Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2023

Trung tướng Trần Duy Giang: Tập trung thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác hậu cần quý IV năm 2023

Sáng 28-9, Tổng cục Hậu cần tổ chức Hội nghị giao ban công tác hậu cần toàn quân quý III năm 2023 theo hình thức trực tuyến từ điểm cầu Sở chỉ huy Tổng cục đến 34 điểm cầu trong toàn quân. Trung tướng Trần Duy Giang, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần chủ trì hội nghị.


Dự hội nghị tại điểm cầu trung tâm có các đồng chí: Trung tướng Đỗ Văn Thiện, Chính ủy Tổng cục Hậu cần; Thiếu tướng Nguyễn Hùng Thắng, Phó chủ nhiệm, Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần; các đồng chí Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần: Thiếu tướng Phạm Mạnh Cường; Thiếu tướng Hà Như Lợi; Thiếu tướng Huỳnh Tấn Hùng; đại biểu chỉ huy một số cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng; chỉ huy các cơ quan, cục chuyên ngành thuộc Tổng cục Hậu cần…Báo cáo trung tâm tại hội nghị do Đại tá Vũ Quang Miên, Phó tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần trình bày cho thấy, quý III năm 2023, với tinh thần chủ động, tích cực khắc phục khó khăn, ngành hậu cần Quân đội đã bám sát Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; triển khai toàn diện các mặt công tác, bảo đảm kịp thời hậu cần cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên và đột xuất; theo dõi, giám sát, chỉ đạo hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh, giữ vững, ổn định đời sống bộ đội.ổng cục Hậu cần đã chỉ đạo tốt nội dung hậu cần và bảo đảm hậu cần cho các cuộc diễn tập quan trọng; toàn ngành duy trì nghiêm nền nếp, chế độ công tác; quản lý chặt chẽ cơ sở vật chất hậu cần, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm. Đồng thời, tiếp tục phát huy hiệu quả Phong trào thi đua “Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, tạo động lực thúc đẩy, nâng cao chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác hậu cần…Tại phần thảo luận, đại biểu tại các điểm cầu đã phát biểu, đóng góp, bổ sung nhiều ý kiến, tập trung nêu bật những kết quả đạt được trong công tác hậu cần của cơ quan, đơn vị mình; đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hậu cần quý IV và cả năm 2023.

Phát biểu kết luận hội nghị, Trung tướng Trần Duy Giang nhấn mạnh, những kết quả đạt được trong công tác hậu cần của toàn quân quý III năm 2023, chỉ ra những hạn chế, tồn tại yêu cầu các cơ quan, đơn vị tập trung chấn chỉnh, khắc phục trong thời gian tới. Về nhiệm vụ công tác hậu cần quý IV năm 2023, Trung tướng Trần Duy Giang xác định, trước hết, toàn ngành cần nắm chắc tình hình, nâng cao chất lượng dự báo, chủ động tham mưu, chỉ đạo duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu; quản lý chặt chẽ vật chất, trang bị hậu cần dự trữ; bảo đảm đầy đủ, kịp thời mọi mặt hậu cần cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và đột xuất.Tập trung làm tốt công tác hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị triển khai xây dựng hệ thống văn kiện hậu cần-kỹ thuật theo quy định; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoạt động hậu cần phòng thủ quân khu và khu vực phòng thủ; chủ động lực lượng, phương tiện, vật chất hậu cần, sẵn sàng bảo đảm cho các nhiệm vụ và tham gia phòng, chống hiệu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.Trong công tác hậu cần thường xuyên, Trung tướng Trần Duy Giang yêu cầu toàn ngành tập trung phát huy tốt nội lực, các nguồn lực, thực hiện hiệu quả chủ đề công tác hậu cần năm 2023 đã xác định; chỉ đạo, tổ chức tốt công tác nuôi dưỡng bộ đội; tạo nguồn, bảo đảm đủ, kịp thời tiêu chuẩn quân trang năm 2023 cho các đối tượng.Cùng với đó, hướng dẫn, chỉ đạo, chủ động phòng, chống dịch bệnh mùa Đông-Xuân 2023-2024; thực hiện tốt công tác quản lý, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bộ đội, giữ vững tỉ lệ quân số khỏe đạt trên 98,5%. Các đơn vị quản lý, sử dụng đất quốc phòng bảo đảm chặt chẽ, đúng mục đích; ngành doanh trại tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện sắp xếp, xử lý nhà, đất; triển khai xây dựng Đề án “Quy hoạch, đầu tư, quản lý, sử dụng nhà ở công vụ toàn quân giai đoạn 2023-2030”. Công tác xăng dầu tập trung đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kế hoạch mua sắm, tạo nguồn, bảo đảm đủ, kịp thời cho các nhiệm vụ; công tác vận tải chú trọng khai thác, sử dụng hiệu quả phương tiện hiện có; hoàn thành kế hoạch mua sắm, bảo đảm vật tư, trang bị, phương tiện vận tải năm 2023.Ngoài các nội dung trên, Trung tướng Trần Duy Giang yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan chủ động xây dựng kế hoạch, bảo đảm tốt hậu cần cho các nhiệm vụ trọng điểm, lễ kỷ niệm lớn của đất nước, quân đội trong năm 2024; toàn ngành tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số công tác hậu cần; đề xuất tổ chức, biên chế cơ quan hậu cần-kỹ thuật cấp chiến dịch; chỉ đạo thực hiện sáp nhập, tổ chức lại cơ quan hậu cần-kỹ thuật các đơn vị còn lại cấp chiến thuật; triển khai hoàn thành nội dung, chương trình huấn luyện hậu cần cho các đối tượng; tiếp tục phát huy hiệu quả Phong trào thi đua “Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, phấn đấu hoàn thành toàn diện các mặt công tác hậu cần năm 2023.

NGĂN CHẶN "SÓNG NGẦM" TÀ ĐẠO

 Nếu như trước đây, các tà đạo thường có triết lý đơn giản, chủ yếu hướng đến các đối tượng nhẹ dạ, cả tin, dân trí thấp hoặc người dân sống tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa điều kiện tiếp cận thông tin bị hạn chế thì hiện nay, những tà đạo “thế hệ mới” lại chủ yếu khoác cho mình những vỏ bọc được tính toán, nghiên cứu rất kỹ, thông qua việc vay mượn giáo lý của các tôn giáo chính thống, đồng thời thực hiện các chiêu thức truyền đạo tinh vi, triệt để tận dụng sự phát triển của mạng xã hội nhằm lôi kéo đông người tham gia. Sự xâm nhập của hoạt động tôn giáo bất hợp pháp vào các đô thị lớn ngày càng gia tăng, gây hậu quả khó lường đòi hỏi cần phải kịp thời nhận diện và ngăn chặn.

Mới đây, Bộ Nội vụ đã ban hành văn bản đề nghị ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác nắm tình hình, phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh, xóa bỏ về phương diện tổ chức đối với Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ.
Yêu cầu cụ thể là chính quyền các địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp: Giải tán, thu hồi giấy phép đối với các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, không để tổ chức này tái nhóm, hình thành các tụ điểm hoạt động mới; không chấp thuận đăng ký hoạt động dưới mọi hình thức.
Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ đề nghị các địa phương tổ chức thông tin, tuyên truyền các hoạt động vi phạm pháp luật, tác hại do Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ; cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc và chính quyền, đoàn thể... tăng cường thông tin, quán triệt cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, đoàn viên, hội viên và tuyên truyền cho học sinh, sinh viên nhận thức rõ bản chất, hành vi, thủ đoạn, phương thức hoạt động của Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ để nâng cao cảnh giác, không bị lôi kéo...
Từ đây cho thấy, mặc dù đã có nhiều vụ việc bị phát giác, sau những cảnh báo liên tiếp của Bộ Công an, Ban Tôn giáo Chính phủ và một số ngành, đoàn thể, địa phương, tưởng chừng hoạt động của Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ sẽ bị loại bỏ khỏi đời sống nhưng tổ chức tôn giáo bất hợp pháp này vẫn tồn tại dai dẳng, diễn biến phức tạp, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa của các ngành, các địa phương cũng như cả cộng đồng.
Sự xuất hiện của Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ nói riêng và các hoạt động tôn giáo bất hợp pháp nói chung không phải là vấn đề mới xuất hiện tại Việt Nam, tuy nhiên ở mỗi giai đoạn lại có những biểu hiện khác nhau, mức độ ngày càng tinh vi hơn.
Không chỉ co cụm ở một khu vực, nhiều tà đạo nuôi tham vọng tỏa đi khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước để lôi kéo nhiều người tham gia, gây những hệ lụy tiêu cực.
Đáng chú ý gần đây một số tà đạo tìm mọi cách xâm nhập, len lỏi sâu vào khu vực đô thị - vốn là nơi thường được coi là có trình độ dân trí cao hơn mặt bằng chung cả nước. Việc xây dựng “triết lý” của một số tà đạo hiện nay cũng hết sức tinh vi, thể hiện bằng việc vay mượn hoặc dựa trên những giáo lý của các tôn giáo chính thống và hướng lái người nghe theo ý đồ của mình. Đây chính là lý do nhiều người có trình độ học vấn vẫn có thể sa vào “vòng tay” tà đạo. Như một hội nhóm tà đạo tuyên truyền việc chữa bách bệnh dựa vào nguyên lý của “y học năng lượng”, với các phương pháp như yoga, thiền, khí công... vốn là những phương pháp rèn luyện thân thể, tâm trí được nhiều người biết đến.
Việc vay mượn những khái niệm, nguyên lý của các phương pháp vốn có lịch sử hàng nghìn năm đã giúp hội nhóm này dễ dàng tạo dựng niềm tin với người tham gia.
Tương tự việc vay mượn, dựa vào những tôn giáo, những phương pháp đã được thừa nhận cũng là cách mà Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ thực hiện nhằm gây dựng niềm tin với đối tượng họ muốn dẫn dụ. Cụ thể hội nhóm này đã khai thác, sử dụng giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Công giáo và hệ phái Tin lành Cơ đốc Phục lâm. Các bài giảng, các “tuyên truyền viên” của Hội Thánh trích dẫn nhiều câu trong Kinh Thánh khiến người nghe dễ tin theo. Tuy nhiên, bản chất việc trích dẫn đã bị tách rời khỏi bối cảnh khiến nội dung câu trích không còn mang nghĩa nguyên gốc.
Nhìn chung, để dễ lừa mị, dẫn dụ người tham gia, tà đạo “thế hệ mới” hiện nay đều vay mượn những nguyên lý, phương pháp, kinh điển của những tôn giáo, tín ngưỡng, những hiện tượng văn hóa đã được thừa nhận, rồi “cải biến” để phục vụ những mưu đồ không trong sáng. Đáng chú ý, các tà đạo triệt để tận dụng phương thức truyền bá mới thông qua ứng dụng công nghệ để xây dựng, quảng bá và “đánh bóng” hình ảnh, đặc biệt là hình ảnh về các hoạt động từ thiện, cứu trợ, hành động vì môi trường...
Mạng xã hội là kênh chủ lực để họ tìm kiếm, phát triển hệ thống “tín đồ”. Đây chính là một trong những lý do khiến những tà đạo “thế hệ mới” bám rễ và phát tán nhanh chóng tại đô thị. Phương thức tiếp cận đối tượng thường “đánh” vào nhu cầu tâm lý của con người như việc cần sự chia sẻ, cảm thông trong cuộc sống; trao đổi về vấn đề sức khỏe, hoặc căn cứ theo câu chuyện của đối tượng để dẫn dụ… Với những người dân thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, bị tà đạo lôi kéo, việc “giải thoát” họ có phần thuận lợi hơn.
Bởi khi được cung cấp đủ thông tin, kiến thức, họ dễ nhận ra những sai lầm để thay đổi. Ngược lại, việc tà đạo len lỏi vào nhóm người có trình độ học vấn cao gây nên những hệ lụy xã hội khó lường. Bởi đây thường là những người có uy tín trong gia đình, xã hội nên khi họ thực hiện trách nhiệm của tín đồ là truyền bá tư tưởng, phát triển thành viên mới sẽ có nhiều ưu thế, dễ lôi kéo người tham gia, do đó hậu quả cũng rất phức tạp.
Sau khi đã lôi kéo được đông người tham gia, các tà đạo dần bộc lộ tính chất mê tín, dị đoan, phản khoa học, đi ngược văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, như phỉ báng tục thờ cúng tổ tiên, hiếu kính ông bà cha mẹ. Đồng thời, nếu ban đầu việc đi theo một số hội nhóm tà đạo là miễn phí, nhưng dần dần, người tham gia sẽ phải đóng phí, càng lên lớp cao, mức phí càng nhiều.
Cùng với đó là các hoạt động với danh nghĩa “thiện nguyện”, ủng hộ “giáo hội” song lại có hình thức như bán hàng đa cấp, có tính chất ép buộc khiến người tham gia tốn kém rất nhiều tiền. Thậm chí đã có những người bỏ hàng chục triệu đồng bay ra nước ngoài để gặp gỡ “giáo chủ”, rút hết tiền tiết kiệm để đóng góp cho “giáo chủ”... Như Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ, việc tuyên truyền về “ngày tận thế” khiến nhiều người rơi vào sầu não, suốt ngày chỉ nghĩ đến “nước Chúa”, có nhu cầu phải dựa vào hoạt động của những người đại diện cho Hội Thánh để rửa sạch mọi tội lỗi.
Hậu quả là tín đồ phải nộp 10% thu nhập cho Hội Thánh hay những khoản tiền không nhỏ để thực hiện các nghi lễ... Nhiều người sau khi đi theo tà đạo đã rơi vào cảnh “tiền mất, tật mang”; xung đột với gia đình, bạn bè; sống bi quan, phụ thuộc vào các buổi giảng đạo; phủ nhận các tiến bộ khoa học, tin tưởng vào các dạng “bùa phép” để chữa bệnh thay vì đến các cơ sở y tế...
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo và không theo tôn giáo của người dân; bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng.
Tuy nhiên, các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời, Đảng, Nhà nước cũng kiên quyết ngăn chặn tà đạo và những đối tượng lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để xâm phạm an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, xâm phạm lợi ích hợp pháp của nhân dân. Ngăn chặn tà đạo “thế hệ mới” không phải nhiệm vụ dễ dàng, đòi hỏi phải có những cách tiếp cận mới phù hợp thực tiễn hiện nay. Theo đó, các cơ quan chức năng cũng như chính quyền các cấp cần đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời hoạt động bất hợp pháp của các tà đạo, nhất là trên không gian mạng để xử lý nghiêm, làm cơ sở cảnh báo người dân.
Song song với đó, các cấp, các ngành cần có biện pháp giúp nâng cao “sức đề kháng” của cộng đồng. Để làm được điều này, cần sự phối hợp đồng bộ trong công tác tuyên truyền, vận động giữa các cấp, ngành, Trung ương đến địa phương. Người dân cần được thông tin sớm về các tà đạo, cũng như âm mưu của các đối tượng thù địch, cực đoan muốn lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi cá nhân, chống phá Nhà nước, gây mất trật tự xã hội.
Song song đó, các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường phổ biến về hoạt động của những tôn giáo, tín ngưỡng hợp pháp; những nét đẹp trong truyền thống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc để cộng đồng nhận thức được đúng-sai, từ đó hình thành tính tự giác trong công tác phòng ngừa, tham gia đấu tranh chống hoạt động vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tôn giáo.
Ngoài những biện pháp chung, đối với cộng đồng dân cư tại các đô thị, cần có thêm biện pháp phù hợp trình độ, thói quen sinh hoạt của cộng đồng. Trước hết, công tác tuyên truyền, vận động phải được triển khai mạnh mẽ trên phương tiện thông tin đại chúng cũng như không gian mạng. Cần thiết lập các trang thông tin vạch trần âm mưu, thủ đoạn của những tổ chức tôn giáo bất hợp pháp nói chung, nhất là tà đạo “thế hệ mới”.
Đối với cư dân đô thị có mặt bằng trình độ dân trí cao, cần đa dạng hình thức tuyên truyền, thường xuyên có những clip, những buổi livestream trình bày một cách khoa học, dễ hiểu về cách phân biệt giữa tôn giáo, tín ngưỡng được phép hoạt động và các tà đạo; những biểu hiện thường thấy của tà đạo, tác hại của tà đạo với đời sống. Đặc biệt, các trang thông tin cần tạo sự tương tác, kịp thời giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của cộng đồng.
Các tổ chức đoàn thể như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên... phải nâng cao trách nhiệm với thành viên, hội viên của mình trong ngăn chặn tà đạo thông qua công tác nắm bắt dư luận, tuyên truyền, phổ biến pháp luật./.
ST

NGUY HIỂM NẾU GIỚI TRẺ KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN LỊCH SỬ

 Đòi lật lại, xét lại lịch sử, đó là một trong những chiến lược chống phá Đảng và Nhà nước ta. Và để có thể trang bị cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ tấm áo giáp vững chắc trước những ngón đòn thâm độc ấy, thì giáo dục lịch sử là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Có hiểu được, nhớ được lịch sử nước nhà thì mới nhìn thấu được những giọng điệu đổi trắng thay đen, biến có thành không, xuất hiện hàng ngày, hàng giờ trên không gian mạng ấy là nhằm mục đích gì. Nhìn lại quá khứ, trong những thời kỳ khó khăn, gian khổ, nước sôi lửa bỏng, lịch sử hào hùng đã luôn là chỗ dựa, là niềm tự hào để toàn dân tộc vươn lên.

Thế nhưng, ngay trong thời bình, ấm no, hạnh phúc, đáng buồn là đã có sự xao nhãng nhất định trong câu chuyện giáo dục lịch sử. Để dẫn đến kết quả là giới trẻ không nhớ về sử, hiểu sai lịch sử và thậm chí là không quan tâm đến lịch sử. Mà không có kiến thức lịch sử thì làm sao hiểu được dân tộc, đất nước mình, làm sao hình thành nên bản lĩnh, bản sắc. Một đất nước mà không có bản lĩnh, bản sắc thì hòa nhập sẽ trở thành hòa tan. Và cùng với tác động những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử thâm độc thì nhiều hệ quả nguy hiểm có thể thấy rõ.
Trong khi việc truyền thụ kiến thức lịch sử trong nhà trường chưa hấp dẫn, giới trẻ vẫn tìm tới lịch sử qua các kênh khác như phim ảnh, sách báo.
Lấy ví dụ như phim lịch sử. Đây là dòng phim không thể thiếu đối với bất kỳ nền điện ảnh nào. Những sự kiện lịch sử của Hoa Kỳ là nguồn đề tài không bao giờ cũ đối với các nhà làm phim Hollywood. Trung Quốc nổi tiếng với các phim lịch sử cả ở mảng điện ảnh và truyền hình. Hàn Quốc những năm gần đây cũng nỗ lực khai thác đề tài phim lịch sử, dã sử trên màn ảnh.
Còn Việt Nam, trong hơn 6 thập kỷ qua, tất nhiên là tính cả thời gian bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, nhưng Việt Nam chỉ có hơn 20 bộ phim về lịch sử. Một con số ít đến ngỡ ngàng khi nói về thành tích của phim lịch sử ra rạp. Có phim thậm chí còn bị đánh giá là thảm họa.
Trong khi trước đó, chúng ta đã từng gây tiếng vang với thế giới với hàng loạt các tác phẩm Bao giờ cho đến tháng mười, Cánh đồng hoang, Em bé Hà Nội… Có một thực tế, đó là với các quốc gia thành công trong dòng phim lịch sử, thì đòi hỏi sự đầu tư của các hãng phim, thậm chí là một chiến lược từ phía Chính phủ.
Không thích học lịch sử, không được nghe, đọc, hay xem lịch sử. Hậu quả không chỉ dừng lại ở những điểm số.
Khi lịch sử chính thống chưa tiếp cận được người trẻ, thì đồng nghĩa với việc chúng ta đang vô tình tạo ra một khoảng trống cho những thông tin thiếu chính xác, sai sự thật lịch sử mặc nhiên tung hoành mỗi ngày trên mạng.
Bức tranh về giáo dục lịch sử tại Việt Nam cũng không phải hoàn toàn chỉ là màu xám. Đã có một số điểm tích cực được ghi nhận thời gian gần đây qua việc một số dự án của những người trẻ nhằm truyền tải kiến thức lịch sử đến cộng đồng đã nhận được sự ủng hộ.
Lịch sử thường thức – phục chế màu và âm thanh của những hình ảnh lịch sử đen trắng, mỗi clip thu hút hàng triệu lượt xem.
Vietnam Centre - phục dựng phục trang cổ Việt đi kèm với các hoạt động tuyên truyền trong và ngoài nước. Cuốn sách do nhóm xuất bản: Dệt nên triều đại đã được 1 số trường đại học nước ngoài đưa vào thư viện.
Hay Việt Sử Kiêu Hùng - dự án phim dã sử phi lợi nhuận tái hiện những nhân vật lịch sử, trận đánh của dân tộc.
Dù vậy, đa số những dự án như thế này thường có quy mô nhỏ, phổ biến trong một nhóm hay cộng đồng những người yêu lịch sử. Vẫn cần một chiến lược tổng thể, từ nhiều phía, nhất là những cơ quan có trách nhiệm, để lịch sử đến gần hơn với đông đảo người dân, nhất là những người trẻ./.
St

NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG SẢN KIÊN TRUNG, BẤT KHUẤT

 Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh ngày 30-9-1910 trong một gia đình công chức nhỏ tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Tham gia cách mạng từ sớm và hy sinh khi mới 31 tuổi, cuộc đời đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là một tấm gương chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất để các thế hệ sau học tập, noi gương.

🌹
Nữ chiến sĩ cộng sản kiên trung
Năm 1919, Nguyễn Thị Vịnh theo học chữ quốc ngữ tại trường Nguyễn Trường Tộ, sau đó chuyển sang trường Tiểu học Cao Xuân Dục. Tại đây, Nguyễn Thị Vịnh được thầy giáo Trần Phú và các thầy cô giáo trong trường dìu dắt nên sớm giác ngộ cách mạng và bắt đầu tham gia các phong trào yêu nước.
Năm 1927, Nguyễn Thị Vịnh được kết nạp vào Việt Nam Cách mạng đảng, lấy tên là Nguyễn Thị Minh Khai. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai trở thành đảng viên lớp đầu tiên của Đảng. Đồng chí được được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ, huấn luyện đảng viên ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy và tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng.
Tháng 3-1930, đồng chí được cử sang Hương Cảng (Hồng Kông - Trung Quốc), công tác ở Văn phòng chi nhánh Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, nhận nhiệm vụ liên lạc với các tổ chức cách mạng Việt Nam ở trong nước. Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai được đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giáo dục về lý luận những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm hoạt động bí mật...
Tháng 4-1931, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị mật thám Anh ở Hương Cảng bắt, nhưng trước kẻ thù, đồng chí luôn giữ vững khí tiết người cộng sản, giữ bí mật đường dây liên lạc của Đảng. Năm 1933, đồng chí được trả tự do và sau đó đến Thượng Hải tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng, trở thành thành viên của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị tháng 6-1934 của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng với đại biểu các Đảng bộ ở trong nước, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cùng các thành viên trong Ban Chỉ huy tích cực chuẩn bị dự thảo Báo cáo chính trị, dự thảo các văn kiện trình đại hội, chuẩn bị chỗ ăn, ở cho đại biểu từ trong nước ra dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương. Thời gian đó, nhận được giấy triệu tập của Quốc tế Cộng sản về việc cử Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tổ chức ở Mátxcơva (Liên Xô), Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã quyết định cử các đồng chí: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn và 3 đại biểu nữa tham dự.
Trong lúc chờ dự đại hội, Nguyễn Thị Minh Khai đã vào học hệ ngắn hạn tại Đại học Phương Đông (tháng 1-1935). Ngày 25-7-1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản khai mạc. Ngày 16-8-1935, trên diễn đàn Đại hội VII, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã trình bày tham luận tố cáo chế độ thực dân, phong kiến đã thi hành chính sách tàn bạo, dã man đối với nhân dân Đông Dương, nhất là với phụ nữ; đồng thời, nêu bật vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày 3-10-1935, tại Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã có bài phát biểu quan trọng, trình bày khái quát tình hình thanh niên Đông Dương, tình cảnh của thanh niên công nhân, nông dân, trí thức; hoạt động của thanh niên và những nhiệm vụ trước mắt của Thanh niên Cộng sản đoàn Đông Dương…
🌹
Nữ Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn bất khuất
Cuối năm 1936, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai được cử về nước hoạt động. Cuối năm 1937, đồng chí được Xứ ủy Nam kỳ chỉ định giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và trở thành một trong những người lãnh đạo cao trào cách mạng 1938-1939 ở Sài Gòn. Đồng chí đã vận dụng linh hoạt những lý luận cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn được tích lũy khi hoạt động ở nước ngoài để lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son, Công ty Hỏa xa Sài Gòn, công nhân và phụ nữ Hóc Môn, Gia Định; bám cơ sở, mở nhiều lớp học bí mật để huấn luyện cho cán bộ ở thành phố và các lớp huấn luyện cho cán bộ nữ ở các tỉnh Nam Bộ... Thời gian này, đồng chí viết nhiều bài đăng trên báo Dân chúng, trong đó nêu rõ đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề chống phản động thuộc địa, chống phong kiến và vận động phụ nữ tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương; là diễn giả của nhiều buổi mít tinh lớn ở các rạp hát trong thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Ðịnh… Những hoạt động của đồng chí góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở Sài Gòn - Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ.
Ngày 30-7-1940, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị thực dân Pháp bắt. Phủ Thống đốc Nam kỳ kết tội đồng chí “là kẻ chủ mưu trong các hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương, trong đó có việc tổ chức chiến dịch chống quân phiệt, chuẩn bị phong trào khởi nghĩa vũ trang và phá hoại”.
Sau 6 tháng bị giam cầm, tra tấn dã man, nhưng không thể lay chuyển, khuất phục ý chí cách mạng kiên cường, sắt thép của nữ chiến sĩ cộng sản, ngày 21-1-1941, thực dân Pháp đưa đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai ra xử án. Tại tòa, đồng chí đã đanh thép dùng lý lẽ để bác bỏ sự buộc tội của kẻ thù và dù không thể buộc tội, tòa án thực dân vẫn kết án đồng chí 5 năm tù khổ sai và 20 năm biệt xứ. Sau đó, ngày 11-3-1941, Tòa thượng thẩm Sài Gòn đã nâng án của đồng chí lên 5 năm tù khổ sai, 20 năm biệt xứ, 20 năm mất quyền công dân. Ngày 3-4-1941, thực dân Pháp lại đưa đồng chí ra Tòa án binh Sài Gòn xử cùng với những chiến sĩ bị bắt trong khởi nghĩa Nam kỳ và kết án tử hình với tội danh “chịu trách nhiệm về mặt tinh thần”, xúi giục dân chúng làm rối loạn quốc gia và "mưu toan lật đổ chính phủ". Ngày 28-8-1941, thực dân Pháp đã xử bắn đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cùng các đồng chí lãnh tụ kiên trung của Đảng, như: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần... tại Hóc Môn. Trước pháp trường, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai hướng về phía đồng bào, nói những lời tâm huyết: “Việc chúng tôi làm là chính nghĩa. Vì muốn Tổ quốc tôi được độc lập, dân tôi được ấm no mà chúng tôi làm cách mạng. Chúng tôi không có tội gì”.
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai hy sinh khi mới 31 tuổi, song lời dặn của đồng chí trước khi ra pháp trường vẫn khắc ghi trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam yêu nước: "Vững chí bền gan ai hỡi ai/Kiên tâm giữ dạ mới anh tài/Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ/Con đường cách mạng vẫn chông gai".
Tấm gương về lòng yêu nước, đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và nhân dân; sự kiên trung, bất khuất, không nao núng - không khuất phục - không đầu hàng trước kẻ thù; ý chí cách mạng, khí phách anh hùng của người nữ đảng viên cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai mãi ngời sáng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, nhân dân ta./.
St

HỌC CÓ TỐT, HÀNH MỚI TỐT

 “Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”

Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại Đại hội thanh niên Thủ đô”, ngày 30 tháng 9 năm 1964, đăng trên Báo Nhân dân, số 3836, ra ngày 01 tháng 10 năm 1964.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và động cơ của việc học tập trong chế độ mới, khắc phục những cách tư duy cũ do nền giáo dục thực dân, phong kiến để lại. Người dạy: Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà. Bên cạnh việc xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, Người yêu cầu tuổi trẻ phải thực hiện học tập toàn diện và học tập phải gắn liền với rèn luyện. Người dạy thanh niên phải sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Bởi vậy, theo Bác muốn thành công trong công việc phải biết kết hợp giữa học và hành một cách chặt chẽ và xuyên suốt. Lấy lí thuyết hỗ trợ cho hành động và ngược lại lấy hành động để khẳng định sự đúng đắn của lí thuyết. Vận dụng lí thuyết vào hành động thì lí thuyết được kiểm chứng. Từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao hơn hiệu quả công việc. Thực tiễn cho thấy, phương châm học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng đắn. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống trước hết là để hoàn thiện kĩ năng con người. Sau đó là tạo ra những thành quả vật chất, tinh thần phục vụ con người.
Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân đi sâu tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực của quan điểm của Bác trong định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn; quán triệt và thực hiện nghiêm 03 quan điểm, 08 nguyên tắc, 06 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội; bám sát phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị; giáo dục, đào tạo gắn với huấn luyện chiến đấu; huấn luyện sát nhiệm vụ, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, lấy thực hành là chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện thể lực bộ đội. Tổ chức nhiều cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, thực binh có bắn đạt thật, diễn tập chiến thuật vòng tổng hợp... là cơ sở để nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.
St

PHÁT HUY GIÁ TRỊ BÀI HỌC LỊCH SỬ VÔ GIÁ

 Trong bài viết “Bài học lịch sử vô giá”, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 2/1987 (đăng lại trong cuốn sách Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc lại bài học lịch sử quý báu mà Đảng ta đúc kết qua thực tiễn cách mạng. Đó là, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Dẫn lời đồng chí Trường Chinh: “Bài học “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” trước đây rất quan trọng, bây giờ càng quan trọng, đó là bài học lịch sử vô giá của cách mạng nước ta”, tác giả cho rằng “chúng ta không thể không đi sâu nghiên cứu, quán triệt và vận dụng thật tốt bài học lịch sử vô giá mà Đảng ta đã nêu ra, chăm lo làm tốt công tác vận động quần chúng, củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng”.
Phân tích nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc cùng quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng ta, ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới, tác giả nhận định, vấn đề có ý nghĩa quyết định tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng là Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của quần chúng; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng.
Thực tiễn cho thấy, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân đã được minh chứng qua từng giai đoạn cách mạng. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân vì Đảng tham gia, hưởng ứng, hiện thực hóa những chủ trương, đường lối của Đảng. Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc được duy trì hiệu quả suốt thời gian qua cho thấy mối liên hệ mật thiết đó trở thành cơ sở huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ngày càng vững mạnh.
Ở nhiều nơi, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội thường xuyên quan tâm quán triệt, tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc. Qua đó, vận động các tầng lớp nhân dân phát huy dân chủ, thực hiện quyền làm chủ, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, tích cực xây dựng, góp ý sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, pháp luật...
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể thực hiện tốt các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, nhất là giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, giám sát đầu tư của cộng đồng, hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; thường xuyên nắm bắt tình hình nhân dân, tập hợp và kịp thời phản ánh những ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chú trọng quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng, học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tổ chức các phong trào thi đua sâu rộng tới đoàn viên, hội viên và nhân dân.
Nhiều ban công tác mặt trận khu dân cư phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng; các chi hội đoàn thể trở thành nòng cốt trong tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương.
Một số nội dung nổi bật trong đổi mới tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư đã được triển khai, như phổ biến các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh gắn với các nội dung tuyên truyền giữ vệ sinh môi trường, giao thông nông thôn, an toàn thực phẩm, người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, xóa đói, giảm nghèo, an ninh trật tự,…
Thông qua hoạt động ý nghĩa này, mỗi khu dân cư tự đánh giá những ưu điểm và hạn chế, đề ra giải pháp thực hiện để mỗi người dân nâng cao ý thức trách nhiệm cùng bảo vệ và xây dựng khu dân cư ngày càng phát triển.
Thông qua tổ chức ngày hội, những giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc đã được gìn giữ và phát huy, đó là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quê hương, góp phần củng cố tình làng nghĩa xóm, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những nội dung tích cực lan tỏa hành động ý nghĩa, làm giảm các tệ nạn xã hội, đồng thời nhân lên gương sáng, việc hay trong học tập, công tác, lao động sản xuất, các phong trào giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh... khơi dậy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, gắn kết tình làng nghĩa xóm, góp phần nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Trong mọi giai đoạn cách mạng, bài học “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” vẫn luôn giữ nguyên giá trị, là lời nhắc nhở sâu sắc đội ngũ cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị về nhiệm vụ phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tiếp xúc, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; trao đổi, giải đáp những vấn đề người dân quan tâm.
Qua đó, tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên cần xây dựng chương trình hành động cụ thể, đề xuất giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với tình hình tại cơ sở, phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời chăm lo đời sống nhân dân./.
St

BỘ NỘI VỤ SẼ BÁO CÁO LỘ TRÌNH CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG

 Bộ Nội vụ sẽ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6, khoá XV 4 văn bản, đề ántrong đó có báo cáo lộ trình cải cách chính sách tiền lương.

Đây là thông tin tại Hội nghị giao ban công tác Quý III, triển khai nhiệm vụ Quý IV năm 2023 do Bộ Nội vụ tổ chức ngày 29/9.
Báo cáo tại Hội nghị, Chánh Văn phòng Bộ Vũ Đăng Minh cho biết, trong Quý III/2023, số nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao là 218 nhiệm vụ. Trong đó, đã hoàn thành 204 nhiệm vụ (đạt tỉ lệ 93,6%), đang thực hiện 14 nhiệm vụ (chiếm 6,4%).
Trong Quý III/2023, Bộ Nội vụ tập trung nguồn lực, dồn sức trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách lĩnh vực Nội vụ, kết quả là: Trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi); ban hành Nghị quyết số 35 về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2022 - 2030;
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện quy định trình tự việc cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân; trình Chính phủ ban hành 5 Nghị định; 2 Nghị quyết; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 6 Quyết định; 1 Công điện; Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền 4 Thông tư và 2 văn bản hợp nhất.
Đồng thời, tập trung đôn đốc các địa phương triển khai các Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Chính phủ về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2025; triển khai kế hoạch thực hiện cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công;
Tiếp tục đổi mới chế độ công vụ, công chức gắn với vị trí việc làm, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đặc biệt quan tâm chỉ đạo cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, báo cáo cũng thẳng thắn chỉ ra một số tồn tại hạn chế, như: Công tác triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật chưa kịp thời, đặc biệt là tập huấn, hướng dẫn triển khai các chính sách mới đã ban hành; công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị tuy đã được cải thiện nhưng hiệu quả công việc chưa cao.
Người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ; còn tình trạng cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện né tránh, đùn đẩy công việc, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám tham mưu, đề xuất xử lý công việc dẫn đến công việc chậm tiến độ.
Đối với nhiệm vụ của Quý IV năm 2023, bên cạnh các nhiệm vụ đã được đề ra trong dự thảo Báo cáo, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh và yêu cầu các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ tập trung một số nhiệm vụ trọng tâm:
Người đứng đầu các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ và toàn thể công chức, viên chức, người lao động thuộc Bộ xác định việc hoàn thành các nhiệm vụ trong năm 2023 một cách chủ động, chất lượng, đảm bảo đúng tiến độ được giao; đồng thời, xây dựng kế hoạch nhiệm vụ trong năm 2024 theo hướng đổi mới, rõ việc, rõ người chịu trách nhiệm, rõ sản phẩm đầu ra.
Chủ động, hoàn thành công tác xây dựng thể chế chính sách gồm: Trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6, khoá XV 4 văn bản, đề án: Dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi); báo cáo công tác quản lý cán bộ, công chức;
Báo cáo lộ trình cải cách chính sách tiền lương; báo cáo sơ kết tổ chức chính quyền đô thị tại Tp.Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh; trình Chính phủ ban hành 12 Nghị định; trình Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền 8 Thông tư.
Tập trung thực hiện Nghị quyết số 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị quyết số 117 của Chính phủ về thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2025; đôn đốc các địa phương triển khai sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2025; chủ động tham mưu giải quyết hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền giải quyết các vướng mắc, bất cập khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính.
Xây dựng kế hoạch rà soát các quy định, đánh giá tác động của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các Luật có liên quan để có cơ sở đề xuất trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung các Luật theo quy định.
Tiếp tục giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến vấn đề: tôn giáo, tín ngưỡng, mê tín dị đoan; tình hình công chức, viên chức thôi việc, bỏ việc; tình trạng cán bộ, công chức sợ sai, đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm; cải cách hành chính; kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực thi công vụ.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và lường trước các vấn đề phát sinh nhằm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước.
Tăng cường công tác đối ngoại trên các lĩnh vực Nội vụ, chuẩn bị các điều kiện phục vụ Lãnh đạo Bộ đi công tác nước ngoài theo Kế hoạch.
Chủ động phối hợp với các đối tác quốc tế để triển khai các hoạt động đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, cải cách công vụ, công chức, nghiên cứu khoa học và khai giảng năm học mới tại Học viện Hành chính Quốc gia.
Tập trung cho công tác c.h.u.y.ể.n đ.ổ.i s.ố trong đó: hoàn thiện thể chế, môi trường pháp lý đáp ứng yêu cầu c.h.u.y.ể.n đ.ổ.i s.ố; khẩn trương xây dựng quy chế vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức; tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, giới thiệu kiến thức cơ bản về c.h.u.y.ể.n đ.ổ.i s.ố, an toàn an ninh mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức./.
St

BIỂU TƯỢNG CHIM LẠC TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN

 Giờ đây, hình đàn chim mỏ dài bay quanh mặt trời trên mặt trống đồng Đông Sơn đã trở nên quen thuộc với nhiều Việt. Tuy nhiên, chúng vẫn là một điều gì đó bí ẩn.

Nhà hát Hồ Gươm mới khánh thành gần đây, đã được trang trí với các hoa văn truyền thống biểu trưng cho văn hóa Việt như: trống đồng, mặt trời, chim hạc …
Vậy đàn chim bay đó là loài chim gì? Vì sao chúng lại có mặt bền bỉ, thường xuyên trên trống đồng Đông Sơn như vậy? Chúng ta nên gọi chúng là chim gì, cò trắng hay hạc, chim Hồng hay chim Lạc?
Từ góc độ khảo cổ - sinh vật học - dân tộc học, nhiều học giả đã nhất trí xác định: trên trống đồng Đông Sơn, hình đàn chim bay quanh mặt trời gồm vài loài chim khác nhau nhưng phần lớn là cò trắng, một loài chim thuộc họ diệc.
Đó chính là loài chim vật tổ lâu đời nhất của người Lạc Việt, tộc chủ thể của các nước Văn Lang, Âu Lạc và là tổ tiên trực tiếp của người Việt Nam hiện nay.
Tín ngưỡng vật tổ là một tín ngưỡng phổ biến ở loài người thời nguyên thủy, thời con người sống chủ yếu bằng săn bắt hái lượm, hòa hợp nhưng phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
Theo tín ngưỡng đó, một cá nhân, một dòng họ, một tộc người tin rằng mình có quan hệ họ hàng thần bí và có tác động qua lại với một vật, cây, con mang những tính cách gần gũi với mình, có những phẩm chất mình mong muốn và từ đó là vị thần bảo vệ, là biểu tượng cho mình.
Thời Đông Sơn, tức thời Hùng Vương - An Dương Vương - Hai Bà Trưng, đó là tín ngưỡng cơ bản của người Đông Sơn và là hồn cốt của văn hóa Đông Sơn. Đó là một cách tạo ra tình cảm, niềm tin, sự cố kết giữa những người cùng dòng máu, tổ tiên, đất nước.
Truyền thuyết cội nguồn của người Việt có tên là Họ Hồng Bàng. Xét hai chữ Hồng Bàng, chữ Hồng gồm chữ giang (sông) chỉ âm đi cùng với chữ điểu (chim), chỉ nghĩa có ý chỉ một loài chim nước, người Việt gọi là giang, người Hoa gọi là hồng hay hồng hạc, là loài chim họ cò hay hạc, chị em với cò trắng, ngỗng trời, nhưng thường bay cao bay xa, từ đó người xưa coi là một biểu tượng cho người tài cao chí lớn… Chữ Bàng có chữ long dưới chữ quảng, chỉ rồng, con vật huyền thoại, biểu tượng cho sông nước.
Như vậy, họ Hồng Bàng là những người có vật tổ Chim - Rồng, tương ứng với Mẹ Âu Cơ - Bố Lạc Long. Mẹ Chim Âu Cơ hóa thành Thần - Tiên trên trời. Đó chính là gốc của việc người Việt sau này nhận mình là “dòng dõi Lạc Hồng” hay “con Rồng - cháu Tiên”.
Theo tâm thức đó, người Bách Việt thời Đông Sơn đều thờ Bà Tổ Chim - Ông Tổ Rồng, nhưng mỗi tộc người, nhóm địa phương, dòng họ thờ một loài chim cụ thể như: cò, cốc, hồng hoàng, hồng hạc, bồ nông, ngỗng trời, gà... cùng với một con vật nước cụ thể như: rùa, cá sấu, rái cá, ếch, rắn, cá... Tất cả các con vật tổ đó đều được thể hiện trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn.
Thời Hùng Vương - An Dương Vương là thời mẫu hệ, thời Hai Bà Trưng là thời mẫu quyền. Vì thế, trên trống đồng biểu tượng Bà Tổ Chim là biểu tượng chính chủ nổi bật nhất.
Trong các loài chim, cò trắng là loài chim vật tổ - biểu tượng lâu đời nhất của người Lạc Việt. Vào thời An Dương Vương, khi vua được đồng nhất với mặt trời, với vương quốc, cò trắng đương nhiên là Bà Tổ của hoàng tộc Âu Lạc, tức dòng họ An Dương Vương, vị vua đã cho đúc và ban phát những chiếc trống đồng Đông Sơn đầu tiên.
Vậy vì sao cò trắng là loài chim vật tổ?
Từ xa xưa, là những người thuần hóa cây lúa và trồng lúa nước sớm, người Lạc Việt đã có tục thờ mặt trời, coi mặt trời là Bà Tổ. Trong khi đó, cò trắng là một loài chim di cư có cuộc sống gắn với sự chuyển động của mặt trời. Hàng năm, vào cuối thu - đầu đông, sau vụ gặt cò bay đi trú rét, đến mùa xuân- mùa mưa- mùa lúa mới trở về.
Hàng ngày, khi mặt trời mọc, đàn cò bay đi, khi mặt trời lặn chúng bay về. Trước khi hạ cánh, từng tốp, từng tốp lượn vòng tròn trên trời giống hình mặt trời, cánh lấp lánh ánh sáng. Có màu lông trắng muốt như ánh sáng mặt trời, lại bay đến bay đi với đôi cánh nhịp nhàng, bền bỉ theo chu kỳ chuyển động của mặt trời, cò được tin là một hiện thân của mặt trời hay là chim - mặt trời…
Trong truyền thuyết Bách Việt, cò chính là loài chim thần đã mang những hạt lúa cho người để người có nghề trồng lúa. Từ đó, cò được coi là loài chim hạnh phúc gắn với sự no ấm của người, với vẻ đẹp thanh bình của làng quê, đặc biệt với tính nhẫn nại cần cù của người mẹ…
Còn nữa, cò là loài chim thông minh, đất lành mới đậu; là loài chim có tính cộng đồng cao, luôn thành đàn bay đi kiếm ăn, bay về tổ ngủ.
Cò là người bạn thân thiết với người trồng lúa. Cò bắt sâu bọ hại lúa. Cò bắt ruồi bọ, ve vắt cho trâu, con vật đầu cơ nghiệp nhà nông. Đó chính là những lý do người Lạc Việt bao đời tin cò là vật tổ, là biểu tượng cho mình.
Trống đồng là biểu tượng cao quý nhất cho vương quyền và thần quyền Bách Việt thời Đông Sơn. Hình đàn cò trắng trên mặt trống là biểu tượng cho thần quyền của tín ngưỡng thờ Bà Tổ Chim.
Trong đám ma, khi tiếng trống đồng vang lên, đàn cò thay Bà Tổ về đưa hồn người chết đi gặp tổ tiên. Trong lễ cầu mưa - cầu mùa: đàn cò lại là hiện thân của Thần Lúa - Mẹ Lúa về mang mưa nắng và mùa màng tươi tốt.
Học giả Đào Duy Anh (1904 - 1988) là người khởi xướng cách gọi loài chim bay quanh mặt trời trên trống đồng là chim Lạc bởi theo ông, Lạc là từ chỉ loài chim vật tổ của người Lạc Việt, và tên Lạc Việt bắt nguồn từ tên chim Lạc...
Tuy nhiên, một số người đã tìm mọi cách bác bỏ cách gọi đó. Người muốn gọi thẳng đó là cò, người cố chứng minh Lạc nghĩa là Nước nên chim Lạc chỉ là chim Nước.
Thực ra, tên Lạc Việt không có gốc từ tên chim Lạc. Lạc và Việt đều có nghĩa gốc là Người. Lạc Việt có nghĩa gốc là Người Việt. Ở nhiều nhóm Bách Việt, có hiện tượng đồng nhất tên tộc người có nghĩa Người có trước với tên vật tổ có âm gần gũi có sau. Ví dụ: sự đồng nhất tên gọi người Giao với tên vật tổ giao (giao long hay cá sấu) hay tên gọi người Klao với tên vật tổ tre klao...
Vậy chúng ta nên gọi loài chim bay trên mặt trống Đông Sơn là chim Hồng hay chim Lạc, là cò hay hạc? Về bản chất, đó là loài chim biểu tượng cho Bà Tổ Chim, nhưng tên chim Hồng gắn với truyền thuyết Họ Hồng Bàng, còn chim Lạc gắn với tên Lạc Việt. Về mặt khoa học, gọi cò trắng là đúng nhất. Nhưng về mặt lịch sử, tên chim Lạc gắn trực tiếp với tộc người và trống đồng Lạc Việt nên là tên gọi giàu ý nghĩa hơn cả.
Trong tâm thức người Việt hàng ngàn năm sau, khi tín ngưỡng vật tổ cò đã phôi pha thì biểu tượng cò trắng vẫn còn đó. Trong ca dao Việt, cò trắng vẫn là biểu tượng của đất nước Việt và đặc biệt, của người mẹ Việt.
Xưa, vẻ đẹp thanh bình của làng quê Việt và niềm hạnh phúc của người trồng lúa Việt vẫn luôn ẩn hiện trong những cánh cò:
“Con cò bay lả bay la/Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng/Chân trời thảm lúa mênh mông/ Cò bay mỏi cánh sao không thấy bờ?”.
“Một đàn cò trắng bay tung/Bên nam bên nữ ta cùng hát lên”.
“Một đàn cò trắng bay quanh/Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta”.
Hình ảnh, đức tính của cò mẹ cũng đồng nhất với hình ảnh, đức tính của người mẹ Việt:
“Cái cò lặn lội bờ ao/Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay”.
“Cái cò lặn lội bờ sông/Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”.
“Con cò mày đi ăn đêm/Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/Ông ơi ông vớt tôi vào/Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng/Có xáo thì xáo nước trong/Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
Nay, hình ảnh đàn cò trắng bay lại là biểu tượng cho một đất nước có môi trường trong lành cùng với những con người có ý thức bảo vệ môi trường. Nhiều vườn cò xuất hiện từ Bắc chí Nam, ban đầu từ tình yêu cò, từ ý thức bảo vệ cò của người nông dân, sau đã trở thành những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.
Như vậy, cò trắng hay chim Lạc đã, đang và sẽ vẫn là một biểu tượng của văn hóa, con người, đất nước Việt Nam./.
St

TÌM BẠN, BẠN ĐÂY RỒI!

Bao phen tìm vẹt gót giày

Ông trời run rủi lần này bạn ơi

Bạn nằm đó tuổi hai mươi

Lắng nghe hồn nước vọng lời mẹ ru

Vẫn đây dấu tích đạn thù

Giữa nơi chiến địa mịt mù xa xăm

Bụi mờ lớp lớp tháng năm

Rừng thiêng nương chỗ bạn nằm vẹn nguyên

Còn đây vóc dáng trai niên

A Ka giữ chặt tay trên lẫy cò

Máu trào chân duỗi chân co

Thốt lên tiếng "Mẹ", cơn ho lịm dần

Chiến trường giữ lại tuổi xuân

Áo quần giữ lại cái chân gãy rời

Bạn nay chỉ lối đưa lời

Mình về nhà nhé, với người thân yêu

Rừng hoang muông thú cũng nhiều

Hình hài nguyên vẹn chắc điều tâm linh

Dặm dài mấy cuộc chiến chinh

Bạo thù còn đó rập rình gần xa

Máu xương giữ nước non nhà

Muôn năm "xã tắc sơn hà" tri ân.


"CHÁU Ở NHÀ NGOAN LẮM"

  Ngày xửa ngày xưa, có một lão quan văn, khi đi vào làng bị thằng trẻ con leo trên cây kéo chim đái trúng đầu quan, lão quan văn gọi xuống xoa đầu và khen "cháu của ông ngoan lắm" và thưởng cho mấy quan tiền. Thằng bé tưởng ngon ăn nên lần khác cũng thấy quan đi qua, lại leo lên cây đái xuống, chẳng may lần này gặp ngay ông quan võ, quan gọi xuống và rút gươm chém thẳng...

Còn ngày nay... bênh đi, cổ súy đi, kiện đi, "con tôi ngoan lắm" đi... rồi một ngày đẹp trời lại nhận tin không mong muốn, quá muộn. Nói thật với các quý thí chủ: Mỗi năm, cứ 10 ca nhập viện te tua do đánh nhau hoặc tai nạn giao thông thì 7 ca có thân hình xăm trổ, có nồng độ Ethanol trong máu...
Tóm lại: Tiếp tay cho cái ác là đại ác, cổ vũ cho cái ngu là cực ngu, bênh vực cho bọn "húng chó" chả khác gì tội giết người gián tiếp.
Vuông chưa nhỉ ?
St

VIỆT NAM PHẢN ĐỐI TRUNG QUỐC ĐẶT TRẠM NHẬN DẠNG TÀU THUYỀN Ở HOÀNG SA

 Theo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng, việc Trung Quốc lắp đặt và đưa vào sử dụng hai trạm nhận dạng tàu thuyền tự động tại Đá Bắc và Đá Bông Bay thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam.

Ngày 25/9, trả lời câu hỏi của phóng viên trước việc Trung Quốc lắp đặt và đưa vào sử dụng hai trạm nhận dạng tàu thuyền tự động tại Đá Bắc và Đá Bông Bay thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ:
“Việc Trung Quốc lắp đặt và đưa vào sử dụng hai trạm nhận dạng tàu thuyền tự động tại Đá Bắc và Đá Bông Bay thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Mọi hoạt động trên quần đảo Hoàng Sa mà không được phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và hoàn toàn không có giá trị.
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng đầy đủ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, không tái diễn những vi phạm tương tự”./.
St




NHẬT KÝ TRONG TÙ - TIẾNG THƠ CỦA MỘT CON NGƯỜI VĨ ĐẠI TRONG HOÀN CẢNH T.Ù ĐÀY!

 - “Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
tinh thần càng phải cao."
- “Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài”
Lời nói người xưa đâu có sai
Sống khác loài người vừa bốn tháng
Tiều tụy còn hơn mười năm trời
Bởi vì:
Bốn tháng cơm không no
Bốn tháng đêm thiếu ngủ
Bốn tháng áo không thay
Bốn tháng không giặt giũ
Cho nên:
Răng rụng mất một chiếc
Tóc bạc thêm mấy phần
Gầy đen như quỷ đói
Ghẻ lở mọc đầy thân
May mà:
Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lui một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần".
- “Ví không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian tuân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng".
- “Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”.
Nhà thơ vĩ đại - CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.
Đọc Nhật ký trong tù chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của bậc đại trí, đại nhân, đại dũng Hồ Chí Minh. Chúng ta thấy trái tim của Người toả ánh sáng ra chói ngời trong hoàn cảnh tối tăm. Hoàn cảnh trong tù là hoàn cảnh đặc biệt không bình thường. Người bị giam hãm, đoạ đầy, trói buộc, xiềng xích, bị nghi ngờ, bêu diễu, cấm đoán, mất hết cả tự do. Tiếng thơ từ tâm hồn Người theo thời gian vẫn cất lên, bất chấp sự cùng khổ về vật chất cũng như tinh thần, coi thường cả sự hiểm nguy, dũng mãnh vượt lên gian lao thử thách, ngạo nghễ để chiến thắng, thể hiện phong thái ung dung, niềm tin tưởng lạc quan son sắt, tình cảm giao hoà với thiên nhiên; đặc biệt là tình cảm thắm thiết đối với con người. Một thứ tình cảm yêu thương vô hạn với tất cả con người mà ta thường thấy ở Người trong lúc bị giam cầm và cả lúc thường, khi Người trở thành lãnh tụ, người đứng đầu quốc gia. Đọc tập thơ, chúng ta không hề gợn một chút bi quan, sầu não, u buồn nào ; chỉ thấy sự sống tràn trề, niềm tin mãnh liệt, lòng tha thiết với tự do, hy vọng vào ngày mai chiến thắng, tốt tươi. Chính hồn thơ ấy, đã toả ra ánh sáng chói ngời xua đi bóng tối làm trong sáng con người, thiên nhiên, làm sống dậy cuộc đời chung và tương lai tươi đẹp. Bây giờ đọc thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, chúng ta càng yêu tiếng thơ của Người. Tiếng thơ của con người vĩ đại trong hoàn cảnh tù đầy đã thể hiện viên mãn nhân cách cao cả, lòng nhân ái bao la, bản lĩnh phi thường. Chúng ta càng tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, chính Người đã làm rạng rỡ mỗi con người chúng ta, dân tộc ta, non sông đất nước ta./.
St