường
lối lãnh đạo của Đảng. Thường xuyên nắm chắc, dự báo đúng, xử lý chính xác các
vấn đề về tư tưởng, mâu thuẫn, bức xúc xã hội hiện nay. Tích cực, chủ động
thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm sáng tỏ chủ trương, chính sách, thành
tựu đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta. Coi trọng tuyên truyền, giáo dục,
bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc làm
nền tảng tinh thần vững chắc của khối đại đoàn kết trong giai đoạn mới.
Hai là,
đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn,
đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền của Đảng; đặc biệt coi trọng chăm lo, giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị. Thường xuyên củng cố, thắt chặt
mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Ba là,
tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân. Quán triệt, thực hiện đúng phương châm: “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, thực hiện dân chủ
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước.
Bốn là,
nâng cao ý thức cảnh giác, thường xuyên nhận diện, đấu tranh hiệu quả với các
âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù
địch, phản động. Có các giải pháp, biện pháp mạnh, nâng cao hiệu quả đấu tranh,
giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trên không gian mạng-mặt trận nóng bỏng
hiện nay. Chủ động, nhạy bén, sắc sảo phát hiện, vạch trần bản chất phản động,
mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động; giành giữ, bồi đắp tình cảm
cách mạng, niềm tin của toàn thể nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng đất nước.
Năm
là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không ngừng hoàn
thiện đường lối, chính sách, pháp luật về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Bám sát thực tiễn phát triển của đất nước, kịp thời giải
đáp một cách thuyết phục những vấn đề mới về lý luận, thực tiễn đã và đang đặt
ra; cung cấp luận cứ, luận chứng khoa học bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong tình hình mới.
Đảng ta
là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để phòng chống sự chia rẽ, bảo
vệ và phát huy sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết, phải phát huy sức mạnh của
các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sức mạnh nội sinh và bài học thịnh suy, thành bại từ lịch sử
Đối với
dân tộc Việt Nam, đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu và giá trị văn hóa
cốt lõi; là sức mạnh vô địch trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước,
chiến thắng thiên tai, địch họa, định bờ cõi, xưng nền văn hiến, nêu cao độc
lập, tự chủ. Đây là sức mạnh nội sinh có tính chủ đạo xuyên suốt, bền vững của
dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chân
lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Đó là chân lý về sức mạnh vô địch của đoàn kết và phát triển truyền thống đoàn
kết của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Theo
Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, đoàn kết là cội nguồn sức mạnh để chiến
thắng kẻ thù xâm lược và gốc của đoàn kết là chăm lo, gìn giữ sức dân: “Vua tôi
đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, giặc tự bị bắt... Vả lại, khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Sức
mạnh của nhân dân khi kết thành một khối là sức mạnh vô địch. Đó là chân lý
được Nguyễn Trãi khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân,
sức dân như nước”. Tư tưởng này là nền tảng quan trọng hội tụ đại đoàn kết toàn
dân của Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đập tan ách đô hộ tàn bạo 20 năm của giặc Minh.
Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi viết: “Nhân dân bốn cõi một
nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông
chén rượu ngọt ngào”.
Trước
đó, đối mặt với giặc Minh xâm lược, nhà Hồ xây thành cao, hào sâu nhưng không
xây được khối đoàn kết, thống nhất lực lượng toàn dân nên thất bại là tất yếu.
Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng từng nói: “Thần không sợ đánh giặc, chỉ sợ lòng
dân không theo mà thôi”.
Thời kỳ
Pháp thuộc, triều đình nhà Nguyễn chia rẽ, không quy tụ được sức mạnh đoàn kết
dân tộc; nhiều cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước nổ ra song thường mang tính
đơn lẻ, thiếu ngọn cờ tập hợp lực lượng toàn dân nên đều thất bại. Đất nước ta
lại chìm trong đêm trường nô lệ trăm năm thuộc Pháp.
Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán
đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp và phát huy sức mạnh
đoàn kết vô địch của toàn dân. Những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc. Bài học lớn chính là mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn
thống nhất với mục tiêu, lợi ích của dân tộc, nhân dân và Tổ quốc Việt Nam. Sự
đoàn kết trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thế
giới đương đại phản ánh sâu sắc sự cạnh tranh gay gắt, kiềm chế lẫn nhau giữa
các cường quốc. Xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bất ổn chính trị
ở nhiều nơi và hiện tại, tình hình chiến sự tại Ukraine đang diễn biến phức
tạp... phản ánh rõ nét sự can dự, cạnh tranh của các nước lớn và sự chia rẽ,
mâu thuẫn, phân hóa từ bên trong. Do vậy, phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc cũng chính là bảo vệ hòa bình và phát triển bền vững
đất nước ta trong “những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp,
khó dự báo” của thế giới hiện nay.
Quân đội hùng mạnh - đất nước mới hùng cường
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, QĐND Việt
Nam luôn là lực lượng nòng cốt BVTQ, trong thế trận chiến tranh nhân dân. Nghệ
thuật quân sự Việt Nam ngay từ xa xưa đã thực hiện phép dụng binh “ngụ
binh ư nông”- quân gửi trong dân.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, quân đội là
lực lượng không thể thay thế, không thể phủ nhận, là công cụ sắc bén, hữu hiệu
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân
tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.
Trong khi đó, tính chất, yêu cầu nhiệm vụ BVTQ
trong điều kiện mới ngày càng cao; tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức
tạp, mau lẹ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động đến nhiệm vụ BVTQ. Các vấn đề xung
đột, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, biên giới diễn ra phức tạp.
Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá cách
mạng Việt Nam, kích hoạt sự “chuyển màu” về chế độ, cố tình hạ bệ vai trò của
Đảng và QĐND Việt Nam... Trước tình hình đó, nếu Việt Nam không có một đội quân
thực sự “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” thì liệu nhiệm vụ
BVTQ có thể bảo đảm trong mọi tình huống, nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn
định, làm nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước?
Thực tế cho thấy, kể từ sau ngày đất nước hoàn
toàn giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà, thì vẫn chưa có bất kỳ phút giây
những người lính Cụ Hồ được ngơi nghỉ trong cuộc chiến giữ hòa bình, ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân.
Trong mọi giai đoạn lịch sử, thời kỳ phát
triển, quân đội luôn là lực lượng đi đầu và khẳng định những đóng góp to lớn
đối với sự nghiệp cách mạng, nhất là trong suốt hành trình 35 năm thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Vậy nên, với chức năng, nhiệm vụ được giao,
QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt BVTQ rất cần những đầu tư tương xứng để có đủ
tiềm lực, thực lực và sức mạnh bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước,
nhân dân giao phó.
Ở đây, cần hiểu đúng và đủ về chủ trương xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và đặt nhiệm vụ xây dựng quân đội trong
mối quan hệ tổng thể xây dựng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân tự vệ. Trong đó, với tầm nhìn chiến lược, các lực lượng phải từng bước
được đầu tư để hiện đại hóa, chính quy hóa, nhưng trên hết và trước hết phải ưu
tiên xây dựng QĐND Việt Nam trong mối quan hệ với các bộ phận, lực lượng khác
của LLVT.
Bởi thế, trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước,
Quân ủy Trung ương luôn nhất quán quyết tâm xây dựng quân đội cách mạng, nhưng
đồng thời phải tiến lên chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nghị quyết Trung ương
các khóa XI, XII, XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X, XI
đều xác định phải đẩy nhanh tiến độ, chất lượng từng bước tiến lên hiện đại, ưu
tiên xây dựng một số lực lượng trong quân đội tiến thẳng lên hiện đại.
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ mục tiêu phấn
đấu: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững
chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện
đại... Đó là mục tiêu khách quan, đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp BVTQ. Do đó,
việc tập trung quan tâm, đầu tư nguồn lực cho xây dựng quân đội là nhiệm vụ
chính trị của toàn Đảng, toàn dân và sự nghiệp cách mạng.
Đấu tranh phòng ngừa, phát hiện, xử lý nghiêm minh, chính xác hành vi mua bán người, đúng với chính sách, pháp luật của Nhà nước ta
“con rối” trong tay Việt Tân chống phá đất nước
Vào
những năm 2004, 2005, Trương Quốc Huy và Hàng Tấn Phát bị dụ dỗ, lôi kéo tham
gia tổ chức phản động “Hội đồng Dân quân cứu quốc” do đối tượng khủng bố Nguyễn
Hữu Chánh cầm đầu. Tại đây, Trương Quốc Huy đã nhận tiền từ Trương Hữu Chánh để
thực hiện thu thập, phát tán trên các trang mạng nhiều tài liệu có nội dung
xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam và phát tán tờ
rơi xuyên tạc chính quyền “đàn áp tôn giáo”.
Năm
2005, Trương Quốc Huy và Lisa Phạm đã bị cơ quan chức năng của Việt Nam bắt để
điều tra làm rõ hành vi sai trái. Sau thời gian bị tạm giam, nhờ chính sách
nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, hai đối tượng cũng tỏ ra ăn năn hối lỗi,
viết nhiều lá đơn cam kết từ bỏ hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam, Trương
Quốc Huy được trả tự do, Lisa Phạm bị trục xuất về Mỹ.
Tuy
nhiên, với bản chất tráo trở, ngoan cố, sau khi được trả tự do, Trương Quốc Huy
vẫn tiếp tục có hoạt động vi phạm pháp luật, gia nhập các tổ chức phản động. Cụ
thể Huy đã gia nhập "Khối 8406" nhằm tuyên truyền, xuyên tạc, kích
động đòi lập một thể chế đa nguyên chống lại nhà nước.
Năm
2006, Trương Quốc Huy và anh trai bị bắt về tội "Tuyên truyền chống Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Theo cáo trạng của Viện kiểm sát
nhân dân TP Hồ Chí Minh, từ 6-2004 đến 6-2005, Trương Quốc Huy và Hàng Tấn Phát
được một số tổ chức ở nước ngoài lôi kéo tham gia, cung cấp tiền bạc tiêu xài.
Đáp lại, Huy và Phát phải thu thập các thông tin nhằm xuyên tạc, vu cáo Việt
Nam vi phạm tự do dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, kích động nhân dân lật
đổ chính quyền...
Trương
Quốc Huy đã tới hai tỉnh Kiên Giang và An Giang thu thập thông tin, hình ảnh về
các vụ khiếu kiện đất đai, hoạt động quá khích của nhóm tôn giáo... đưa lên diễn
đàn trên mạng. Trương Quốc Huy đã viết bài xuyên tạc về đường lối, chính sách
của nhà nước Việt Nam, in và phát tán hàng loạt tài liệu chống phá. Với những
bằng chứng phạm tội rõ ràng, Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh đã tuyên phạt
Trương Quốc Huy 6 năm tù giam và 3 năm quản chế.
Năm
2012, sau khi mãn hạn tù, Trương Quốc Huy cùng Trương Quốc Tuấn trốn sang Thái
Lan và bị bắt giữ vì hành vi nhập cảnh trái phép; sau đó đã được tỵ nạn tại Mỹ
dưới sự bảo trợ, bảo lãnh của tổ chức, cá nhân phản động từng xúi giục, tiếp
sức cho đối tượng hoạt động chống phá Việt Nam.
Tại Mỹ,
dưới sự chỉ đạo của tổ chức khủng bố Việt Tân, Trương Quốc Huy lập kênh N10TV
trên youtube, facebook để phát tán tài liệu xuyên tạc, bịa đặt, chia rẽ
đoàn kết giữa người dân Việt Nam với chính quyền, kích động bạo lực, gây bất ổn
trong nước.
Thủ
đoạn của Trương Quốc Huy thường là lợi dụng một số sai sót có tính cá biệt,
nhất thời, vấn đề trên báo chí đã đăng, thông tin trên mạng xã hội chưa được
kiểm định, thậm chí là “nghe đồn”… rồi xuyên tạc, thổi phồng, suy diễn, quy kết
tùy tiện, vô căn cứ, qua đó gây hiểu lầm cho người dân, hướng lái dư luận theo
chiều hướng tiêu cực nhằm chống phá đất nước.
Gần
đây, trước tình hình Covid-19 ở Việt Nam diễn biến phức tạp, kênh N10TV càng ra
sức chống phá. Trương Quốc Huy bằng lời lẽ ngông cuồng, láo xược đã vu khống,
xuyên tạc tình hình và công tác phòng, chống dịch, công tác điều hành của Chính
phủ; kích động người dân biểu tình, thực hiện hành vi sai trái….
Với bản
chất xấu xa, ngoan cố chống phá đất nước như vậy, Trương Quốc Huy sẽ không lừa
được dư luận, chỉ là “con rối” cho các thế lực thù địch giật dây và nhận thất
bại thảm hại.