Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và sự vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ chính yếu, quyết định nhiều vấn đề cốt lõi đối với công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kim chỉ nam cho đội ngũ lãnh đạo, đảng viên hướng tới, học tập, làm theo, để tự rèn luyện, trau dồi, tu dưỡng ngày càng trong sạch, tiến bộ, góp phần để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm nói chuyện với nhân dân tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch_Ảnh: TTXVN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên

Từ việc phân tích sâu sắc khía cạnh đạo đức của một tổ chức, hệ thống chính trị Xô-viết và của một người cộng sản chân chính đứng đầu tổ chức đó là lãnh tụ vĩ đại V.I. Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”. Người coi V.I. Lê-nin là Người thầy dạy vĩ đại của cách mệnh vô sản. Cũng là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Tinh thần Lênin muôn đời bất diệt.

Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam được hun đúc, vun đắp từ hàng nghìn năm lịch sử, đồng thời có sự tiếp thu tinh hoa nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định và gương mẫu thực hiện những nguyên tắc xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng là cái gốc sự phát triển của cách mạng, bởi vậy trong tư duy và hành động, Người luôn kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”, trong đó đặc biệt đề cao hai phương diện chính: Đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên và đạo đức của tổ chức đảng.

Về đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về đạo đức phải được bắt đầu từ công cuộc đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức của từng cán bộ, đảng viên; coi trọng đúng mức công tác giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức cách mạng đối với người lãnh đạo. Người cho rằng, đạo đức người cách mạng giống như gốc rễ của cây, như nguồn của sông suối, khi “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người cũng nhiều lần khẳng định, đạo đức cách mạng là yếu tố không thể thiếu đối với người làm cách mạng; “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ... Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Do vậy, Người coi nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức nói chung, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên nói riêng là động lực cốt lõi làm nên những thành công của con đường cách mạng đầy gian nan.

Cho đến những năm cuối cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn miệt mài viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên toàn hệ thống chính trị. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Theo người, “đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Bên cạnh đó, Người cũng thường xuyên nhấn mạnh những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng, như trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có tình nghĩa; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng, tiến bộ,... Cụ thể:

Trung với nước, hiếu với dân được xem là phẩm chất bao trùm, quan trọng nhất, giữ vai trò chi phối các phẩm chất khác, thể hiện bản lĩnh, tinh thần cống hiến của người cách mạng luôn sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thậm chí là hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ vì dân, vì nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo sử dụng khái niệm “trung” và “hiếu” trong quan niệm đạo đức truyền thống “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” và mở rộng nội hàm, cách hiểu sang nội dung mới, rộng lớn hơn, đó là “Trung với nước, hiếu với dân” nhằm tạo nên sự chuyển biến trong nhân sinh quan nói chung và các quan điểm về đạo đức cách mạng nói riêng. Trong đó, “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; “Hiếu với dân” là gần dân, lấy dân làm gốc, gắn bó với dân, “hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”. Đặc biệt, Người khẳng định “Trung với nước” phải gắn liền “Hiếu với dân” bởi nước là “nước của dân”, người dân là chủ thể nắm quyền lực nhà nước; mọi lực lượng đều ở dân, còn cán bộ, đảng viên là đầy tớ của nhân dân chứ không phải là “quan
cách mạng”.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là các khái niệm đạo đức truyền thống được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc và vận dụng linh hoạt để phù hợp với yêu cầu, nội dung mới của đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”. Người cũng cho rằng đây chính là một biểu hiện sinh động của phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân” và chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa chúng. Theo đó, “cần” và “kiệm” phải luôn đi đôi với nhau như hai chân của con người, “CẦN mà không KIỆM, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”... KIỆM mà không CẦN, thì không tăng thêm, không phát triển được”. Chữ “liêm” phải đi đôi với chữ “kiệm”, cũng như chữ “kiệm” phải đi đôi với chữ “cần”, cụ thể, “Có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”(10); hay “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn”. Mặt khác, “cần, kiệm, liêm, chính” nhất định sẽ đi đến chí công vô tư và ngược lại.

Yêu thương, quý trọng con người cũng là một phẩm chất quan trọng trong đạo đức cách mạng và luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý, bởi đây là đức tính nền tảng để hình thành, nung nấu ý chí quyết tâm làm cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người. Người xác định rõ, làm việc “chính” là người “thiện”, làm việc “tà” là người “ác”, đó là hai hạng người và loại việc cơ bản trong cuộc sống; những người bị áp bức, bóc lột, sẵn sàng làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo khác nhau thì vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, coi nhau như anh em một nhà trong một “thế giới đại đồng”. Người khuyên mọi người lấy thẳng thắn, chân thành để đối xử, lấy tin yêu, giúp đỡ để cảm hóa lẫn nhau; trân trọng, phát huy yếu tố tích cực trong mỗi người để hạn chế, đẩy lùi yếu tố tiêu cực, giúp tất cả cá nhân đều tiến bộ, trưởng thành, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung của Đảng và nhân dân, bởi “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, điều này có nghĩa “vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”, phải biết “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”Theo Người, để xây dựng Đảng về đạo đức, trước hết phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bởi chủ nghĩa cá nhân “như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” và “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Mục tiêu của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên là nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, tức là dần quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Về đạo đức cách mạng của tổ chức đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có một đảng chân chính, vững mạnh, cần xác định rõ mục đích tối thượng của Đảng chính là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân mà chiến đấu và Đảng không có lợi ích riêng nào hết. Đây cũng là lý tưởng đạo đức cao đẹp của Đảng, của toàn thể cán bộ, đảng viên. Cùng với đó, Người chỉ rõ, đạo đức chính là ở chỗ làm cho lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thấm sâu vào tư tưởng và hành động của từng cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, có ý chí, khát vọng, quyết tâm đêm ngày đều “nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại”. Theo đó, trong đời hoạt động cách mạng, Người luôn chú trọng củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng; khuyến khích đội ngũ cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhất là trong những điều kiện, hoàn cảnh mà nhiều cán bộ, đảng viên có trình độ lý luận chính trị rất thấp. Người khẳng định, “có thể tránh được biết bao bế tắc, sai lầm và biết bao thất bại đau đớn, nếu chúng ta có thể cung cấp cho các đồng chí ấy những kiến thức tối cần thiết về lý luận soi đường, tạo điều kiện dễ dàng cho các đồng chí ấy tiến hành công tác” và thường xuyên căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tích cực vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo, luôn bổ sung, làm giàu lý luận bằng những kiến thức thực tiễn mới, tránh giáo điều, kinh viện.

Xuất phát từ tình hình thực tế trong Đảng cũng như bối cảnh lịch sử đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”; Người lý giải: “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”. Theo đó, Người cảnh báo: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạngTừ rất sớm, Người đã chỉ ra những nguy cơ suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức vị cao: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””. Do đó, nếu không giữ được đạo đức cách mạng thì đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ dễ bị tha hóa, tự đánh mất mình, sa vào suy thoái, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sỹ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên... Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật”. Khẳng định vai trò tiên quyết của việc nêu gương, Người cho rằng lãnh đạo, người đứng đầu phải thật sự gương mẫu, làm gương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh trò chuyện với công dân tại buổi tiếp công dân thường kỳ_Nguồn: baoquangninh.vn 

Thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức ở nước ta hiện nay

Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài, thuộc về chế định nội tại trong sự phát triển của Đảng; là nhiệm vụ cần có, phải có để Đảng luôn là Đảng của đạo đức, văn minh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nhận thức rõ điều đó, đồng thời dựa trên hệ thống quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới phương pháp xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”, theo đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khoa học, thiết thực nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào uy tín, năng lực, phẩm chất của Đảng  và hệ thống chính trị.

Nhìn chung, thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặc biệt quan tâm về mọi mặt, đạt được những thành tựu có ý nghĩa lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kết quả xây dựng nền văn hóa, trong đó có đạo đức chưa thực sự được như mong muốn. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi, bị dục vọng chi phối, có dấu hiệu suy thoái về đạo đức, lối sống,...; xuất hiện tình trạng tham nhũng, kèn cựa địa vị, tranh chức, quyền, dùng mọi thủ đoạn để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm”; dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh mà bất chấp cả liêm sỉ, danh dự,...

Trong bối cảnh đó, công tác xây dựng Đảng về đạo đức trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Trách nhiệm làm cho “môi trường đạo đức” của Đảng ngày càng trong sạch không phải của riêng ai, nhưng trước hết và cơ bản nhất là của từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên; phải kiên quyết ngăn chặn những hậu quả nặng nề, có thể làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng. Trước tình hình đó, nhân dân luôn có mong ước, ý nguyện cũng như nghiêm khắc yêu cầu Đảng ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh được thể hiện từ yếu tố cơ bản nhất, đó là nền tảng đạo đức thông qua những hành động thực tiễn, việc làm, ứng xử thiết thực.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Thứ nhất, kiên quyết thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhiệm vụ xây dựng nền đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, phải làm cho yếu tố đạo đức thẩm thấu vào trong đường lối, định hướng chính trị của Đảng; Đảng phải luôn giữ vững mục tiêu cách mạng trong đường lối chính trị của mình, chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Theo đó, đường lối chính trị đúng đắn phải được xuất phát, đúc kết từ thực tiễn mà ra và hàm chứa trong đó cả những giá trị phổ quát, ưu việt của nhân loại. Muốn vậy, trước hết phải tuân thủ và thực hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng một Đảng của đạo đức và văn minh.

Thứ hai, nền đạo đức cách mạng phải được hòa quyện bền chặt trong mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Theo đó, một Đảng chân chính, đạo đức và có đủ tư cách để lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân thì tiêu chí hàng đầu là thường xuyên chăm lo, củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Để làm được điều này, cần nỗ lực huy động, phát huy vai trò và “nuôi dưỡng” sức mạnh vĩ đại của các tầng lớp nhân dân. Trong mọi trường hợp, hoàn cảnh, cán bộ, đảng viên phải luôn trăn trở, suy nghĩ, suy xét thấu đáo, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước.

Thứ ba, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng; luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, có niềm tin vào cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng; tránh hiện tượng phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút ý chí chiến đấu, thấy sai không phê phán, thấy đúng không bảo vệ, thậm chí còn cổ xúy, phụ họa cho quan điểm và việc làm sai trái, lệch lạc với chủ trương, đường lối của Đảng; đặc biệt, cần nghiêm túc, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay. Bên cạnh đó, không ngừng đấu tranh với những biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không trung với nước, không hiếu với dân, không thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư,...; sống cơ hội, bè phái, vụ lợi, hám danh, vô cảm, chỉ thích xa hoa, hưởng lạc, không gương mẫu nêu gương,...

Thứ tư, kiên trì bồi dưỡng đạo đức cách mạng với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng chuẩn mực đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ, hướng tới nhân dân và vì nhân dân trên tinh thần “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Tăng cường tuyên truyền, quán triệt thực hiện hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””, từ đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ, đảng viên về sự cần thiết và yêu cầu nâng cao chất lượng, sinh hoạt Đảng; đồng thời, quan tâm công tác kiểm tra, giám sát trong chấp hành Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết,... của Đảng. Mặt khác, bên cạnh việc giáo dục, rèn luyện, cần có cơ chế đủ mạnh, kịp thời để xử lý kỷ luật, thậm chí có thể đưa ra khỏi Đảng những người có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng, trong đó cần bám sát tinh thần Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự rèn luyện, gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, luôn có ý thức không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, dám nghĩ, dám làm, dám nói, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiên quyết khắc phục những biểu hiện suy thoái đạo đức, tiêu cực trong xã hội; thực hiện nghiêm túc Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”. Mặt khác, cần tuyển chọn, chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức từ cấp thấp đến cấp cao. Ở góc độ lớn hơn, cần nghiên cứu, bổ sung, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong các chương trình, môn học ở hệ thống giáo dục phổ thông, đại học, nhằm thiết lập nền tảng đạo đức vững chắc cho thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước./.

ST.

Chặt đứt "nọc độc" căn bệnh trầm kha

Bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm như virus độc hại, gặm nhấm, để lại trăm thứ hệ lụy dai dẳng.

Cán bộ, đảng viên mắc bệnh này sẽ đánh mất vai trò tiên phong, vì làm việc gì cũng mưu cầu vụ lợi, mánh khóe, nơm nớp lo âu bị phanh phui. Đây là mối nguy trong Đảng cần phải triệt hạ tận gốc bằng những giải pháp mạnh mẽ, trong đó chú trọng xây dựng nền đạo đức chính trị, liêm chính, công minh.

Trăm thứ hệ lụy dai dẳng

Bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm đẻ ra trăm thứ tác hại trong đời sống cán bộ, đảng viên hiện nay, song hệ lụy trước tiên đó là làm băng hoại đạo đức, biến con người thành cá nhân chủ nghĩa, gây mất đoàn kết nội bộ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều lần người đứng đầu Đảng ta đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất trong sáng.

Sự hoài nghi, đố kỵ, ghen ghét, sợ người khác, tổ chức khác hơn mình nên lúc nào cũng tìm mọi cách để “đứng trên đầu, trên cổ” người ta, bằng các thủ đoạn chạy chọt, vơ vét thành tích, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác... Nhưng tiếc thay, thành tích mà họ có được là thành tích ảo, sức mạnh giả tạo. Đây chính là căn nguyên làm mất sự dân chủ, đoàn kết nội bộ, gây mất niềm tin trong cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân.

“Nhận vơ” thành tích, đùn đẩy trách nhiệm - căn bệnh trầm kha, mối nguy cho Đảng - Bài 2: Chặt đứt "nọc độc" căn bệnh trầm kha (Tiếp theo và hết)
 Tranh của MẠNH TIẾN

Ở góc độ kinh tế-xã hội, bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm cũng chính là hành vi tham nhũng, gây thiệt hại về vật chất cho Đảng, Nhà nước, kìm hãm sự phát triển nói chung. Bởi thông thường những cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì lòng tham không đáy. Một khi họ đã tranh được công, đổ được tội, thu lợi bất chính thì sẽ tiếp tục có những hành động tham ô khác, không từ một thứ gì miễn là vun vén lợi lộc cho mình. Các chuyên gia cũng nhận định, căn bệnh vơ thành tích, đùn đẩy trách nhiệm này cũng sẽ gián tiếp tác động đến việc ban hành chính sách. Hay nói cách khác để có lợi cho bản thân, họ sẽ “chạy” các chính sách theo hướng mang lợi cho họ, không nghĩ đến tập thể.

Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm diễn ra khá phổ biến, có tác động trực tiếp tới sự phát triển của các lĩnh vực, ngành và sự vững mạnh của các tổ chức. Căn bệnh lo sợ trách nhiệm khiến cán bộ, đảng viên không dám làm, triệt tiêu sự sáng tạo, đổi mới; làm cho nhiều công việc trở nên trì trệ, ách tắc, không khai thông được nguồn lực, kìm hãm sự phát triển.

Tại Kỳ họp Quốc hội lần thứ bảy, khóa XV mới đây, lý giải nguyên nhân vì sao đầu tư công sau 4 tháng đầu năm 2024 chỉ đạt 17,46% kế hoạch, trong đó hơn 310 dự án có tỷ lệ giải ngân 0%; 28 địa phương giải ngân dưới mức trung bình của cả nước? Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng một phần là do tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm còn khá nặng nề. Hệ quả là làm chậm quá trình phát triển của tổ chức, sự tiến bộ của cá nhân, nghiêm trọng hơn làm giảm sút niềm tin trong quần chúng với Đảng, Nhà nước, chế độ.

Đấu tranh ngăn chặn căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta hiện nay. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”. Một trong những điểm mới nổi bật ở Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đó là đã đề ra mục tiêu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"...

Theo số liệu của Ban Nội chính Trung ương, trong năm 2023, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 2-2024. Trong số đó, không ít cán bộ, đảng viên từng là những tấm gương với nhiều thành tích.

Liều kháng sinh điều trị căn bệnh nguy hại

Đấu tranh với căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách nhưng không phải ngày một, ngày hai. Bởi đây là cuộc chiến mà "địch" ở phía bên trong ta, không có giới tuyến rõ ràng, phức tạp vì khó nhận định tội; cần phải kiên trì, kiên quyết, lâu dài, vừa xây, vừa chống. Và đặc biệt là cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, từ thay đổi nhận thức chính trị đến hành động.

Trước hết, các tổ chức đảng cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nhất là biểu hiện tranh thành tích, đùn đẩy trách nhiệm. Thực tế, rất nhiều cán bộ, đảng viên vẫn nhận thức mơ hồ, cho rằng “vơ thành tích”, “đùn đẩy trách nhiệm” là làm lợi cho tập thể mình.

Đó là cách lý giải ngụy biện bởi thành tích ảo để lại trăm hệ lụy, về lâu dài làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Do vậy, các tổ chức đảng cần thường xuyên đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua hội họp, sinh hoạt hoặc lồng ghép vào các hoạt động phong trào, giúp cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới theo Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Song cùng với đó, để tránh việc đùn đẩy trách nhiệm, mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng phát huy trách nhiệm của bản thân trong tự phê bình và phê bình, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng. Một mặt cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa; phát huy những điểm mạnh, tự sửa những khuyết điểm, hạn chế; mặt khác đóng góp cho đồng đội trên tinh thần xây dựng, phê bình việc chứ không phê bình người; cùng nhau học tập, nâng cao chất lượng công tác, tiến bộ. Đây cũng là giải pháp nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng trước những thói hư, tật xấu.

Để chữa bệnh lo sợ trách nhiệm đòi hỏi phải có cơ chế chính sách khuyến khích, đãi ngộ cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ. Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung với những tư duy mới. Trong đó có một điểm rất đáng chú ý đó là đề cao cán bộ: Dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm.

Trên tinh thần này, mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần 4 “dám”, đặc biệt là dám chịu trách nhiệm. Mặt khác cấp ủy, tổ chức đảng cần có đánh giá khách quan về cán bộ 4 dám, vì thực tế cán bộ xông xáo, dám nghĩ dám làm thì dễ sai, thậm chí nhiều lần sai, do vậy cần phải công tâm khách quan, vừa giúp cán bộ, đảng viên nhận ra khuyết điểm, lại vừa giúp họ sửa sai, đột phá, sáng tạo vì tập thể; đồng thời có các chính sách đãi ngộ để họ phát huy sáng tạo, đổi mới.

Các tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Thời gian qua, không ít cán bộ sai phạm nhưng ngay trong tập thể không phát hiện ra; thậm chí che giấu, sợ liên lụy mất thành tích, rồi “mũ ni che tai”, “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Điều này cho thấy công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng chưa làm tròn trách nhiệm.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng răn dạy: “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Trên tinh thần ấy, mỗi tổ chức đảng cần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết loại trừ ra khỏi đảng những cán bộ, đảng viên tranh công, đổ lỗi; động cơ không trong sáng, gian dối, để giữ gìn sự trong sạch của tổ chức đảng. Đồng thời, phát huy  vai trò của quần chúng nhân dân trong giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên. 

Để xảy ra căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm cũng phải nhìn nhận thẳng vấn đề đó là công tác thi đua, khen thưởng thời gian qua chưa thực sự hữu hiệu. Bằng chứng là nhiều nơi, khen thưởng chưa kịp thời, chưa đúng người, cào bằng, thậm chí thiếu chính xác, dẫn đến chưa tạo động lực phấn đấu. Giải quyết vấn đề này, vừa qua Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2024 với nhiều điểm mới, đột phá.

Theo đó, việc khen thưởng cần bảo đảm tính toàn diện, hợp lý; đúng nguyên tắc, quy trình; hướng về cơ sở, người trực tiếp lao động; trên quan điểm thành tích đến đâu khen thưởng đến đó, khen thưởng phải kịp thời từ những việc làm tốt, hành động ý nghĩa; tạo động lực cho cán bộ, đảng viên có niềm tin, động lực thi đua mới bằng khả năng của mình.

Trị bệnh chủ nghĩa cá nhân nói chung, bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm nói riêng là nhiệm vụ lâu dài của Đảng ta. Trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, công việc này càng quan trọng, cấp thiết, đòi hỏi sự kiên trì, kiên quyết của cả hệ thống chính trị, có như vậy mới đạt được như kỳ vọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Mỗi cá nhân cũng trở nên tốt hơn, phát huy được nhiều hơn phẩm chất và năng lực của mình”./.

ST.

Nhận diện những dạng thức mới của căn bệnh trầm kha

“Nhận vơ” thành tích nhưng khi tập thể, cá nhân có khuyết điểm thì lại đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm. Đây là căn bệnh nguy hại bởi nó là giặc “nội xâm”, một loại “giặc từ bên trong”, gây chia rẽ đoàn kết, kìm hãm sự phát triển, làm giảm sút sức sống, uy tín, ngăn cản bước tiến sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Nguy hại là căn bệnh này đang lây lan trong phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trị bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm vừa là công việc cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài của Đảng hiện nay.

Mặc dù chẳng có đóng góp hoặc không đáng kể nhưng vẫn “nhận vơ” thành tích về mình, thậm chí phô trương thành tích để làm đẹp báo cáo, đánh bóng tổ chức và bản thân; nhưng hễ có sai lầm, khuyết điểm gì thì lại lo sợ trách nhiệm và tìm mọi cách để chối bay, chối biến, đùn đẩy, không dám nhận. Đó là biểu hiện của sự sa sút về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống; một biểu hiện cụ thể, rất đáng báo động của chủ nghĩa cá nhân. Để điều trị căn bệnh này, cần thiết phải mổ xẻ mầm mống, “nội soi” nguyên nhân gây ra.

Biểu hiện lo ngại của chủ nghĩa cá nhân

Khi muốn ám chỉ, phê phán những kẻ có lối sống thực dụng, khôn lỏi, thành tích thì vơ hết về mình, khó khăn, hiểm nguy lại đùn đẩy cho người khác, người xưa thường có câu: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”. Lời nhắc nhở ấy cho đến nay vẫn nguyên giá trị; bởi hành vi này đang ngấm ngầm diễn ra trong hoạt động công quyền ở các cơ quan Nhà nước.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Nhận vơ” là nhận về mình cái biết rõ là không phải của mình. Đây là hành vi ngang ngược mà biểu hiện thấy rõ nhất là khi cấp trên đề nghị báo cáo thành tích để khen thưởng thì các tổ chức, cơ quan đồng loạt báo cáo rất kêu. Ngoài việc “tô hồng” thành tích thì có cả những phần việc biết đơn vị, cá nhân mình không tham gia nhưng vẫn khai man, “dây máu ăn phần”. Người mắc bệnh này thường có tâm lý hoang mang, lo sợ, hoài nghi, thiếu niềm tin và mang tư tưởng ghen ghét, đố kỵ. Nhiều tổ chức, cá nhân soạn xong báo cáo thì gửi cấp trên, còn nội bộ thì giấu tiệt đi, không cho ai biết vì sợ bị lộ. Thế nhưng “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Chuyện thật như bịa ấy đã xảy ra ở tỉnh Vĩnh Long cách đây chưa lâu. Chuyện là, khi được cấp trên đề nghị báo cáo tiến độ Dự án xây dựng nhà ở xã hội Khu công nghiệp Hòa Phú, lãnh đạo huyện Long Hồ đã vô tư khai man hoàn thành tiến độ để được biểu dương. Chỉ đến khi bị đoàn thanh tra của Chính phủ về làm việc thì mới lòi “cái đuôi chuột” ra.

 
“Nhận vơ” thành tích, đùn đẩy trách nhiệm - căn bệnh trầm kha, mối nguy cho Đảng-Bài 1: Nhận diện những dạng thức mới của căn bệnh trầm kha
Tranh: Mạnh Tiến 

 Lại có một chuyện cười ra nước mắt, vào dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7), một đơn vị nọ ở địa phương được giao nhiệm vụ đón và phục vụ các đoàn thiện nguyện từ các nơi về thăm hỏi, tặng quà gia đình chính sách. Cuối năm làm báo cáo, đơn vị ấy đã “mạnh dạn” tự cộng thêm các phần quà của các tổ chức khác đến thăm, tặng vào thành tích của đơn vị mình. Với thành tích cao "ngất ngưởng" và được cấp trên khen thưởng, biểu dương... Hoặc hiện tượng khá phổ biến trong thực tế khi đánh giá về kết quả của một việc cụ thể, ví như thành tích trong công tác tuyên truyền, các hoạt động phong trào, xây dựng mô hình điển hình... Tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, công đoàn cũng đều nhận về mình. Tổ chức nào cũng “vơ vào” số liệu, cách làm, hiệu quả... giống và “hay” như nhau.

Thành tích thì vơ về mình nhưng hễ liên quan đến trách nhiệm thì tìm cách đùn đẩy. Biểu hiện đó là: Nhiều tổ chức và cá nhân khi bị nhắc nhở, phê bình thì tìm mọi cách để đổ lỗi, tìm một lý do nào đó để chèo lái sự việc sang hướng khác, hòng tìm đường thoát cho mình. Thường thì cấp trên đổ lỗi cho cấp dưới; cấp dưới lại đổ lỗi cho cấp dưới nữa; hoặc vin vào lý do cơ chế, do điều kiện, hoàn cảnh... Sau khi đùn đẩy là lo sợ trách nhiệm. Biểu hiện mắc bệnh này là thường xuyên sợ bị liên lụy, sợ bị quy trách nhiệm, sợ bị ảnh hưởng lợi ích cá nhân, nên làm gì cũng tính toán, so đo, lo sợ, không quyết đoán, thu mình trong “chiếc kén”. Thậm chí cấp trên giao nhiệm vụ nhưng tìm mọi cách để né tránh, không làm, hoặc kiểu làm đối phó, không tận tâm, tận lực để tránh vạ trách nhiệm. Đây cũng là căn bệnh mà cách đây 50 năm, trong bài viết "Bệnh sợ trách nhiệm” của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đăng trên Tạp chí Cộng sản chỉ rõ: “Làm việc cầm chừng cho đủ bổn phận, cốt sao không phạm khuyết điểm. Rụt rè, do dự khi giải quyết công việc, không phát biểu rõ ràng, dứt khoát ý kiến của mình, không dám quyết đoán những việc thuộc phạm vi trách nhiệm và quyền hạn được giao. Lấy lý do làm việc tập thể, tôn trọng tập thể để dựa dẫm vào tập thể, việc lớn việc nhỏ gì cũng đưa ra tập thể bàn, chờ ý kiến tập thể cho đỡ phiền...”.

“Nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động, thực thi nhiệm vụ của tổ chức, một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, là biểu hiện đáng báo động với các dạng thức mới của chủ nghĩa cá nhân, biểu hiện của tình trạng “tranh công, đổ lỗi”. Căn bệnh này đang lây lan và có chiều hướng gia tăng, nhất là thời điểm trước thềm đại hội Đảng các cấp. Thực chất nó tạo nên sự vững mạnh giả tạo, thành tích ảo; triệt hạ sự phát triển.

“Tấm bình phong” che khuyết điểm

Trong suốt cuộc đời cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lo lắng, rèn giũa, nhắc nhở cán bộ tránh xa những thói hư tật xấu của chủ nghĩa cá nhân. Người gọi chủ nghĩa cá nhân là “giặc nội xâm”-giặc ở bên trong mỗi con người, mỗi cơ quan, đoàn  thể; “Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”.

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (năm 2016), Đảng ta đã đưa ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Biểu hiện trước tiên đó là do cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân:  “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn  người khác hơn mình”. Quân ủy Trung ương cũng ban hành Nghị quyết số 847-NQ/QUTW về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Điều ấy cho thấy quyết tâm cao của Đảng ta trong công cuộc chống lại các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

Thành tích, khen thưởng vốn là những mỹ từ rất ý nghĩa. Đó là sự ghi nhận, khẳng định quá trình phấn đấu, nỗ lực trong thực thi nhiệm vụ; khác xa hoàn toàn với hành vi “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm. Vì sao căn bệnh này xuất hiện ngày càng đáng báo động, lây lan ở một bộ phận cán bộ, đảng viên?

Xét về nguyên nhân chủ quan thì sâu xa của căn bệnh này là do chủ nghĩa cá nhân mà ra; dẫn đến một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Biểu hiện rõ nhất là bệnh thành tích, háo danh, háo thành tích, “con gà tức nhau tiếng gáy”, nên luôn bon chen, ganh đua. Đôi khi, các tổ chức, cá nhân còn sử dụng thành tích để làm “tấm bình phong” che đậy khuyết điểm. Bệnh này còn do một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm, thiếu trung thực trong thực thi nhiệm vụ. Cùng với tâm lý sợ sai, ngại va chạm nên họ làm việc cầm chừng, thiếu sáng tạo, né tránh khuyết điểm để lợi mình, hại người.

Xét về nguyên nhân khách quan, trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và vận hành các cơ chế, chính sách, quy định vẫn còn nhiều nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, phát sinh tình trạng chồng lấn chức năng, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng quyết liệt, nhiều cán bộ, kể cả cấp cao bị xử lý. Kết quả đó bên cạnh hiệu ứng xã hội rất tốt, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng tác động tới tư tưởng, tâm lý của một bộ phận cán bộ, đảng viên, lo lắng, lo sợ thái quá, làm gì cũng nghe ngóng, sợ sai, sợ trách nhiệm, chỉ lo bảo toàn, giữ ghế; hoặc tìm mọi cách đánh bóng, ghi điểm tạo sự vững mạnh giả tạo; khi xảy ra sự vụ thì đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Việc cụ thể hóa, hiện thực hóa chủ trương, quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, nhiều nơi chưa quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả...

Trong thực tế, không ít cán bộ, đảng viên nhờ “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy trách nhiệm, qua mặt được tổ chức, leo cao trong bộ máy Nhà nước, đến lúc bị xử lý mới vỡ lẽ ra. Lỗi này một phần nguyên nhân là do việc theo dõi, bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: Đó chính là vì “tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Mặt khác, hoạt động thi đua, khen thưởng ở một số đơn vị còn nặng tính hình thức, chưa chú trọng kết quả thực chất, việc tổ chức, đánh giá còn hời hợt, cảm tính./.

ST.

NHỮNG NGƯỜI “KÊ CAO THỀM TỔ QUỐC” 🇻🇳

 Trên đầu là trời xanh, dưới chân là biển ngọc. Những người lính công binh Hải quân chinh phục biển ấy là “Những người kê cao Tổ quốc” vẫn ngày đêm dầm mình dưới sóng biển vác trên vai những bao đá hộc, xi măng, cốt thép vạm vỡ gân guốc kè quây đảo nổi, cơi nới, xây cao đảo chìm….cùng nhau xây dựng Trường Sa.

Mỗi viên đá, mỗi hạt cát, mỗi tấc bê tông ở đảo là cả một giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng chủ quyền của Đất nước.

Người lính Công binh của Hải quân được huấn luyện xây dựng kè bờ đảo, với những điều kiện khắc nghiệt và đặc biệt như phải xử lý nước mặn, sóng gió trong xây dựng. Họ có vũ khí, nhưng chỉ được trang bị những v.ũ kh.í để tự vệ. Nhưng chính họ lại là những người lính sẽ có thể đụng độ đầu tiên với đội quân x.âm l.ấn đảo. Câu chuyện 64 chiến sĩ công binh h.y s.inh ở đảo Gạc Ma năm 1988 là một điển hình về cuộc chiến đấu không cân sức, đột ngột, bất khả kháng; về sự h.y s.inh dũng cảm của những người lính công binh hải quân, mà lịch sử giữ nước giữ đảo của Việt Nam sẽ luôn ghi nhớ khắc sâu.

Bao ngày đêm phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ để xây dựng, tôn tạo và bảo dưỡng các công trình, góp phần giữ gìn mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió. Từ những đôi bao tay rách nát, vai ứa m.áu chúng ta như lại thấy cái bất khuất, kiên trì, vĩ đại của những con người chinh phục biển cả bằng cái đầu lạnh lùng và trái tim ấm nóng.

Sưu tầm

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2024

NHỚ LỜI CĂN DẶN CỦA HỒ CHỦ TỊCH VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

 NHỚ LỜI CĂN DẶN CỦA HỒ CHỦ TỊCH VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG


Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xây phải đi liền với chống, phải đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những nguy cơ dẫn đến sự suy yếu của Đảng, trong đó có nạn tham ô, tham nhũng – thứ giặc nội xâm, giặc ở trong lòng “ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá hoại sự nghiệp xây dựng của cách mạng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, người kiến tạo Nhà nước Việt Nam dân chủ nhân dân theo thể chế cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á. Người thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng mãi mãi là một Đảng đạo đức và văn minh, mỗi cán bộ, đảng viên xứng đáng là "hạt nhân lãnh đạo" và là "người đầy tớ thật trung thành" của nhân dân.


Ngay từ những năm bôn ba tìm đường cứu nước, sử dụng ngòi bút để vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới vấn đề tham nhũng bằng việc dành hẳn một chương (nhan đề: Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị) trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản năm 1925).


Với tầm nhìn sâu sắc, Người chỉ ra tham ô, tham nhũng "là những xấu xa của xã hội cũ", là những căn bệnh của quyền lực và đấu tranh chống tham ô, tham nhũng luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại tàn dư của chế độ cũ - chế độ người bóc lột người. Chính vì thế, với tư cách là người đứng đầu Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà thành lập sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết đặt vấn đề đấu tranh với thứ giặc rất nguy hiểm này.


Tẩy sạch nạn tham ô phải tẩy sạch bệnh quan liêu và chủ nghĩa cá nhân


Nghiên cứu các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể thấy tệ tham nhũng trong cán bộ, đảng viên được Người diễn đạt dưới thuật ngữ chung nhất là tham ô. Người chỉ ra bản chất của tham ô là hành vi "ăn cắp của công, của riêng của người ta, hay của nhân dân", "lấy của công làm của tư", là gian lận, tham lam", "là không tôn trọng của công". "Của công" chính là "mồ hôi nước mắt của đồng bào làm ra, do xương máu của chiến sĩ làm ra" để phục vụ mục đích chung là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Của công là nền tảng vật chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để nâng cao đời sống của nhân dân ta. Cho nên, mọi hành vi lấy trộm của công, chiếm của công làm của tư đều là tham ô, "là hành động xấu xa của con người", "là tội lỗi đê tiện trong xã hội".


Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước, mà cả người dân bình thường, nếu "ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế" cũng là chủ thể của hành vi tham ô: "Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế".


Trên cơ sở những biểu hiện cụ thể trong đời sống hằng ngày, những tàn dư, những tệ nạn xã hội cũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đưa ra các dẫn chứng cụ thể hơn như: Trong lĩnh vực nông nghiệp, hành vi tham ô của các ban quản trị hợp tác xã có thể là "khi bắt đầu cày bừa cũng làm mấy con lợn để "liên hoan". Hễ có cơ hội là bày ra chè chén. Hay khi gặt về tuốt lúa dối rồi chia "rơm" cho xã viên và bà con mình đem về tuốt lại"; trong các đơn vị kinh doanh là hành vi "mua đắt, bán rẻ, khai gian, làm dối, thông đồng với những chủ thầu xấu, tham ô hàng triệu đồng của Chính phủ và của nhân dân ta"; với từng cá nhân cán bộ, đảng viên là biểu hiện "không biết tiếc, biết tôn trọng của công, không biết thương tiếc của cải do mồ hôi nước mắt đồng bào làm ra. Do đó mà đẻ ra xa xỉ. Lương bổng Chính phủ cấp cho chúng ta có hạn mà ta xa xỉ thì lấy tiền đâu? Đã có cái áo rồi còn muốn hai ba cái như thế là lãng phí. Lại muốn mua thứ này thứ khác mà thiếu tiền sinh ra tham ô".


Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến một loại tham ô nữa, có rất nhiều cán bộ, đảng viên mắc phải mà không biết hoặc coi là chuyện bình thường nên không quan tâm, đó là tham ô gián tiếp. Người lấy ví dụ: "Một cán bộ, Chính phủ, nhân dân trả lương hằng tháng đều cho, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân". Đó là một biểu hiện mà chúng ta không nghĩ là tham ô nhưng thực chất nó ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng công tác và tác phong, uy tín của cán bộ, công chức.


Trên cơ sở chỉ ra tham ô là gì và phân tích các biểu hiện cụ thể của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời xác định nguyên nhân của tệ nạn tham ô là từ đâu. Người kết luận: "Chỉ vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh ra tham ô hủ hóa", "bệnh quan liêu là chỗ gieo hạt vun trồng cho tham ô lãng phí nảy nở". Như vậy, để tẩy sạch nạn tham ô thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu và chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là sự tham lam (tiền tài, của cải, quyền lực, thậm chí là sắc đẹp). Đã tham là "bất liêm". Đã "bất liêm" thì không là đạo đức. Chính vì lòng tham đó, trong những trường hợp nhất định, cá nhân thường sinh ra mù quáng về vật chất, "chỉ lo cho mình được sung sướng mà không nghĩ đến đội viên, nhân dân còn khổ sở" cho nên "không thương tiếc tiền gạo do mồ hôi nước mắt của đồng bào làm ra, do xương máu của chiến sĩ làm ra".


Đảng "đạo đức, văn minh" thì cán bộ, đảng viên phải nói không với tham nhũng


Đánh giá tác hại của tệ tham ô đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và niềm tin của quần chúng nhân dân vào vai trò của Đảng cầm quyền và tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng lưu ý, cảnh tỉnh chúng ta về mức độ nguy hiểm của loại kẻ thù này. Người nhấn mạnh: Nó là kẻ thù khá nguy hiểm vì "nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta" và dù cố ý hay không nó cũng là "bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính". Thực tế, tham ô là nguyên nhân trực tiếp làm thâm hụt ngân sách nhà nước, làm suy yếu các nguồn lực phát triển và là mối đe dọa đến sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước.


Từ việc phân tích những tác hại nguy hiểm của tệ tham ô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo để tẩy trừ thứ giặc nội xâm này. Trước hết, theo Người, "chống tham ô là cách mạng", "nếu tìm ra, điều tra ra những vụ tham ô, Đảng sẽ thẳng tay kỷ luật và Chính phủ sẽ thẳng tay trừng trị". Người ví tẩy sạch nạn tham ô như tiêu diệt "những con sâu mọt rút lá, cắn hoa, khoét quả" hay "muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi".


Người cũng nhấn mạnh phải học tập theo thái độ nghiêm khắc của Lenin trước sự việc tòa án Moscow xử nhẹ một vụ ăn hối lộ: "Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy, đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng. Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng". Người cũng trích dẫn quan điểm của Stalin trong xử phạt tội tham ô: "Stalin đã có lần ví bọn tham ô như những con lợn sục vào vườn rau của Nhà nước và ngoạm lấy ngoạm để một cách trơ trẽn. Làm thế nào để trừ cho hết những thứ ấy và không để một khe hở nào cho của cải dành dụm của chúng ta lọt ra ngoài?... điều quan trọng nhất - như Stalin đã nói - vẫn là phải "gây chung quanh chúng một không khí công chúng công phẫn và tẩy chay về mặt đạo đức".


Không phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu Đảng và Chính phủ lại thẳng thắn, quyết liệt như thế. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng, đây là những lỗi lầm đặc biệt nghiêm trọng, có hại cho dân, cho nước, cần phải ra sức kiên trì sửa chữa. Đặc biệt, sự phê phán không chỉ bằng văn thư hành chính nội bộ mà còn công khai lên báo chí công luận, như để tự phê bình, tự kiểm điểm trước nhân dân. Việc chỉ ra đích danh tham ô là hành vi "trộm cướp", "phá hoại", "là mật thám, phản quốc" đủ để quần chúng thấy rõ quan điểm, thái độ của Đảng ta không chấp nhận sự tồn tại của những hành vi ấy trong đời sống chính trị của Đảng và toàn dân. Đã là một đảng "đạo đức, văn minh" thì cán bộ, đảng viên phải trong sạch, phải nói không với tham nhũng.


Đề cao trách nhiệm nêu gương, sự trong sạch, liêm khiết của người đứng đầu


Thứ hai, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, "chống tham ô là dân chủ" nghĩa là phải hết sức dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ và hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Đồng thời Người nhấn mạnh, công cuộc này đòi hỏi "từ trên đến dưới phải đồng tâm hiệp lực", "chiến sĩ và nhân dân phải hăng hái tham gia phong trào ấy". Muốn vậy, chúng ta "ắt phải chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên", phải dùng cách thật thà tự phê bình và phê bình, để tẩy trừ những thói tham ô; phải đánh thông tư tưởng, phải làm cho mọi người hiểu được tác hại của tham ô, tránh ý nghĩ sai lầm, coi nhẹ tác dụng xấu của tham ô...


 Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên tắc tiến hành là phải làm một cách có trọng tâm, từng bước, phải nắm vững và vào sâu, phải làm từ cấp trên xuống cấp dưới, từ bộ phận chính đến bộ phận phụ. Trong đó, cán bộ cao cấp mỗi nơi phải "thật thà kiểm thảo để làm gương mẫu", "thật thà báo cáo tình hình của đơn vị mình", phải kiên quyết "nhổ cỏ" và phải nắm vững trọng điểm. Khi kiểm thảo "ai kiểm thảo đúng người khác, sẽ được khen thưởng", "ai có lỗi mà không thật thà nói ra, sẽ bị kỷ luật" và "ai ngăn cản, đe doạ người kiểm thảo mình, sẽ bị kỷ luật".


Như vậy, có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao trách nhiệm nêu gương và sự trong sạch, liêm khiết của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Còn nhớ, dù mới giữ cương vị Chủ tịch nước một thời gian ngắn, song trước những tồn tại, những khuyết điểm của đội ngũ cán bộ đảng viên trong các cơ quan công quyền, trước những thói hư, tật xấu, nạn tham ô, sự lãng phí của công, bệnh quan liêu, cửa quyền, sự lên mặt của những "ông quan cách mạng", Người đã viết bài báo "Tự phê bình" đăng báo Báo Cứu quốc, số 153, ngày 28/1/1946 tự phê bình và nhận trách nhiệm trước quốc dân: "Tuy nhiều người trong ban hành chính làm việc tốt và thanh liêm, song cái tệ tham ô, nhũng lạm chưa quét sạch… Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi. Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi".


Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng, Nhà nước sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thường trực nỗi lo khi đã có chính quyền rồi, có điều kiện kinh tế khác thời kháng chiến rồi, cán bộ, đảng viên dễ bị sa ngã, dễ quan liêu, tham nhũng, hư hỏng. Vì vậy, kinh tế càng phát triển, đời sống càng được nâng cao thì càng phải chống chủ nghĩa cá nhân, càng phải rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng. Càng phải tôn trọng và gắn bó máu thịt với nhân dân, phải giữ gìn và xứng đáng là những tấm gương để quần chúng nhân dân soi vào. Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện để có được tác phong sinh hoạt giản dị, lành mạnh, trong sạch. Những tư tưởng, đạo đức cách mạng cao đẹp phải biến thành những thói quen trong cuộc sống của mỗi người. Con người ta ai cũng có ham muốn, nhưng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải hướng ham muốn cá nhân đó vào việc phấn đấu thực hiện những mục tiêu, lý tưởng của cách mạng: "Làm việc nước hay làm việc gì khác, người ta thường muốn có một chút danh hay một chút lợi về phần mình… Muốn cho danh chính, lợi chính, thì Danh, làm sao cho dân tộc mình có danh với thế giới, và Lợi, làm thế nào cho tranh được lợi với thế giới".


Thiết thực góp phần vào công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang được Đảng ta triển khai quyết liệt, đồng bộ hiện nay, đồng thời tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về "đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở, tâm huyết ngày nào vẫn luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta. Cùng ôn lại, suy ngẫm, thấm nhuần những tâm nguyện và lời dặn lại của Người lúc sinh thời, để có thêm động lực trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, triển khai ngày càng quyết liệt hơn, bài bản hơn, hiệu quả hơn, với sự tin tưởng, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đạt nhiều thành tựu to lớn, ý nghĩa hơn nữa./.


Báo điện tử Chính phủ

VĂN MINH TRÊN MẠNG


Theo khảo sát của Microsoft nhân ngày Quốc tế Internet, chỉ số văn mình trực tuyến trong vòng 4 năm qua, có 5 quốc gia kém văn minh nhất là : Nam Phi, Peru, Columbia, Nga và Việt Nam. Việt Nam là nước có số lương người sử dụng mang xã hội rất cao. Do đó, vấn đề ứng xử văn minh trên không gian mạng cần phải được coi trọng. Để tránh việc xử sự kém văn minh trên mạng, cần chú ý mấy vấn đề sau ;  1.Phải cư xử với nhau trên nguyên tắc đồng cảm, trắc ẩn và tử tế; 2.Suy nghĩ thấu đáo trước khi đưa ra bình luận khen hay chê một cái gì đó; 3.Tôn trọng sự khác biệt; 4. kiên quyết đấu tranh bảo vệ lẽ phải cho mình và cộng đồng. Để làm được điều đó, người dùng mạng xã hội cần phải có nền tảng văn hoá cao, nhất là trị thức về nhiều mặt, mới có thể thẩm định, đánh giá, bình luận các vấn đề trên mạng một cách khách quan, khoa học. Từ đó, không gây tổn thương cho người khác và làm ảnh hưởng xấu đến xã hội, quốc gia. Trên thực tế, có những người không hề có kiến thức về một lĩnh vực nào đó, nhưng lại lớn tiếng phê phán, nhạo báng người khác, nhất là trong lĩnh vực chính trị, văn hoá, nghệ thuật,Tôn giáo. Một lĩnh vực đòi hỏi phải có kiến thức toàn diện, nhất là về chính trị. Những người này thường có thái độ cực đoan trước môt sự kiện nào đó kiêủ như vụ sư Mình Tuệ...Có người lại muốn tỏ ra thông thạo tình hình hoặc vụ lợi cá nhân nên đã vô tình hay cố ý đưa những thông tin sai sự thật, làm phương hại đến cá nhân, tổ chức thậm chí là cả quốc gia dân tộc. Trên mạng ảo rất nhiều người đã lợi dụng nó để thực hiện những mục đích xấu bằng cách ẩn danh. Vì vậy, để có văn mình trên mạng cần phải xử sự trên mạng như trong xã hội thực, trên cơ sở công khai, mình bạch, trong sáng....

HN 1/6/24

THAY ĐỔI LÃNH ĐẠO CẤP CAO NHƯNG THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ỔN ĐỊNH!

         Để xây dựng Đảng thực sự tiêu biểu về đạo đức, văn minh như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời, Đảng ta thời gian qua đã đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm được triển khai bài bản, thường xuyên, liên tục, không ngừng, không nghỉ, đi vào chiều sâu với quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào" và được tiến hành sâu rộng từ Trung ương đến cơ sở!
Do thực hiện tốt chủ trương này, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã thu được nhiều kết quả quan trọng, qua đó củng cố niềm tin vững chắc của toàn dân, toàn quân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta nhiều lần chỉ rõ: Tham nhũng, tiêu cực “uy hiếp sự tồn vong của chế độ ta”, là một trong bốn nguy cơ đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.

Trước thực trạng tham nhũng diễn biến phức tạp, phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020 ngày 12-12-2020 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng (nay là Ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực) chỉ rõ: Việc xử lý nghiêm nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm. Kỷ luật một vài người để cứu muôn người và sẽ còn phải tiếp tục làm quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới theo tinh thần Bác Hồ đã dạy: “Cắt bỏ một vài cành cây sâu mọt để cứu cả cái cây”...

Tiếp đó, phát biểu tại phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngày 20-1-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu phải: “Chấn chỉnh, đấu tranh đẩy lùi, loại bỏ tư tưởng lo ngại việc đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng sẽ “làm chậm sự phát triển”, làm “hạn chế sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm”, “nhụt chí”, “làm cầm chừng”, “phòng thủ” trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.

Với chủ trương đúng đắn, kịp thời, từ năm 2013, khi Ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng được thành lập, trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được tiến hành ráo riết, quyết liệt; đạt nhiều kết quả toàn diện, tích cực; nhiều vụ án về kinh tế, nhất là các vụ đại án tham nhũng được điều tra, xử lý đúng người, đúng tội. Trong giai đoạn 2013-2020, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 131 nghìn đảng viên.

Năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức Đảng, hơn 24.160 đảng viên (tăng 12% về số đảng viên bị kỷ luật so với năm 2022). Trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật hàng chục cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đặc biệt, năm 2023 và nửa đầu năm 2024, nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng đưa ra xử lý, nhiều cựu cán bộ, lãnh đạo ở các bộ, ngành, địa phương bị xử lý hình sự với những mức án nghiêm minh. Hàng loạt các vụ án khác đang được mở rộng điều tra như vụ án Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (giai đoạn 2); vụ án Tập đoàn Phúc Sơn; vụ án xảy ra tại Tập đoàn Thuận An… Kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là minh chứng rõ nét nhất về vai trò lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta.

Đấu tranh quyết liệt, xử lý nghiêm minh để tạo sự ổn định, phát triển
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực diễn ra rất quyết liệt, nghiêm minh nhưng cũng rất nhân văn, có lý, có tình. Nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm, kể cả cán bộ cấp cao, lãnh đạo quản lý các cấp bị xử lý phải tâm phục, khẩu phục. Đảng đã xử lý nghiêm khắc với kẻ chủ mưu, cầm đầu, tích cực thực hiện hành vi vi phạm, song cũng xem xét toàn diện đối với những người làm công hưởng lương, phụ thuộc, không chủ động, không cố ý hưởng lợi… Điều này khẳng định công tác phòng, chống tham nhũng ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, góp phần thức tỉnh, cảnh báo, ngăn chặn từng bước và đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được nhân dân đồng tình ủng hộ, cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tờ Le Monde (Pháp) số ra ngày 21-6-2022 bình luận: “Cuộc chiến chống tham nhũng của Việt Nam đã tăng tốc mạnh mẽ và giờ đây không loại trừ ai, từ các đại gia ở khu vực kinh tế tư nhân cho tới các đảng viên là quan chức cấp cao”. Đặc biệt, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden bày tỏ ấn tượng trước nỗ lực trong cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng ta và người đứng đầu Đảng - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Tôi hoan nghênh nỗ lực chống tham nhũng và thúc đẩy quản trị tốt của Ngài trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Giải quyết nạn tham nhũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình và an ninh trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới”.

Tuy nhiên, lợi dụng công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các thế lực thù địch sử dụng mạng xã hội và một số trang báo phản động, đã tích cực tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo với nhiều lời lẽ bịa đặt nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả và quyết tâm phòng, chống tham nhũng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không dừng lại ở đó, lợi dụng việc một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt, cấp cao xin từ chức, miễn nhiệm hoặc bị bắt để điều tra, làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật, các trang mạng phản động ngay lập tức hướng dư luận thành kết quả của “sự thanh trừng nội bộ”, “tranh giành phe cánh”…, thậm chí đặt vấn đề về trách nhiệm của Tổng Bí thư, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Có thể khẳng định rất rõ rằng, các đối tượng chống phá, cơ hội chính trị cố tình xuyên tạc công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm gây nhiễu loạn thông tin, gây rối tình hình, tạo hoang mang trong xã hội; phá hoại công tác tổ chức, cán bộ của Đảng. Mục đích cao nhất của chúng là làm bất ổn xã hội, dẫn đến suy yếu thể chế chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Trong suốt hơn 94 năm lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ trương lựa chọn cán bộ, đảng viên xứng đáng, đủ đức, đủ tài để gánh vác nhiệm vụ cách mạng. Theo đó, Đảng đã từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ kiên trung với Đảng, tận hiếu với nước, với dân; xứng đáng là người “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hy sinh vì lợi ích chung, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Việc cho “thôi chức”, “miễn nhiệm” đối với một số cán bộ, đảng viên là một trong những dấu ấn nổi bật, có tính đột phá khi đánh giá, xem xét cán bộ, góp phần để phương châm “có lên, có xuống, có vào, có ra” được triển khai sâu rộng, đồng bộ; để xu hướng đó trở thành một việc làm bình thường trong quá trình kết hợp nhuần nhuyễn “vừa xây”, “vừa chống”, làm cho Đảng ngày càng đoàn kết, trong sạch, vững mạnh.

Điểm đặc biệt, dù có thay đổi nhân sự ở cấp nào nhưng nguyên tắc hoạt động, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng luôn nhất quán, bảo đảm tính kế thừa, không bị chi phối bởi bất cứ thế lực nào. Tuy có sự thay đổi đối với cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhưng đó là thay đổi để phát triển, thay đổi cán bộ lãnh đạo cấp cao nhưng thể chế chính trị luôn ổn định; vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được khẳng định. Do đó, những lời lẽ lạc lõng của các thế lực thù địch lợi dụng việc cho “thôi chức”, “miễn nhiệm” đối với một số cán bộ cấp cao để tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam trở nên vô giá trị. Bằng chứng là gần đây nhất, việc Quốc hội bầu đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội giữ chức Chủ tịch Quốc hội; bầu Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an làm Chủ tịch nước cho thấy sự kiện toàn kịp thời, phát triển liên tục, có sự kế thừa trong công tác cán bộ chủ chốt của Đảng.

*
* *

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo với tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” và với phương châm “kiên quyết, kiên trì, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” được tiến hành mạnh mẽ, trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược, được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân đánh giá cao, bạn bè quốc tế ghi nhận và là động lực quan trọng phát triển đất nước, để "đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Những luận điệu chống phá công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam; xuyên tạc việc cho “thôi chức”, “miễn nhiệm” đối với một số cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước là sự chống phá chưa bao giờ ngừng nghỉ của các thế lực thù địch trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh bác bỏ để bảo vệ chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời!

Yêu nước ST.

KHÔNG THỂ CÓ “TỰ DO BÁO CHÍ TUYỆT ĐỐI”!

     Từ lâu, tự do báo chí đã trở thành một trong những vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động thường xuyên lợi dụng để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam. Việc các thế lực thù địch, phản động khai thác sức mạnh của truyền thông, khả năng lan truyền nhanh, tầm ảnh hưởng rộng lớn của thông tin trên báo chí, sử dụng chiêu bài “tự do báo chí” để chống phá Việt Nam tuy không có gì là lạ, nhưng vẫn hết sức nguy hiểm!

Thủ đoạn của chúng thường là xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo Đảng và Nhà nước vi phạm nhân quyền, kích động đòi tự do báo chí theo kiểu phương Tây, đòi xuất bản “báo tư nhân”... Về nội dung, chúng tung tin, viết bài bóp méo sự thật, bịa đặt, phản động, xuyên tạc bản chất các sự kiện chính trị, lịch sử. Chúng tiến hành thường xuyên, liên tục theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, nhưng thường tập trung mở “chiến dịch” vào những thời điểm đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, những sự kiện, ngày lễ lớn của quốc gia,... Mục tiêu cơ bản của chúng là phủ nhận bản chất, xóa bỏ chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Phương thức tiến hành không chỉ tán phát nội bộ, mà còn tung lên các trang mạng phản động hoặc in thành các ấn phẩm ở nước ngoài rồi tìm cách tuồn vào trong nước. Đáng chú ý, trong những năm gần đây, thông qua các hoạt động, nhất là hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực báo chí, các thế lực thù địch phát hiện, móc nối, mua chuộc, lôi kéo một số nhà báo có quan điểm, tư tưởng lệch lạc, bất mãn đi theo quỹ đạo “tự do báo chí” phương Tây. Cách làm của chúng hết sức tinh vi, bài bản và nguy hiểm. Bước đầu là mời trả lời phỏng vấn, rồi trở thành “cộng tác viên” thường xuyên viết bài xuyên tạc tình hình trong nước, phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất CNXH, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; bôi nhọ lãnh tụ, công kích lãnh đạo, kích động người dân chống đối chính quyền; truyền bá tư tưởng, quan điểm đa nguyên, đa đảng... Dựa vào việc cơ quan bảo vệ pháp luật bắt giữ một số người lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận chống đối Đảng, Nhà nước, vi phạm pháp luật, các thế lực thù địch ra sức vu cáo Nhà nước ta “đàn áp”, “bóp nghẹt tự do báo chí”... Từ đó, núp dưới chiêu bài “bảo vệ nhà báo”, “đấu tranh cho tự do báo chí” để can thiệp vào công việc nội bộ của ta.
Thế nhưng dù có sử dụng chiêu thức gì chăng nữa thì họ cũng không thể phủ nhận được những thành tựu, tiến bộ về tự do báo chí ở Việt Nam đã được quốc tế thừa nhân. Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là không ngừng phấn đấu bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Bằng nhiều chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người dân khai thác, sử dụng các thông tin báo chí phục vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội; hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền tự do của nhân dân. Theo tinh thần ấy, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về tự do báo chí, tự do Internet. Đến năm 2023, Việt Nam có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí, 72 cơ quan Đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người. Tổng số người được cấp thẻ nhà báo kỳ hạn 2021-2025 tính đến tháng 12/2023 là 20.508 trường hợp… Internet tại Việt Nam năm 2023 cũng phát triển mạnh với 77 triệu người dùng (chiếm 79,1% dân số). Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới. Mạng xã hội cũng trở thành nền tảng quan trọng ở Việt Nam. Với hơn 70 triệu người tham gia, mạng xã hội ở Việt Nam đã trở thành nhịp cầu kết nối để công dân bày tỏ chính kiến, tổ chức các diễn đàn thảo luận, phản biện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gửi góp ý, kiến nghị đến các cơ quan chức năng... Sự phát triển nhanh số người sử dụng và các phương tiện thông tin đại chúng, Internet cho thấy, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam có bước tiến mạnh mẽ. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam có quyền tự hào với những thành tựu bảo đảm quyền con người nói chung, bảo đảm quyền tự do báo chí nói riêng của mình và kiên quyết đấu tranh, phản bác mọi âm mưu, hành động xuyên tạc, bóp méo sự thật về tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, trong bất cứ chế độ chính trị - xã hội nào, không thể có “tự do báo chí tuyệt đối” như các thế lực thù địch, phản động vẫn rêu rao mà các quốc gia trên thế giới đều có luật và điều khoản xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, luật pháp Việt Nam cũng có những quy định hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong một số trường hợp phù hợp với Công ước về các quyền dân sự và chính trị, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp và chính đáng, uy tín, danh dự của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn công cộng, sức khỏe cộng đồng và đạo đức xã hội. Tự do báo chí, là “quyền” phải gắn với “trách nhiệm” vì hòa bình và an ninh quốc gia, vì lợi ích dân tộc, chứ không thể là tuyệt đối hóa tự do của cá nhân, tự do vô chính phủ như các thế lực thù địch, phản động cổ súy, tung hô./.
Yêu nước ST.