Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Nêu gương đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tính thuyết phục trong công tác tư tưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

Cách đây 100 năm, ngày 20/5/1924, trong “Thư gửi đồng chí Pêtơrốp” (Tổng Thư ký Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhận định bất hủ: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Vừa qua, ngày 9/5/2024, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký Quy định số 144-QĐ/TW, của Bộ Chính trị về "Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”. Trong bối cảnh hiện nay, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức cách mạng, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, có đủ năng lực vận động, thuyết phục, định hướng tư tưởng, lãnh đạo quần chúng nhân dân cùng phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc.

Bác Hồ với công nhân xe lửa Gia Lâm (Tranh: Phạm Lung, sáng tác năm 1969).

Bác Hồ với công nhân xe lửa Gia Lâm (Tranh: Phạm Lung, sáng tác năm 1969).

NÊU GƯƠNG TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Phương pháp nêu gương đạo đức cách mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong mọi công tác của Đảng, nhất là công tác tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác tư tưởng là công tác hàng đầu. Muốn công tác này đáp ứng yêu cầu ngang tầm nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, nêu gương đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh, đối với cán bộ, đảng viên, đạo đức cách mạng là cái gốc, nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng trở nên vô dụng. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Đạo đức cách mạng giúp cán bộ, đảng viên vững vàng trong mọi thử thách. Có đạo đức cách mạng thì “khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước ... Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải noi gương các thế hệ tiền bối: “Suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Một ngày nào mà .... nhân dân ta chưa được sung sướng, yên vui thì tất cả chúng ta vẫn phải đem hết tinh thần và nghị lực mà phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng hoàn toàn thắng lợi”; phải có ý thức “gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.

Trên cơ sở không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng để dân tin, dân mến, dân làm theo; phải xứng đáng là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân, vừa phục vụ nhân dân, vừa lãnh đạo nhân dân thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ba nguyên tắc trong thực hành nêu gương: Một là, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Thế hệ đi trước làm gương cho thế hệ đi sau; ông bà làm gương cho con cháu, cha mẹ nêu gương cho con cái, anh chị làm gương cho em; lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên; đảng viên làm gương trước quần chúng. Hai là, xây đi đôi với chống, xây dựng đạo đức cách mạng phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, phải kiên quyết chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, chống “chủ nghĩa cá nhân”, phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Ba là, tu dưỡng đạo đức suốt đời, thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mỗi cán bộ, đảng viên.

Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện và nhân rộng mô hình “người tốt, việc tốt” để tăng cường hiệu quả của việc giáo dục, thuyết phục và vận động cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân: “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất”; “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương là phương pháp hết sức quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, nhất là về tính giáo dục và thuyết phục. Cán bộ, đảng viên nêu gương, đi đầu thì vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng rất hiệu quả. Ngược lại, cán bộ, đảng viên nói mà không làm, làm cầm chừng, thiếu trách nhiệm thì có vận động mấy cũng khó mà làm cho dân tin, dân theo.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm và tặng quà gia đình có công với cách mạng tại tỉnh Tuyên Quang. (Ảnh: TTXVN)

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH HÌNH MỚI ĐẾN CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Công tác tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, bao hàm phạm vi rộng, từ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đến tuyên truyền, cổ động, truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, nâng cao dân trí, khơi dậy tinh thần yêu nước, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Điểm xuất phát trong công tác tư tưởng là lòng tin vào con người, tác động tới nhận thức, tình cảm và trí tuệ của mỗi người và làm cho họ tin vào những điều tốt đẹp, cao thượng nhất.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của công tác tư tưởng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người từng nhấn mạnh: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”. Người khẳng định, học thuyết Mác - Lênin là vũ khí lý luận, nền tảng tư tưởng của Đảng. Đảng phải làm tốt công tác tư tưởng, làm cho thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thấm nhuần trong Đảng và xã hội, khích lệ toàn dân tộc kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn chú trọng nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, việc coi trọng và triển khai hiệu quả công tác tư tưởng đã góp phần giúp Đảng ta thống nhất ý chí và lực lượng, huy động khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta thu được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đưa cả nước vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế, uy tín trên trường quốc tế được nâng lên.

Cũng trong gần 40 năm qua, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng được tăng cường, góp phần nâng cao nhận thức, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, học tập, nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh, với nội dung, hình thức ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Tư duy lý luận của Đảng có bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Ðảng ta và nhân dân ta có quyền tự hào và khẳng định rằng, gần 95 năm qua, chúng ta đã phát triển và làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng thực tiễn sinh động của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác tư tưởng vẫn còn một số hạn chế, tính thuyết phục chưa cao; việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên; một bộ phận đảng viên chưa nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng. Công tác thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có lúc chưa kịp thời, hình thức chưa phong phú. Tính chiến đấu của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi chưa cao, còn bị động, lúng túng. Việc dự báo, nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và định hướng dư luận xã hội còn có lúc chưa kịp thời. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp mà thực tiễn đặt ra chưa được làm sáng tỏ...

Hiện nay, thế giới và nhân loại đang đi qua một giai đoạn đầy bất định và bất ổn. Kinh tế thế giới đối mặt với nhiều vấn đề nan giải; quan hệ giữa các nước lớn diễn biến phức tạp; xung đột nảy sinh ở các khu vực trọng yếu của thế giới; các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn biến nhanh và khó lường. Đáng chú ý, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông, trí tuệ nhân tạo, gây ra nhiều vấn đề mới tác động sâu sắc đối với xã hội, cả ở các nước phát triển và đang phát triển. Bối cảnh đó tạo ra thời cơ đan xen thách thức, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với các đảng cầm quyền trên thế giới.

Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước vẫn đứng trước thách thức không nhỏ; các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên, xu hướng già hóa dân số trở nên gay gắt hơn; tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn tồn tại; các thế lực thù địch, các tổ chức phản động chống phá ngày càng quyết liệt. Đáng chú ý là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy giảm sức chiến đấu; một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, thiếu tính tiên phong, còn tình trạng thụ động, trông chờ, né tránh.

Tình hình nêu trên tác động mạnh, nhiều chiều đến công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác tư tưởng nói riêng, đòi hỏi đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, không ngừng hoàn thiện và nâng cao sức chiến đấu, bản lĩnh chính trị của Đảng để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới. Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, nhiệm vụ chính trị nặng nề, lịch sử gần 95 năm của cách mạng Việt Nam cho thấy, hơn lúc nào hết cần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng nhằm tạo sự thống nhất cao trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận trong nhân dân.

Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa tham quan gian hàng trưng bày đặc sản của người dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước tại Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh Bình Phước năm 2023, tháng 8/2023. (Ảnh: TTXVN)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NÊU GƯƠNG, GÓP PHẦN TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Đứng trước những đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là quan điểm về nêu gương đạo đức cách mạng trong công tác tư tưởng có ý nghĩa rất quan trọng.

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước... Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trên tinh thần đó và nhất là trước những tác động, diễn biến phức tạp, nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, diễn biến tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, cần đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng với phương châm chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả. Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, mỗi khi gặp khó khăn, thách thức, quần chúng nhân dân trông cậy vào tính tiên phong, xông pha của cán bộ, đảng viên; đảng viên nhìn vào và noi theo sự gương mẫu, đi đầu của lãnh đạo cấp ủy.

Để vận dụng hiệu quả phương thức nêu gương nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, cần làm tốt các giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và xã hội về vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng và sự cần thiết nêu gương đạo đức trong thực thi công tác tư tưởng, theo phương châm “Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, toàn hệ thống chính trị làm công tác tuyên truyền”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: Tư tưởng dẫn đầu. Đảng phải quan tâm đến giáo dục tư tưởng và lãnh đạo công tác tư tưởng trong Đảng và trong xã hội. Công tác tư tưởng phải đi trước một bước, không ngừng đổi mới để phù hợp với những điều kiện cụ thể của hoàn cảnh, không ngừng nâng cao hiệu quả phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu để việc nêu gương thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động của Đảng. Từ đó, khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trên mặt trận tư tưởng và các công tác khác của Đảng, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Với việc nghiêm túc thực hành nêu gương, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phấn đấu trở thành tấm gương sáng, làm kiểu mẫu cho quần chúng nhân dân noi theo trong mọi công việc; không ngừng rèn luyện, “tự soi”, “tự sửa”, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Hai là, đội ngũ cán bộ, đảng viên nghiêm túc, tự giác thực hiện những nhiệm vụ được chỉ ra tại các văn bản của Đảng đã ban hành về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nêu gương; tập trung làm tốt ba vấn đề: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên; gắn việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm về việc học tập và làm theo Bác. Cần nhận thức sâu sắc, “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đồng thời, việc “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên cần tuân thủ theo nguyên tắc “xây” đi đôi với “chống”. “Mỗi người tốt là một bông hoa đẹp” thì “Cả dân tộc là một vườn hoa đẹp”.

Với tinh thần nêu trên, trong thời gian tới, cần quán triệt sâu sắc và nhanh chóng đưa Quy định số 144-QĐ/TW vào cuộc sống. Trong đó, các cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị cần cụ thể hóa 5 chuẩn mực đạo đức được quy định thành các tiêu chí gắn với nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương. Đồng thời, nghiêm túc triển khai, theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Có thể khẳng định, 5 chuẩn mực đạo đức được nêu tại Quy định số 144-QĐ/TW có tính khái quát cao, bảo đảm dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát. Điều quan trọng và cấp thiết là cần gắn các chuẩn mực này với thực tiễn nhiệm vụ chính trị đặc thù của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, khiến cho Quy định số 144-QĐ/TW trở nên hết sức sống động, gắn với hơi thở của cuộc sống, đi vào tiềm thức, nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên (để rèn luyện) và cả quần chúng nhân dân (để giám sát, kiểm tra).

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức, thể hiện cơ bản ở việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ và công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Về đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ, cần thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, có sự định hướng, theo dõi, rèn luyện, uốn nắn kịp thời, chú trọng vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa “Đức” và “Tài”. Trong tổ chức, triển khai công việc, hết sức chú ý việc thống nhất tư tưởng, vai trò làm gương, tiên phong của người đứng đầu và việc phát huy dân chủ gắn với kỷ cương. “Tư tưởng thông, mọi người hăng hái thực hiện kế hoạch mới tốt”. “Thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Phát huy quyền dân chủ cũng có nghĩa là thực thi quyền giám sát của nhân dân đối với các cơ quan, tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nước.

Thắm tình quân dân. (Ảnh: TTXVN)

Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền, góp phần khơi dậy tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển của nhân dân, niềm tự hào của mỗi người cán bộ, đảng viên, phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, truyền thống cách mạng của địa phương trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Theo đó, nghiên cứu đổi mới sáng tạo nhiều cách làm hay có tính đột phá trên cơ sở tích cực ứng dụng công nghệ, nền tảng chuyển đổi số vào thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền. Cần gắn với hoạt động nắm bắt dư luận xã hội, kịp thời định hướng dư luận, gắn kết chặt chẽ với các nhiệm vụ chính trị, làm cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thấm sâu, lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp. Qua đó, tạo sự thống nhất, đồng lòng trong xã hội theo đúng tinh thần mà đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”; góp phần thực sự mang lại những giá trị vật chất, tinh thần cho nhân dân, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân trên mọi phương diện.

Năm là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng vừa “hồng”, vừa “chuyên”, coi đây là công tác trọng điểm. Mỗi cán bộ làm công tác tư tưởng phải là tấm gương đi đầu với bản lĩnh, trí tuệ, có phương thức hoạt động khoa học, tuyệt đối trung thành, kiên định, vững vàng, có đủ trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, phải nói được, làm được, thuyết phục được, không để bị mua chuộc bởi các thế lực xấu, thù địch. Cần tạo dựng nền tảng văn hóa rộng rãi cho đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, để từ đó có định hướng đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng chuyên sâu từng lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tuyên truyền, vận động; có như vậy, mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng.

Sáu là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp với phát huy vai trò giám sát của các cơ quan báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kịp thời biểu dương điển hình tiên tiến, tấm gương sáng về đạo đức, lối sống; đấu tranh, ngăn chặn mạnh mẽ, hiệu quả các biểu hiện lệch lạc, sai trái, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm đạo đức, lối sống, góp phần làm cho Đảng thật sự liêm khiết, thật sự là Đảng của giai cấp, của dân tộc, được nhân dân tin yêu, ủng hộ, noi theo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị khẳng định rõ tầm quan trọng của công tác tư tưởng. Trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng nâng cao tính thuyết phục của công tác tư tưởng, trước hết và quan trọng hàng đầu là việc nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bằng việc làm và hành động cụ thể, mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực nêu gương về đạo đức cách mạng, nghiêm túc chấp hành kỷ luật của Đảng, kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nâng cao ý thức giữ gìn đoàn kết trong Đảng. Cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy các cấp cần tiên phong, gương mẫu trong vận động, tổ chức và đồng hành cùng nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Việc rèn luyện theo chuẩn mực đạo đức cách mạng trong tình hình mới, tích cực nêu gương sẽ tăng cường sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, để Đảng Cộng sản Việt Nam ở ngưỡng cửa 100 năm tuổi xứng đáng là một đảng cách mạng, “là đạo đức, là văn minh”, là người lãnh đạo mọi thắng lợi của đất nước Việt Nam trong thời kỳ mới, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”./.

ST.

TẠI SAO LẠI NHẬP CẢNH VỀ VIỆT NAM LÚC NÀY???

     Năm 2018 - một loạt cuộc biểu tình diễn ra ở một số địa phương với lý do chống lại Luật an ninh mạng và Luật đặc khu!
Hàng loạt đối tượng người gốc Việt chủ yếu sinh sống tại Hoa Kỳ đã về Việt Nam tham gia…
Hàng loạt linh mục cực đoan trong nước đăng đàn khích lệ những kẻ biểu tình cực đoan.

Những ngày qua, mạng xã hội lại bị một phen ồn ào- Nguyên nhân ban đầu xuất phát từ việc Lê Anh Tú (Thích Minh Tuệ) cùng một số người đi bộ dọc các tỉnh Miền Trung… trên đường di chuyển vào các tỉnh phía Nam.
Điều đáng quan ngại cũng đã bắt đầu xuất hiện- Đã có một số người gốc Việt đang sinh sống tại Mỹ nhập cảnh về Việt Nam để tham gia cùng đoàn người ôm nồi cơm điện đi khất thực đó .
Sự việc lần này cũng xuất hiện hàng loạt lời “cổ vũ“ của những thành phần là LM cực đoan như Nguyễn Duy Tân, Đặng Hữu Nam, Phan Quốc Văn… tham gia khích lệ. 

Trong số Việt kiều đó , xuất hiện một người tên là Lương Thanh Sơn - Anh ta nhập cảnh về Việt Nam ngày 25/5/2024 - sau khi xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Lương Thanh Sơn ngay lập tức di chuyển ra Miền Trung ngày 26/5/2024 và tham gia vào đoàn người … ôm nồi cơm điện.
Thật không may, do thời tiết tại khu vực nghĩa trang Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị khắc nghiệt - Anh ta đã bị say nắng, sốc nhiệt - Được đưa đi cấp cứu tại một số bệnh viện tại Quảng Trị, sau đó tiếp tục chuyển lên Bệnh viện trung ương Huế thì tử vong.
Sự việc ồn ào đang diễn ra lần này, nhắc nhở mọi người về câu chuyện từng xảy ra 06 năm trước cũng tại các tỉnh thành phía Nam.
Đây không còn đơn giản là một câu chuyện nhỏ - Nói đúng hơn , sự việc lần này chính là nằm trong một kế hoạch khá bài bản, được chuẩn bị kịch bản công phu, kỹ lưỡng từ rất rất lâu - Không loại trừ có sự can thiệp từ bên ngoài.
Hy vọng các lực lượng chức năng, chính quyền các địa phương, đặc biệt là bà con nhân dân tại các khu vực mà nhóm người này đang đi qua.
Hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, tránh bị mắc mưu của những kẻ từ bên ngoài kết hợp những đối tượng chống phá từ bên trong tạo vỏ bọc dưới chiêu bài “tôn giáo“ nhằm âm mưu Diễn biến hoà bình, bạo loạn, lật đổ.
Việc những tài khoản FB , YouTuber, Tick Tick… liên tục đăng những thông tin lôi kéo, mang màu sắc mê tín dị đoan, lợi dụng đám đông quần chúng thiếu thông tin, tạo tình huống để kích động, gây mất trật tự an ninh… là câu chuyện không còn là dự đoán./.
---------------------
- Hình ảnh 1 là đối tượng Nguyễn Wiliam Anh từng bị lực lượng Công An Việt Nam bắt giữ khi đang kích động biểu tình chống phá - sau khi bị xét xử và bị Nhà nước Việt Nam trục xuất.
- Hình ảnh 2 là Lương Thanh Sơn, một Việt kiều từ Mỹ vừa về nước tham gia đoàn người ôm nồi cơm điện… bị tử vong tại Bệnh viện trung ương Huế.
- Hình 3 là những chia sẻ trên trang FB cá nhân của đối tượng LM cực đoan chuyên chống phá nhà nước Việt Nam, Nguyễn Duy Tân.


Yêu nước ST.

Sự thật cái gọi là "Việt Nam vi phạm nhân quyền"

Những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, với động cơ thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra những báo cáo phiến diện nhằm xuyên tạc tình hình, phủ nhận các thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam.

Người Lô Lô bên cột cờ Lũng Cú - Hà Giang. (Ảnh minh họa: Trần Bảo Hòa)

Người Lô Lô bên cột cờ Lũng Cú - Hà Giang. (Ảnh minh họa: Trần Bảo Hòa)

ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM, XUYÊN TẠC THỰC TẾ

Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31/10/2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22/4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22/4/2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN NỖ LỰC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11/10/2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

Đến đây, chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ cái gọi là “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... được đề cập trong Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ là những nhận định thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam./.

ST.

Phản bác quan điểm cho rằng Việt Nam thực hiện “chuyên chế kiểu cũ” trong phòng, chống tham nhũng

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã và đang được triển khai mạnh mẽ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Theo Báo cáo do Tổ chức Minh bạch quốc tế công bố đầu năm 2023, Việt Nam là 1 trong 6 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tiến bộ nổi trội về phòng, chống tham nhũng, tăng 10 bậc trên bảng xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, từ xếp thứ 87 (năm 2021) lên xếp thứ 77 (năm 2022), tăng hơn 30 bậc trong 10 năm. Điều này cho thấy nỗ lực, quyết tâm của Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng đã được ghi nhận.

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã và đang được triển khai mạnh mẽ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. (Ảnh minh họa)

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã và đang được triển khai mạnh mẽ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. (Ảnh minh họa)

Trên thực tế, các cơ quan chức năng đã tăng cường phối hợp chặt chẽ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh những vụ án tham nhũng cả trong khu vực nhà nước và ngoài nhà nước, cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu có sai phạm. Việc phát hiện, xử lý được tiến hành đồng bộ, quyết liệt ở cả cấp Trung ương và địa phương, đặc biệt là ở cấp tỉnh. Trong giai đoạn 2012-2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý... Nhiều đại án tham nhũng, tiêu cực được phát hiện và xử lý nghiêm như vụ án liên quan đến tiêu cực trong hệ thống đăng kiểm, vụ chuyến bay giải cứu, hay các vụ án liên quan đến các tập đoàn kinh tế lớn như Việt Á, FLC, Tân Hoàng Minh, AIC, Vạn Thịnh Phát

Tuy nhiên, bất chấp thực tế, các thế lực, phần tử thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn không ngừng công kích, xuyên tạc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta bằng nhiều luận điệu thâm độc, nham hiểm. Chúng xuyên tạc mục tiêu và bản chất đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc “đấu đá nội bộ” nhằm “thanh trừng bè phái”, “đánh bóng tên tuổi”, chỉ mang tính chất “phong trào”. Chúng ra sức phủ nhận những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Lợi dụng dư luận xã hội bức xúc về các vụ việc sai phạm trong công tác quản lý nhà nước, trong công tác xây dựng Đảng cũng như những hạn chế, khuyết điểm trong phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, các đối tượng phản động rêu rao rằng tham nhũng là căn bệnh kinh niên của chế độ độc đảng cầm quyềnnếu còn giữ thể chế chính trị như hiện nay thì không thể chống tham nhũng thành công”...(!). Chúng ta đều biết, mục đích cuối cùng của chúng là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện diễn biến hòa bình” hòng lật đổ chế độ chính trị, kêu gọi đa nguyên, đa đảng.

Khi các cơ quan chức năng của nước ta tiến hành điều tra, xử lý những vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, trong đó có sự dính líu của một số cán bộ cấp cao thì những thành phần chống phá lại chuyển sang giọng điệu phê phán, rằng cuộc chiến chống tham nhũng chỉ là cái vỏ ồn ào”; rằng những bản án nặng nề, “tuyên truyền rầm rộ” chỉ là “nỗ lực cứu chế độ” và đang làm sống lại mô hình chuyên chế kiểu cũ, trong đó tinh thần và động lực kinh doanh bị huỷ hoạitự do, dân chủnhân quyền bị “vi phạm nghiêm trọng”…(!).

Những thế lực, đối tượng phản động, thù địch còn lớn tiếng “phán xét” Việt Nam thực hiện mô hình chuyên chế kiểu cũ”, “chấp nhận” tham nhũng để đổi lấy tăng trưởng, biểu hiện ở hình thức cấu kết, chia chác lợi ích giữa quan chức và doanh nghiệp, “bôi trơn” guồng máy cai trị để “vượt qua” những bất cập, rào cản trong môi trường kinh doanh hay “lách” những khoảng trống kiểm soát quyền lực dưới chế độ một Đảng lãnh đạo(!). Vì, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí” cán bộ, đảng viên, làm “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm; ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế trong nước, gây tê liệt chuỗi cung ứng đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng đến xuất khẩu, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sau những “lý luận” như vậy, một lần nữa, chúng tiếp tục chiêu bài cũ - “hò hét” rằng, thuốc đặc trị tham nhũng ở Việt Nam là phải thay đổi thể chế chính trị, phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Khái quát lại những luận điệu, chiêu trò xuyên tạc như trênđể chúng ta không ngừng nâng cao nhận thức và tiếp tục khẳng định rằng tham nhũng là căn bệnh nhức nhối xảy ra ở mọi quốc gia với chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Căn nguyên của tham nhũng không nằm ở chế độ đa đảng hay một đảng, mà là do sự tha hóa quyền lực và thiếu kiểm soát quyền lực sinh ra. Do đó, tham nhũng tồn tại ở mọi thể chế chính trị, thậm chí ở những nước theo chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn hoành hành nghiêm trọng. Thực tế, theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, các nước thực hiện đa đảng như Colombia, Brazil, Malaysia, Thái Lan, Indonesia,... vẫn thuộc nhóm “nước tham nhũng nghiêm trọng”. Trong khi đó, có những nước do một Đảng nổi trội cầm quyền như Nhật Bản, Singapore lại thuộc nhóm những nước minh bạch, ít tham nhũng. Rõ ràng, hiệu quả phòng, chống tham nhũng không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay chế độ đa đảng mà phụ thuộc vào chất lượng của hệ thống pháp luật, năng lực quản trị của nhà nước, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức và nhiều yếu tố khác.

Đối với Việt Nam, cần thấy rằng việc phòng, chống tham nhũng không phải bây giờ chúng ta mới làm, mà đã làm từ lâu, làm thường xuyên, là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo dân chủ, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Từ tháng 12/2003, Việt Nam đã tham gia ký kết Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng. Suốt từ đó đến nay, chúng ta chưa từng lơi lỏng trong cuộc đấu tranh này. Đặc biệt, trong bối cảnh mới, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực càng được Đảng, Nhà nước ta hết sức chú trọng, coi đó là nhiệm vụ bức thiết, có ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta đang diễn ra rất quyết liệt, không có vùng cấm, không kể cán bộ đương chức hay đã nghỉ hưu, tham nhũng vật chất hay tham nhũng quyền lực….

Những nỗ lực và kết quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Theo kết quả điều tra dư xã hội của Ban Tuyên giáo Trung ương, đại đa số người dân (93%) bày tỏ niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh nàyCông tác phòng, chống tham nhũng được định vừa là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, vừa phải tiến hành thường xuyên, bên bỉ, lâu dài nhằm làm trong sạch tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, vì lợi ích chung của xã hội chứ hoàn toàn không phải cuộc “đấu đá” hay “thanh trừng nội bộ” như giọng điệu xuyên tạc nhằm âm mưu gây nhiễu loạn thông tin, đánh lừa dư luận, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Do đó, trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường công tác tuyên truyền luôn vô cùng cần thiết và có ý nghĩa. Một là, thường xuyên giáo dục, nhắc nhở, nâng cao nhận thức, củng cố tinh thần trách nhiệm, phẩm chất, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ, công chức. Hai là, nâng cao nhận thức xã hội, tính tích cực chính trị - xã hội và vai trò của người dân trong tham gia phòng, chống tham nhũng. Ba là, lan toả những nhận thức và suy nghĩ đúng đắn về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta, hạn chế những quan điểm lệch lạc, thiếu chính xác về cuộc đấu tranh này ở Việt Nam. Bốn là, nâng cao và lan toả bầu không khí quyết tâm, dân chủ, thúc đẩy liêm chính trong toàn xã hội, từ đó tạo môi trường phòng, chống tham nhũng thuận lợi và hiệu quả hơn.

Cùng với không ngừng nâng cao công tác tuyên truyền, các hành vi tham nhũng, tiêu cực khi phát hiện phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh. Bởi, tham nhũng là loại tội phạm nghiêm trọng, nguy hiểm, gây ra nhiều hệ luỵ và thiệt hại nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Tham nhũng làm méo mó các quan hệ xã hội, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế và phúc lợi chung của toàn xã hội; làm đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, làm xói mòn những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tham nhũng gây ảnh hưởng xấu đến đội ngũ cán bộ, dẫn đến sự suy thoái đạo đức, lối sống trong đội ngũ này, gây ra sự bất bình, bức xúc và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ và sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay, nếu không được ngăn chặn, kiểm soát hiệu quả sẽ gây cản trở lớn cho sự phát triển đất nước.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những hành vi tham nhũng đều phải chịu sự trừng trị nghiêm khắc của pháp luật và sự phán xét mạnh mẽ của xã hội. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức rõ tham nhũng là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ; đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là việc làm tất yếu, hợp lòng dân và xu thế phát triển của nhân loại. Chống tham nhũng góp phần khắc phục tình trạng thất thoát và thu hồi tài sản, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân, làm trong sạch môi trường đầu tư, tạo ra động lực cho sự phát triển đất nước.

Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp thứ 24 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương _  Ảnh: TTXVN

Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp thứ 24 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương _ Ảnh: TTXVN

Việc điều tra, truy tố, xét xử của các các cơ quan chức năng Việt Nam thời gian qua đều đúng người đúng tội, được dư luận đồng tình cao. Cán bộ, công chức vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi… thì phải chịu các hình thức xử lý nghiêm khắc. Doanh nghiệp kinh doanh thiếu liêm chính, tham ô, hối lộ, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người khác... thì phải chịu sự trừng phạt thích đáng theo quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của nhà nước và nhân dân đều bị nghiêm trị theo tinh thần của Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Việc xử lý nghiêm những đại án tham nhũng là để góp phần nêu cao tính răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực từ trong trứng nước. Chứ không phải “ồn ào” hay “nặng nề” như những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch, phản động; càng không thể nói chống tham nhũng quyết liệt là huỷ hoại tinh thần và động lực kinh doanh như sự rèm pha vô lối của chúng. Trái lại, chống tham nhũng quyết liệt cũng chính là để xây dựng và thúc đẩy môi trường kinh doanh trong sạch, xã hội trong sạch, liêm chính, phát triển lành mạnh.

Thực tế, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được, đất nước ta phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, liên tục và quyết liệt với quan điểm không có vùng cấm, sai phạm đến đâu thì xử lý đến đó, không có ngoại lệ, không có đặc quyền và được tiến hành sâu rộng từ Trung ương đến địa phương.

Quyết tâm đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực được thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn". Việc kiên quyết, nghiêm khắc xử lý các đại án tham nhũng có liên quan đến một số tập đoàn kinh tế lớn và cán bộ cấp cao ở cả Trung ương và địa phương chính là sự khẳng định nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc chiến phức tạp nàyđồng thời gián tiếp bác bỏ luận điệu về mô hình chuyên chế kiểu cũ”, trong đó tăng trưởng kinh tế đi cùng với chuyên chế và tham nhũng tràn lan.

Đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý tham nhũng, tiêu cực quyết liệt, mạnh mẽ không phải là làm sống dậy mô hình chuyên chế kiểu cũ” mà là một trong những nội dung cốt lõi của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; là xu thế tất yếu khách quan nhằm tạo động lực và môi trường thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng và bền vững của đất nước, xây dựng xã hội văn minh, vì sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam./.

ST.

Đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

Đấu tranh phản bác luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ góp phần bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn trực tiếp bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ tư tưởng của Người. Đó là hệ thống các luận điểm về: tính tất yếu phải có đảng cách mạng chân chính để lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam; quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam; đảng cầm quyền; xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, v.v. Đây là cơ sở lý luận trực tiếp, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng, lãnh đạo, trưởng thành của Đảng ta gần 95 năm qua - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, với mưu đồ đen tối nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta, các thế lực thù địch, phản động đã, đang dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc nội dung, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc này là vấn đề cấp thiết, quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay.

Trước hết, về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Lâu nay, các thế lực thù địch tìm mọi cách quy kết “Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là có “tội” với dân tộc và nhân dân”; chúng “chụp mũ”, cho rằng “Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã đẩy nhân dân Việt Nam vào cảnh cơ cực, đói khổ, nghèo nàn, cùng quẫn”, v.v. Đây là sự vu khống, bịa đặt vô cùng trắng trợn, nhằm bôi nhọ, phủ nhận công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Thực vậy, với lòng yêu nước nồng nàn và ước muốn tột cùng là cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, Hồ Chí Minh đã bôn ba tìm đường cứu nước. Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin “như một cuộc hẹn hò lịch sử” và đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn là giải phóng dân tộc bằng cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917” mới có thể giành được độc lập dân tộc thực sự, hoàn toàn; nhân dân ta mới được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để thực hiện con đường cứu nước đúng đắn đó, Người đã đặt câu hỏi và tự trả lời: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Nghĩa là, Người đã nhận thấy rõ tính tất yếu cũng như vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đồng thời, đảng đó phải là đảng cách mạng, chân chính, phải được thiết lập trên cơ sở gắn bó máu thịt giữa đảng với các tầng lớp nhân dân, đảng không có lợi ích nào khác ngoài đấu tranh vì lợi ích của dân tộc, được quần chúng nhân dân thừa nhận và vì sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai. Từ tư duy khoa học, cách mạng đó, Người đã chủ động tiến hành chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ cho sự ra đời của Đảng. Và thực tế đã cho thấy, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930 là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo; dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những luận cứ khoa học trên và thực tiễn cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng vì nước, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu sai trái của các thế lực thù địch đã quy kết “Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là có “tội” với dân tộc, với nhân dân”!



Từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở Hong Kong (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Ảnh: TTXVN 

Hai là, về quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch ra sức bịa đặt và xuyên tạc rằng “Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa yêu nước vào quy luật hình thành Đảng là trái với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đảng cộng sản”. Chúng còn ra điều hiểu biết khi viện dẫn: “chủ nghĩa yêu nước chỉ làm mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng”, v.v. Thực chất, đây là những luận điệu nhằm đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thành tố “chủ nghĩa yêu nước” đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận điệu đó hoàn toàn vô lý, không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Thực vậy, trên cơ sở nắm vững nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin là một thành tố quan trọng quyết định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Đồng thời, Người đã phân tích sâu sắc điều kiện, hoàn cảnh nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời, số lượng còn ít, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tất yếu gắn chặt với phong trào yêu nước. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân mới là điều kiện “cần” để Đảng ra đời; nhưng để Đảng ta tồn tại, phát triển và giữ vững vai trò đội tiền phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì phải có điều kiện “đủ” - đó chính là phong trào yêu nước Việt Nam. Bởi vì, phong trào yêu nước Việt Nam được dẫn dắt bởi chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc; ra đời trước phong trào công nhân, đã đồng hành cùng dân tộc và là phong trào rộng lớn nhất, quy tụ các giai cấp, tầng lớp đấu tranh chống thực dân, đế quốc. Trong bối cảnh ấy, nếu phong trào công nhân không gắn bó với phong trào yêu nước, trở thành nòng cốt trong phong trào yêu nước thì cũng không lãnh đạo và tập hợp được lực lượng đông đảo. Hồ Chí Minh đánh giá đúng vị trí, vai trò và đưa phong trào yêu nước là một thành tố hợp thành không thể thiếu cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta. Không chỉ vậy, Người còn khẳng định “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Có nghĩa là, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đại diện cho lợi ích giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích dân tộc và Đảng không có lợi ích riêng nào khác. Như vậy, tư tưởng trên của Hồ Chí Minh không hề “trái với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin”; đồng thời, cũng không “làm giảm bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta”. Đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật hình thành đảng cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến của Hồ Chí Minh. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo và huy động toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; lãnh đạo sự nghiệp đổi mới thành công, đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó đã bác bỏ mọi luận điệu mà các thế lực thù địch đã rêu rao, xuyên tạc.

Ba là, về bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ luận điểm hết sức sáng tạo của Người: “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”, các thế lực thù địch cho rằng “Hồ Chí Minh không phải là cộng sản, mà là người dân tộc chủ nghĩa”, “là cộng sản nửa vời”, v.v. Sự thật là, cách tiếp cận về Đảng của Hồ Chí Minh không những không làm mất đi bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mà còn bổ sung, phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đảng cộng sản ở một nước thuộc địa, khi mà nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu như ở Việt Nam, thì đảng đó không chỉ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà còn là của cả dân tộc. Trước hết, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh thần cách mạng và phương pháp khoa học, giải quyết đúng đắn, thành công mối quan hệ mật thiết giữa Đảng - giai cấp - dân tộc. Quá trình sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Bởi vì, chỉ có giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả năng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời, Người  thấy rõ sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đối với vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng không chỉ một hai người, mà của toàn thể dân chúng, Đảng không có lợi ích riêng, mà thống nhất với lợi ích của giai cấp, lợi ích của toàn thể nhân dân và của cả dân tộc. Do đó, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là luận điểm rất sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. Luận điểm ấy không làm giảm bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mà trái lại nó làm cho bản chất giai cấp công nhân được củng cố và tăng cường; càng làm cho giai cấp công nhân gắn bó máu thịt với nhân dân và cả dân tộc, làm cho Đảng ta luôn mang trong mình sự thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính điều đó đã làm cho Đảng ta có sức cuốn hút mạnh mẽ các giai cấp, tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; tin theo Đảng, bảo vệ Đảng, tạo nền tảng vững chắc cho Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Nhiều học giả phương Tây cũng khẳng định “Hồ Chí Minh là người cộng sản, rất mác - xít, đồng thời rất thấm đượm tinh thần dân tộc chân chính; là một hình mẫu giải quyết vấn đề lợi ích dân tộc và giai cấp một cách nhuần nhuyễn, kỳ tài”. Và thực tiễn đó đã khiến luận điệu xuyên tạc “Hồ Chí Minh là người “dân tộc chủ nghĩa” hay “cộng sản nửa vời” chỉ là hàm hồ, lố bịch.

Phủ nhận, xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, sâu xa là xuyên tạc, phủ nhận dẫn đến xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Đó là những hành động hết sức nguy hiểm và phản động, đòi hỏi chúng ta cần tỉnh táo nhận rõ mưu đồ và kiên quyết đấu tranh bác bỏ./.

ST.