Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước



TCCS - Ngoại giao “cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu trong Hội nghị đối ngoại toàn quốc (14-12-2021). Khái niệm này là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc thấm nhuần triết lý và thực hành hiệu quả trường phái ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tham quan triển lãm ảnh về ngoại giao Việt Nam tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32_Nguồn: vietnamplus.vn

1- Ngày 14-12-2021, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến “trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”(1).

Ngày 19-12-2023, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh về trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo, nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo, nhưng rất bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái, nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Theo khắc họa khái quát của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” được hình thành trong thời kỳ đổi mới gần 40 năm qua. Trường phái này được Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại. Như vậy, đề cập đến trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” chính là đề cập đến đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cũng như các hoạt động đối ngoại, ngoại giao của cả hệ thống chính trị Việt Nam trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới.

2- Khi khắc họa khái quát về trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, đây là trường phái được “phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(2).

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trang bị cho chúng ta thế giới quan và phương pháp luận khoa học, biện chứng và cách mạng để có thể thấy rõ được những quy luật phát triển và xu thế vận động khách quan của xã hội loài người. Với thế giới quan và phương pháp luận đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận thế giới là một chỉnh thể phức tạp, luôn trong trạng thái không ngừng vận động, vừa tuân theo các quy luật và xu thế khách quan, vừa chịu sự tương tác phức tạp, chứa đựng cả hợp tác lẫn đấu tranh giữa các quốc gia - dân tộc, giữa các nền kinh tế và giữa các nền văn hóa... Quy luật phát triển của xã hội loài người là đi từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao, và hình thái kinh tế - xã hội cao nhất là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, nhân loại đang trong giai đoạn lịch sử quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc(3).

Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển hệ thống quan điểm mang tính nền tảng, chỉ đạo việc hoạch định và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam. Trong kho tàng tư tưởng của Người mà Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng để hình thành và phát triển trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, đáng chú ý là tư tưởng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam là một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới; “dĩ bất biến ứng vạn biến”, kiên trì thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc trong mọi hoàn cảnh, kiên định về chiến lược, linh hoạt về sách lược; đoàn kết giai cấp, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(4); “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(5); “giúp bạn là tự giúp mình”; ngoại giao là một “mặt trận”...

Có thể nói, thế giới quan khoa học, biện chứng, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp Đảng ta có cách nhìn rõ về cấu trúc chính trị, kinh tế - xã hội, về các quy luật và xu thế vận động khách quan của thế giới ngày nay, về vị trí của Việt Nam trong sự vận động của thế giới. Với cách nhìn đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoạch định đường lối, đề ra chủ trương, chính sách phát triển đất nước vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với các quy luật và xu thế vận động khách quan của thế giới và xã hội loài người, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Từ thực tiễn sinh động các hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết nên một hệ thống quan điểm chỉ đạo việc hoạch định và triển khai thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đặc biệt đáng chú ý là các quan điểm sau: 1- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại(6); 2- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi(7); 3- Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế(8); 4- Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam  có quan hệ; 5- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế(9); 6- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế với cách nhìn biện chứng về đối tượng, đối tác: “trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”(10); 7- Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế(11); 8- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”(12); 9- Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế(13); 10- Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước(14); 11- Thực hiện chính sách “bốn không”: không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; 12- Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân(15).

Nhân dân giới thiệu quà tặng du lịch thuyền buồm ba vách Quảng Yên cho du khách (ảnh: Dương Văn Toàn)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

3- Lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là xuất phát điểm, là cơ sở để hoạch định và triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại, là cái “gốc” của đối ngoại, ngoại giao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta”(16).

Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (năm 1986) đến nay, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại(17) của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định xuyên suốt qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Với đường lối đối ngoại đó, Việt Nam luôn giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, có quan điểm, lập trường riêng đối với các vấn đề quốc tế... Giữ vững độc lập, tự chủ, nhưng không biệt lập, đóng cửa, tự cô lập, mà luôn mở rộng sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với các nước, các nền kinh tế, các tổ chức quốc tế và khu vực; luôn phấn đấu vì hòa bình, thúc đẩy tình hữu nghị, sự hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, việc Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo nên sự tin cậy trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, không ngừng nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam.

Ngay từ khi định hình đường lối đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với thực lực, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Sự uyển chuyển trong chính sách và các bước đi đối ngoại của Việt Nam không phải là sự ngả nghiêng, thực dụng, vô nguyên tắc, mà là sự sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược trên cơ sở kiên định về chiến lược nhằm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam trong mọi hoàn cảnh. Chỉ trên cơ sở giữ vững nguyên tắc và kiên định về chiến lược mới có thể sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược. Đồng thời, sự sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược giúp cho việc triển khai, thực hiện chiến lược đạt hiệu quả cao.

Thực tiễn đối ngoại, ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thể hiện rõ sự bám chắc vào lợi ích quốc gia - dân tộc, sự kiên định và nhất quán về đường lối, sự sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược và trong từng bước đi, đối sách cụ thể; tạo thành ba nét đặc sắc của trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát: “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”.  

4- Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Khi đó, Việt Nam đang trong hoàn cảnh đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, cả về kinh tế - xã hội lẫn quan hệ đối ngoại. Trong khi đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh đó, về mặt đối ngoại, có hai vấn đề lớn, hết sức cấp bách mà Việt Nam phải xử lý: Một là, phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để củng cố độc lập dân tộc, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và phát triển đất nước. Hai là, thích ứng với bối cảnh khách quan của thế giới đang biến đổi sâu sắc với những đảo lộn trong cục diện thế giới... Từ việc xử lý những vấn đề này, quá trình hình thành đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã được thúc đẩy.

Ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”, trong đó nhận định: tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và cô lập về chính trị sẽ trở thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Từ đó, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ phải ra sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, “thêm bạn, bớt thù”, làm thất bại âm mưu cô lập Việt Nam về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; ra sức tranh thủ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế. Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI thể hiện sự đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời cuộc và thế giới; mở đầu cho việc hoạch định đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tiếp đó, các Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 8-1989) và Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 3-1990) khóa VI đã tập trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; đề ra quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn biến của tình hình thế giới đối với đất nước, đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Đến Đại hội VII của Đảng (tháng 12-1991), Việt Nam khẳng định “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”(18). Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định một trong sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”; xác định mục tiêu của đối ngoại Việt Nam là “tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(19).

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (tháng 6-1992) đã ra nghị quyết về công tác đối ngoại, xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế. Đây là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

Đường lối đối ngoại đổi mới đã được Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) chính thức khẳng định với tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(20).

Từ Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Cùng với sự nhất quán đó, qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam liên tục được hoàn thiện và phát triển. Đáng chú ý là những nội dung lớn sau:

Về thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc: Từ chỗ yêu cầu các hoạt động đối ngoại phải “đáp ứng lợi ích của nhân dân ta” (Đại hội VII) đã phát triển thành yêu cầu “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” (Đại hội XI), rồi “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” (Đại hội XIII).

Về quan hệ song phương với các nước: Từ chủ trương “bình thường hóa, thiết lập quan hệ với các nước” (Đại hội VII) đã phát triển thành chủ trương “đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững” (Đại hội XI), rồi thành chủ trương “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy” (Đại hội XIII).

Về quan hệ đa phương: Từ chủ trương “hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng” (Đại hội VII) đã phát triển thành chủ trương “tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc” (Đại hội XI), rồi “nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn, như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác” (Đại hội XII). Đến Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021), nội dung về quan hệ đa phương trong đường lối đối ngoại của Đảng đã được phát triển thành “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể”(21). “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”(22).

Về hội nhập quốc tế: Từ chủ trương “tham gia và tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế” (Nghị quyết số 13-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa VI), đã phát triển thành “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” (Đại hội IX); rồi “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” (Đại hội X); “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (Đại hội XI) và hiện nay là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” (Đại hội XIII).

Về định vị Việt Nam trong thế giới ngày nay và xác định tâm thế đối ngoại của Việt Nam: Từ thời điểm ban đầu hết sức khiêm tốn khi tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” (Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII) đã phát triển thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội IX), rồi “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (Đại hội X), “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội XI) và Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(23).

Về quan hệ Đảng: Từ chỗ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ xác lập các mối quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới (Đại hội VI), đã mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả (Đại hội VII) và từ Đại hội VIII mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác, nghĩa là với tất cả chính đảng. Từ Đại hội XI, bên cạnh quan hệ song phương với các chính đảng ở các nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương mở rộng tham gia và thúc đẩy mạnh hơn quan hệ đa phương chính đảng.

Về lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý: Từ quan điểm “Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại” (Đại hội IX) đã phát triển thành “Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế” (Đại hội XIII).

Về tổ chức lực lượng: Từ yêu cầu “phối hợp chặt chẽ” hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, đối ngoại quốc phòng và an ninh, thông tin đối ngoại và thông tin trong nước” (Đại hội VIII) đã phát triển thành “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân” (Đại hội XIII).

Có thể thấy, quá trình hoàn thiện, phát triển đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam và trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” vẫn đang tiếp diễn.

5- Trong gần 40 năm qua, nhất quán triển khai thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã phá được thế bị bao vây, cấm vận; tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới; có quan hệ đặc biệt với ba nước(24), quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với bảy nước(25), quan hệ đối tác chiến lược với 11 nước(26), quan hệ đối tác toàn diện với 12 nước(27); có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; hình thành thế đan xen lợi ích nhiều tầng nấc với nhiều nước. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng. Đảng  Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Các tổ chức hữu nghị nhân dân Việt Nam có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài.

Vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để bảo vệ chủ quyền, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đồng thời góp phần vào việc củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Đối với những vấn đề phức tạp về biên giới lãnh thổ, biển, đảo, Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán với các nước liên quan, cố gắng kiểm soát bất đồng, thúc đẩy tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Việt Nam đã có những đóng góp tích cực và trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới; đồng thời, tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn (ASEM, APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN...) và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Ủy viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN... Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của Việt Nam đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Nhìn tổng thể, trong gần 40 năm qua, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung có ý nghĩa lịch sử của đất nước, để “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(28); đồng thời, ngày càng vững bước tiến tới mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045./.

 

VAI TRÒ NÊU GƯƠNG CỦA ĐỘI NGŨ SĨ QUAN TRONG PHÒNG, CHỐNG “TỰ CHUYỂN HÓA”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

 Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực tiễn cho thấy, dù sức mạnh tác động của mọi tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đến đội ngũ sĩ quan trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng không thay thế được nhân tố chủ quan của họ trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do đó, từng sĩ quan phải tự mình nêu cao ý thức, trách nhiệm, tích cực, chủ động, tự giác trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; biết phân tích và xử lý tình huống trong thực tiễn nảy sinh một cách đúng đắn, theo nhiều hình thức, phương pháp, biện pháp khác nhau và bước đi phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để hoàn thành tốt cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, đội ngũ sĩ quan phải tự chiến thắng mình trước sự cám dỗ về lợi ích vật chất cá nhân để vươn lên là những chủ thể tiêu biểu về nhân cách người cán bộ của Đảng trong quân đội. Phải tự vượt qua những cản trở về tâm lý, sự lôi kéo có tính tiêu cực; phải tự mình tìm thấy giá trị, ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc cá nhân trong hạnh phúc của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, trong sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, trong hạnh phúc của nhân dân, dân tộc và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Thấu triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Cho nên, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần phát huy ý thức, trách nhiệm, tích cực, chủ động, tự giác trong việc nêu gương sáng mẫu mực ở việc làm, hành động cụ thể, thiết thực với mục đích cuối cùng là đem lại hiệu quả cao trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ sĩ quan trong Quân đội. Vì vậy, trong cuộc sống và thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ huy phải thực sự là người tiêu biểu mẫu mực về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong công tác người cán bộ của Đảng trong Quân đội. Với tinh thần ấy, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy đơn vị nơi đội ngũ sĩ quan công tác, phải thực sự là người có: lập trường, tư tưởng kiên định vững vàng, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; khắc phục mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; luôn nhạy cảm về chính trị, có khả năng nhận diện đúng các quan điểm thù địch, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; giúp mọi quân nhân trong đơn vị biết định hướng đúng trong tư tưởng, hành động và khả năng “miễn dịch” với các quan điểm thù địch và cơ hội chính trị hiện nay.

Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị trong cuộc sống và thực tiễn công tác thực sự phải là người tiêu biểu nêu gương sáng về: lời nói phải đi đôi với việc làm, nói như thế nào thì làm như thế ấy, không được nói một đằng làm một nẻo, xa rời thực tiễn, giáo điều, sách vở, làm tổn hại tới nhiệm vụ của đơn vị, hoen ố nhân cách của mình; thực sự tiêu biểu nêu gương sáng về “cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”, về “nhân, lễ, trí, dũng, liêm, trung”, đề cao tinh thần và thực hiện chặt chẽ “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, luôn đặt lợi ích của Đảng, của tập thể đơn vị lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình; nêu gương về lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm, tinh thần tận tụy trong công việc, đoàn kết nhất trí trong tập thể lãnh đạo, chỉ huy, không cá nhân, bè phái; không thu vén cá nhân, lấy của công làm của tư, chăm lo lợi ích của quân nhân dưới quyền, không được kêu mình đói, mình rét, mình mệt khi bộ đội chưa ăn cơm, chưa đủ áo mặc, chưa đủ chỗ ở; không sống ích kỷ, theo kiểu “ăn đi trước, lội nước đi sau”; không tranh công đổ lỗi, thắng lợi không nhận hết công về mình, thất bại, vấp váp, dám nhận và chịu trách nhiệm, không đổ lỗi cho cấp dưới; giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, tập trung dân chủ, sâu sát với quần chúng, linh hoạt, sáng tạo mềm dẻo, kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc quan liêu, gia trưởng; không tham ô, hủ hóa, không mắc vào các tệ nạn xã hội mà phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện phản giá trị khác về nhân cách ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình.

 

NHẬN DIỆN BỆNH “THÀNH TÍCH” CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

 Thành tích là kết quả tốt đẹp do sự cố gắng, nỗ lực mà đạt được. Thành tích đi liền với biểu dương, khen thưởng sẽ là động lực cho sự phát triển. Đáng tiếc hiện nay, nhiều “thành tích” ảo vì bị một bộ phận cán bộ, đảng viên nhào nặn mà thành.

Có thể thấy, họ ham thích đến mức sính thành tích, trở thành một căn bệnh của xã hội-bệnh sính thành tích. Những người này làm việc gì cũng chỉ vì thành tích, sẵn sàng làm gian dối, thích được ca ngợi, thích được tung hô, vì vậy, họ cố tình “báo cáo khống”, có một báo mười, thậm chí hàng trăm, hàng nghìn để thổi phồng thành tích. Một số khác (thường là những cá nhân có chức, có quyền) lại sử dụng công quỹ và nhân danh tập thể để rùm beng, biến thành tích của đơn vị, địa phương thành thành tích cá nhân.

Nguy hại hơn, vì thành tích mà họ cố tình che giấu khuyết điểm bằng cách tự “nặn ra thành tích”, không được thì họ “chạy thành tích”, cậy cục, gõ cửa cấp trên, lo lót cho một số cán bộ có chức quyền để báo cáo gian dối, xuyên tạc kết quả, thậm chí sẵn sàng dùng những mánh khóe để đánh lừa cấp trên và dư luận... Vì thành tích mà họ thù ghét những ai vạch mặt, chỉ tên những hạn chế, khuyết điểm của mình. Họ nâng sự che giấu khuyết điểm lên tầm “nghệ thuật”, gọi là “nghệ thuật” che giấu khuyết điểm. Sính thành tích và che giấu khuyết điểm luôn gắn liền với nhau, là hệ lụy của nhau. Họ dùng thành tích để che giấu khuyết điểm, đánh bóng tên tuổi, tạo sự vững mạnh giả tạo, làm bình phong che chắn cho mình, để mở cánh cửa thăng tiến, củng cố vị trí, quyền lực.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí MInh đã chỉ rõ những biểu hiện của những kẻ sính thành tích, đó là: “... ham chuộng hình thức, làm việc không xét đến kết quả thiết thực, cần kíp, chỉ chăm về hình thức bên ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai; làm được ít suýt ra nhiều...; tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình; báo cáo dối, giấu cái dở, cái xấu, chỉ nêu cái tốt, cái hay...”. Thực tế thời gian qua, nhiều cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao bị kỷ luật, thậm chí ra hầu tòa, nhưng trước đó đều được xếp loại hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được biểu dương, khen thưởng...

Căn bệnh này đã được Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII chỉ ra là một trong những biểu hiện của tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống: Mắc bệnh thành tích, háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, đánh bóng tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”... Bệnh sính thành tích và che giấu khuyết điểm đã và đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, gây mất đoàn kết nội bộ, mất niềm tin dẫn đến hủy hoại uy tín, danh dự của cá nhân và sức mạnh của tổ chức, xa hơn, nó còn làm tổn hại đến Đảng, Nhà nước và chế độ.

Nhận diện căn bệnh này không quá khó, nhưng khá phức tạp vì nó thường được che giấu bởi vẻ bề ngoài hào nhoáng, bóng bẩy. Nếu không nhìn nhận thấu đáo, soi vào bản chất, logic của vấn đề thì khó đoán biết, phải qua kiểm tra, giám sát của tổ chức, cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân mới phát hiện được chính xác. Bệnh sính thành tích và "nghệ thuật” che giấu khuyết điểm xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan.

 

CHỦ NGHĨA CƠ HỘI VÀ CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI HIỆN NAY

 Chủ nghĩa cơ hội ra đời cùng với quá trình hình thành và phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong thời kỳ 1864 khi quốc tế I được thành lập đến 1914. Chủ nghĩa cơ hội từ một vài xu hướng, bè phái cơ hội như Frudong, Baculin đã phát triển thành một lực lượng chính trị đáng kể trong các Đảng chủ chốt của quốc tế II, dẫn tới sự phân liệt sâu sắc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cuối cùng dẫn tới sự phá sản của quốc tế II.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế vừa phải tập trung đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để thực hiện mục tiêu cuối cùng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, vừa phải tiến hành cuộc đấu tranh rất quyết liệt, phức tạp và lâu dài với một loại kẻ thù bên trong giấu mặt, trá hình giả danh chủ nghĩa Mác, chống lại chủ nghĩa Mác, phản bội lại phong trào cách mạng đó là chủ nghĩa cơ hội.

Vậy chủ nghĩa cơ hội là gì? Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm chính trị không theo một định hướng, một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn hoi, ngả nghiêng nhằm mưu lợi trước mắt. Trong phong trào cách mạng vô sản, chủ nghĩa cơ hội là chính trị thỏa hiệp, cải lương, hợp tác vô nguyên tắc, trái với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên thực tế chủ nghĩa cơ hội có hai khuynh hướng chủ yếu: Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh có tính chất cải lương thiên về thỏa hiệp muốn "cải biến" một cách hòa bình, chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội từ bỏ đấu tranh giành thắng lợi thực sự về tay giai cấp công nhân. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh tiêu biểu là Becstanh và Causky tồn tại trong các Đảng công nhân thời quốc tế II cho đến tận ngày nay. Từ nửa sau thế kỷ XX chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh xuất hiện như một thứ chủ nghĩa xét lại hữu khuynh. Chủ nghĩa cơ hội "tả" khuynh là sự pha trộn giữa cực đoan và phiêu lưu, giáo điều, manh động, chủ quan, sùng bái bạo lực, không đếm xỉa tới tình thế khách quan. Chủ nghĩa cơ hội “hữu” hay “tả” khuynh đều đẩy phong trào công nhân đi đến hy sinh vô ích và thất bại.

Bản chất chủ nghĩa cơ hội là trào lưu tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mác- Lênin, là tàn dư tư tưởng tư sản, tiểu tư sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Là sự hy sinh lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích trước mắt của một nhóm, một bộ phận, là sự đầu hàng trước những trào lưu tư tưởng tư sản và phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa cơ hội tồn tại dưới nhiều hình thức biểu hiện: Về lý luận đó là sự chiết trung, ngụy biện sẵn sàng thay đổi quan điểm tư tưởng cơ bản để trục lợi, về kinh tế thể hiện tư tưởng thực dụng sẵn sàng đánh đổi cả phong trào vì lợi ích trước mắt của một nhóm người, về hành động là phiêu lưu, lúc tả, lúc hữu, lúc nóng vội, lúc chủ quan sẵn sàng từ bỏ mục tiêu của phong trào sự nghiệp. Về thủ đoạn thì lươn lẹo lắt léo, luồn lách, sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với mọi trào lưu khi có lợi.

Chủ nghĩa cơ hội là kẻ thù bên trong, tồn tại với rất nhiều đặc điểm và rất nguy hiểm phá hoại Đảng, phá hoại phong trào từ bên trong. Muốn phòng chống chủ nghĩa cơ hội có hiệu quả để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, chúng ta cần nhận rõ nguồn gốc nảy sinh và sự phát triển, nhận diện chủ nghĩa cơ hội hiện nay ở nước ta và tiến hành đồng bộ các giải pháp để đấu tranh phòng chống chủ nghĩa cơ hội trong tình hình hiện nay.

Chủ nghĩa cơ hội là một hiện tượng xã hội lịch sử, nảy sinh trong cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cho nên chừng nào còn tồn tại cuộc đấu tranh này thì vẫn còn cơ sở cho chủ nghĩa cơ hội.

Chủ nghĩa cơ hội có nguồn gốc từ mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa hệ tư tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản gắn chặt với các điều kiện khách quan và chủ quan.

Nhận rõ bản chất, những biểu hiện chủ yếu, nguồn gốc và nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội đối với sự tồn vong của Đảng và sự thành bại của phong trào cách mạng, cho nên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc “tả” khuynh, hữu khuynh, giáo điều, xét lại không chỉ là yêu cầu tất yếu của phong trào cách mạng mà còn là quy luật, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ và xây dựng Đảng cộng sản trong sạch vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức.

Nhận thức sâu sắc nguyên nhân và nguy cơ của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực sự tăng cường có hiệu quả công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Thực chất cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống, "tự diễn biến" "tự chuyển hóa" là cuộc đấu tranh “sống mái”, lâu dài chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, cải lương, xét lại và chống chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực, thù địch.

Trong cuộc đấu tranh phòng chống kẻ thù tư tưởng bên trong, chúng ta phải nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện quyết liệt 4 nhóm giải pháp của Nghị quyết TW4 Khóa XII, cụ thể là 10 nội dung của giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình. 6 nội dung của giải pháp về cơ chế chính sách, 8 nội dung về giải pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; 5 nội dung về giải pháp phát huy vai trò của nhân dân và mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội./.

 

QUYẾT TÂM, QUYẾT LIỆT, QUYẾT LÀM, ĐẢM BẢO THỰC THI LUẬT HIỆU QUẢ

 Sáng 1/7, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã có cuộc tiếp xúc đông đảo cử tri thành phố Vị Thanh, huyện Vị Thủy cũng như cử tri trên địa bàn tỉnh Hậu Giang bằng hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Tại cuộc tiếp xúc, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã trả lời nhiều vấn đề mà cử tri quan tâm liên quan tới lĩnh vực công thương, an sinh xã hội, giáo dục… đồng thời thông tin để cử tri nắm được nhiều nội dung quan trọng trong 10 luật chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2024.

Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị Chính phủ, các bộ ngành liên quan ban hành đầy đủ các nghị định, thông tư hướng dẫn. Trên tinh thần đó, các cấp, ngành tỉnh Hậu Giang tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến với nhân dân, để đảm bảo thi hành luật được thông suốt, hiệu quả, không gây vướng mắc.

Ngoại giao cây tre Việt Nam: Chắc ở gốc, vững ở thân, uyển chuyển như lá cành

 

Cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt tháng 11/2023. Đây là cuốn sách đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ đề đối ngoại.

Cuốn sách gồm hơn 800 trang, chia làm 3 phần, được tuyển chọn từ 86 bài nói, bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn, thư, điện… của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác đối ngoại. Trải qua các giai đoạn, trên các cương vị: Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư, Tổng Bí thư - Chủ tịch nước, các bài viết, bài phát biểu của ông thể hiện quan điểm, chủ trương đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Nói về ngoại giao Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết: Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam.

Cây tre - Hiện thân của dân tộc Việt Nam

Trao đổi với phóng viên VOV, Đại sứ, PGS-TS Dương Văn Quảng, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao nhấn mạnh, đặc điểm nổi trội của cây tre là dẻo dai, giàu sức sống, dễ thích nghi với môi trường. Mỗi bụi tre đều toát lên hình ảnh phát triển, tre già măng mọc. Gốc tre vững chắc, cành uyển chuyển, mềm dẻo nhưng rất kiên cường trước bão tố, trước thời tiết khắc nghiệt. Hình ảnh cây tre chính là hiện thân của dân tộc Việt Nam.

PV: Đại sứ có thể phân tích rõ thêm vì sao chúng ta lấy hình ảnh cây tre để làm biểu tượng, bản sắc ngoại giao Việt Nam?

PGS-TS Dương Văn Quảng: Chúng ta dùng hình ảnh cây tre Việt Nam để làm biểu tượng, bản sắc ngoại giao Việt Nam là bởi cây tre có gốc vững, thân chắc và cành uyển chuyển. Theo tôi hiểu, gốc vững chính là thực lực của ta. Hồ Chủ tịch đã nói ngoại giao như cái chuông, chuông có to thì tiếng mới lớn. Nghĩa là lực của ta có lớn thì ngoại giao của chúng ta mới phát huy được sức mạnh. Cho nên là gốc vững cũng chính là lực mình phải vững.

Thứ hai là thân vững. Thân vững chính là lợi ích quốc gia dân tộc. Thứ ba là cành lá uyển chuyển. Đây là cách thức mà chúng ta ứng xử trong ngoại giao. Mà đã là ngoại giao người ta thường nói đó là nghệ thuật, là sự mềm dẻo. Nhưng mềm dẻo dựa trên nền tảng, dựa trên mục đích nhất định. Cho nên Bác Hồ đã tổng kết rằng, đấy là “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

PV: Ngoại giao cây tre Việt Nam với gốc vững, thân chắc, cành lá uyển chuyển, cùng đường lối ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà trong cuốn sách về đối ngoại Tổng Bí thư có nhấn mạnh và đúc kết là phải “Dùng đối ngoại để phòng ngừa, ngăn chặn chiến tranh hoặc để sớm kết thúc chiến tranh trong vị thế có lợi nhất”. Thưa Đại sứ, thực tế trong lịch sử, ngoại giao của chúng ta đã làm được điều này chưa?

PGS-TS Dương Văn Quảng: Trong quan hệ quốc tế, kể từ khi ngoại giao hiện đại ra đời, chức năng của ngoại giao là ngăn ngừa và kết thúc chiến tranh. Nên người ta hay nói ngoại giao đi đầu, đóng vai trò tiên phong.

Trở lại lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chúng tôi thấy có 4 giai đoạn nhất định. Giai đoạn thứ nhất là từ năm 1945 - 1946, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, đó là những năm tháng không thể nào quên như Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét. Vận mệnh đất nước lúc đó như ngàn cân treo sợi tóc, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi. Vì vậy, ngoại giao lúc đó có vai trò vô cùng quan trọng. Đấy là nhân nhượng có nguyên tắc. Còn theo Tổng Bí thư Lê Duẩn đúc kết, đó là một sự nhân nhượng có nguyên tắc tuyệt vời trong ngoại giao.

Giai đoạn thứ hai từ 1946 - 1954. Trong lúc quan hệ quốc tế rất phức tạp, thậm chí thế giới trên bờ vực của một cuộc chiến tranh, trong bối cảnh đó, Hội nghị Geneve đã diễn ra. Ở Hội nghị này, chúng ta ngoài việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, đã đưa ra được một giải pháp chính trị. Hội nghị Geneve do 4 nước lớn triệu tập. Chúng ta ở vào thế phải chấp nhận hội nghị này. Chúng ta đàm phán trong tư thế cả 4 nước lớn này đều sử dụng phương pháp ngoại giao của họ, đảm bảo lợi ích của họ. Vì thế, ngoại giao Việt Nam trong Hội nghị Geneve chính là biết kết thúc chiến tranh một cách thuận lợi nhất cho mình, trong bối cảnh các nước lớn chủ động triệu tập hội nghị và tham gia trực tiếp vào cuộc đàm phán.

Đến Hội nghị Paris (1973), chúng ta rút kinh nghiệm và chủ động tìm đúng thời điểm để tiến hành đàm phán với Mỹ. Các cuộc đàm phán ở Paris, mục tiêu chúng ta đưa ra không phải là đánh đuổi hẳn đế quốc Mỹ, mà đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải rút quân, còn quân đội của chúng ta vẫn ở tại chỗ. Cho nên ngoại giao ở Hội nghị này trở thành một mặt trận chiến lược, ngoại giao phối hợp với mặt trận chính trị, mặt trận quân sự để kết thúc chiến tranh, trong một thế có lợi nhất. Từ đây, một bàn đạp được tạo ra để 2 năm sau, chúng ta có Đại thắng mùa xuân năm 1975.

Ngoại giao cây tre: vững chắc, uyển chuyển

PV: Khi chúng ta triển khai đường lối đối ngoại, ngoại giao “cây tre” có thể được hiểu là phải luôn luôn ứng biến linh hoạt phù hợp với tình hình. Vậy trong sự ứng biến, linh hoạt đó, đâu được coi là mẫu số chung để chúng ta kiên quyết giữ vững, bất di bất dịch không được thay đổi?

PGS-TS Dương Văn Quảng: Bất di bất dịch không được thay đổi trong ngoại giao là nguyên tắc không ai có thể mơ hồ được nhưng xác định nó lại vô cùng khó. Vì ngoại giao là cái nhu, ngoại giao là nghệ thuật, lúc nào thì ngả bài, lúc nào thì làm căng và lúc nào thì phải dịu? Tất cả những cái đó là nghệ thuật. Cho nên, mỗi một con người, mỗi thời điểm sẽ có những cách đàm phán và cách xác định khác nhau.

Mẫu số chung thì nước nào cũng vậy. Ai đi làm ngoại giao cũng vậy, mẫu số chung ấy là lợi ích. Nhưng lợi ích của quốc gia thì từng thời điểm chúng ta lại phải có một  mẫu số chung phù hợp. Cho nên đúc kết lại, mẫu số chung chính là lợi ích quốc gia dân tộc nhưng phải xác định thế nào cho đúng là lợi ích quốc gia dân tộc. Và khi  đàm phán, người đi đàm phán cần vận dụng sao cho đúng.

PV: Lợi ích quốc gia - dân tộc đương nhiên chúng ta phải giữ cho được và phải cố gắng bảo đảm cao nhất. Nhưng trong ngoại giao, chúng ta không chỉ quan tâm đến lợi ích của chúng ta mà cần phải quan tâm đến lợi ích của đối tác, lợi ích chung của thế giới. Như vậy ngoại giao mới bền vững và hiệu quả, thưa ông?

PGS-TS Dương Văn Quảng: Nước nào cũng phải bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc mình. Tổ chức nào cũng bảo vệ lợi ích của người ta. Và lợi ích cũng thay đổi, như tôi nói là không bất di bất dịch ở từng thời kỳ.

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, chúng tôi thấy, lợi ích quốc gia dân tộc hiện nay có 3 bộ phận. Thứ nhất, là lợi ích của chính nước mình. Nước nào cũng có lợi ích quốc gia dân tộc của họ. Thứ hai là quốc gia dân tộc của các nước khác. Và khi xác định lợi ích quốc gia dân tộc như vậy, người ta cũng xác định nguyên tắc hành động là không vượt qua, không hy sinh. Nhưng thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay còn có một phần rất quan trọng, đó là lợi ích chung của nhân loại. Lúc nào cũng có.

Tuy nhiên hiện nay, lợi ích chung của nhân loại được đặt ra một cách cấp bách. Ví như vấn đề biến đổi khí hậu, duy trì hòa bình, vấn đề ngăn ngừa chiến tranh, dịch bệnh, vấn đề tội phạm xuyên quốc gia… Những vấn đề đó đòi hỏi tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải góp sức vào để giải quyết, đó là lợi ích chung của nhân loại.

Trong thời kỳ hiện nay, chúng ta phải hiểu được 3 lợi ích này, đồng thời phải xác định được đâu là lợi ích của ta, đâu là lợi ích của thế giới, đâu là lợi ích chung. Chúng ta ích kỷ, không muốn đóng góp vào thế giới này thì làm sao tồn tại được. Và cũng không nước nào cho phép nước khác xâm phạm lợi ích quốc gia của họ.

Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 192 trong tổng số hơn 200 quốc gia trên thế giới. Thông qua con đường ngoại giao, chúng ta đã xây dựng được lòng tin chiến lược, thu hẹp khoảng cách, hóa giải mâu thuẫn, giảm thiểu bất đồng trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc. Cũng thông qua con đường đối ngoại, chúng ta đã thiết lập được một vành đai bao quanh đất nước, bảo vệ Tổ quốc trước những sóng gió phức tạp của thời cuộc. Một phên giậu bảo vệ Tổ quốc được hình thành ngay từ bên ngoài lãnh thổ.

Ngoại giao phải đi tiên phong trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

PV: Để ngoại giao có thể làm được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và có thể ngăn ngừa được mọi nguy cơ chiến tranh, một trong những yếu tố rất quan trọng là chúng ta phải gắn kết được lợi ích của chúng ta với cộng đồng quốc tế. Vậy, chúng ta phải làm thế nào, thưa Đại sứ?

PGS-TS Dương Văn Quảng: Đầu tiên phải nghiên cứu quan hệ quốc tế để thấy được xu thế của thế giới. Ví dụ trong vấn đề chống biến đổi khí hậu, lợi ích quốc gia dân tộc của mình là ở đâu? Việt Nam thuộc nhóm nước dễ bị tổn thương nhất khi nước biển dâng lên, một mình chúng ta không làm được nên phải tham gia vào. Vì thế, vai trò của một nước, vị thế của một nước hay còn gọi là định vị quốc gia của mình trên bản đồ thế giới chính là sự đóng góp của mình vào lợi ích chung. Cho nên nếu quên điều này chúng ta sẽ lạc lõng, ích kỷ trong quan hệ quốc tế.

PV: Để có thể bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngoại giao cũng phải tiến hành chủ động từ sớm, từ trước, chứ không phải đợi đến khi xảy ra chiến tranh mới tiến hành các biện pháp ngoại giao phải không thưa ông?

PGS-TS Dương Văn Quảng: Tôi có thể nói rằng, lợi ích quốc gia dân tộc là tối thượng, chủ quyền lãnh thổ là tối thượng thiêng liêng. Trước đây, vua Lê Thánh Tông đã nói rằng, những ai để mất một tấc đất sẽ bị tru di tam tộc. Nói như thế để thấy rằng, chủ quyền và lãnh thổ là thiêng liêng như thế nào?

Hiện nay chúng ta hiểu rất rõ điều đó. Nhưng bảo vệ chủ quyền, bảo vệ lãnh thổ giai đoạn này khác với giai đoạn trước đây. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rất rõ, vai trò ngoại giao phải đi tiên phong trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Nghĩa là đừng để cho chiến tranh, mọi sự căng thẳng đến “ngõ” nhà mình mới bắt đầu hành động. Mà phải hành động từ sớm đi, chuẩn bị trước đi, để ngăn ngừa chiến tranh. Cho nên, lằn ranh đỏ đó, nước nào cũng xác định, không bao giờ để nguy cơ hoặc “đám mây” chiến tranh tiến gần. Vì vậy, vai trò của đối ngoại, vai trò tiên phong của đối ngoại càng rõ nét. Vai trò bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa càng rõ nét.

Điểm nữa là trong quan hệ quốc tế, chúng ta thấy luôn luôn có cọ xát, có tranh chấp nhưng phải giải quyết những vấn đề đó bằng biện pháp hòa bình. Đó là nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế.

PV: Có ý kiến, quan điểm nói rằng, theo trường phái ngoại giao cây tre, Việt Nam sẽ luôn đứng ở giữa, trung lập trong mọi vấn đề quốc tế, như vậy sẽ bị cô lập trong cộng đồng quốc tế. Chúng ta cần hiểu vấn đề này như thế nào cho đúng, thưa ông?

PGS-TS Dương Văn Quảng: Thứ nhất, bản chất của ngoại giao cây tre không phải là trung lập, mà là năng động. Năng động ấy là dựa trên lợi ích quốc gia dân tộc; Năng động dựa trên lẽ phải và năng động dựa trên luật pháp quốc tế. Cho nên làm thế nào để tạo dựng được, để nhận thức được vấn đề như vậy, mới là quan trọng.

Xu thế của thời đại bây giờ, người ta đang muốn mỗi một quốc gia phải đóng góp cho thế giới, cho nhân loại như thế nào? Trước đây trong quan hệ quốc tế, chúng ta là nước nghèo nên cần sự giúp đỡ. Nhưng bây giờ đã đến lúc chúng ta phải đi giúp đỡ người khác. Ở góc độ ngoại giao năng động phải hiểu như vậy mới đúng nghĩa của nó. Làm sao hài hòa lợi ích, làm sao đóng góp được cho thế giới thì không bao giờ chúng ta bị cô lập.

Cho nên kết luận ngoại giao thời kỳ đổi mới là một nền ngoại giao rất năng động, hiểu đúng mình, hiểu đúng thiên hạ và hiểu đúng cả thời cuộc và đúng cả xu thế.

XỬ LÝ NGHIÊM CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN SUY THOÁI

 Thực hiện chương trình tiếp xúc cử tri sau Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, ngày 2/7, đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương cùng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai đã có buổi tiếp xúc cử tri tại thị xã Sa Pa.

Tại buổi tiếp xúc, đồng chí Sùng A Lềnh, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai đã thông báo tới toàn thể cử tri kết quả Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tại kỳ họp.

Tại Kỳ họp thứ 7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai đã tham gia phát biểu trực tiếp với 24 lượt ý kiến thảo luận và chất vấn trên các diễn đàn Quốc hội, tập trung vào các nhóm vấn đề như: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030; chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035; tháo gỡ khó khăn cho công tác giáo dục, đào tạo và người lao động vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Đặc biệt, đại biểu Quốc hội đoàn Lào Cai đã phát biểu ý kiến, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương quan tâm, sớm đầu tư triển khai thực hiện Quy hoạch tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, việc kết nối tuyến đường sắt giữa ga Lào Cai (Việt Nam) và ga Hà Khẩu Bắc (Vân Nam, Trung Quốc) và đầu tư nâng cấp, mở rộng mặt đường đoạn Yên Bái - Lào Cai thuộc cao tốc Nội Bài - Lào Cai lên quy mô 4 làn xe.

Ngoài ra, các đại biểu tham gia ý kiến góp ý vào Dự thảo Nghị quyết về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An; tham gia ý kiến sửa đổi, bổ sung vào các dự án luật: Luật Di sản văn hóa (sửa đổi); Luật Công đoàn (sửa đổi); Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi); Luật Công chứng (sửa đổi); Luật phòng không nhân dân; Luật phòng cháy chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn; Luật địa chất và khoáng sản; Luật Phòng, chống mua bán người và Luật Tư pháp người chưa thành niên và các nội dung khác liên quan...

Các cử tri tại thị xã Sa Pa nhất trí cao với Báo cáo kết quả Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV; bày tỏ sự vui mừng, phấn khởi với thành công của Kỳ họp và tin tưởng vào sự lãnh đạo, điều hành của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Các cử tri đề xuất, kiến nghị liên quan đến cơ chế, chính sách như: Cần có chính sách đối với các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tỉ lệ hộ nghèo cao được giữ nguyên chế độ, chính sách từ 3-5 năm sau khi có quyết định xã đạt chuẩn nông thôn mới; tiếp tục quan tâm có cơ chế hỗ trợ bổ sung nguồn vốn từ ngân sách của tỉnh để hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu, các thiết chế cho thị xã và các phường, xã; xem xét có cơ chế, hướng dẫn cho điều chỉnh thửa đất các hộ gia đình sinh sống, sử dụng ổn định qua nhiều thế hệ ra khỏi diện tích đất rừng cấp cho vườn quốc gia Hoàng Liên quản lý, sử dụng, để người dân được cấp quyền sử dụng đất, ổn định đời sống lâu dài...

Phát biểu tại buổi tiếp xúc cử tri, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú đánh giá cao những ý kiến cử tri của thị xã Sa Pa gửi đến Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, đồng thời tiếp thu các ý kiến, kiến nghị của các cử tri và thông tin thêm đến cử tri về tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ đầu năm đến nay. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện kiên trì, liên tục, “không ngừng, không nghỉ” với quyết tâm chính trị cao, đạt nhiều kết quả quan trọng; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” với tinh thần “làm nghiêm từ trên xuống, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể đó là ai”. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần làm trong sạch bộ máy, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân thị xã Sa Pa tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, tập trung thực hiện tốt một số nội dung: Chú trọng quan tâm công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Các cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân phát huy tinh thần chủ động, quyết liệt, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả trong chỉ đạo điều hành, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã nhiệm kỳ 2020-2025, Nghị quyết số 18 của tỉnh về phát triển thị xã Sa Pa đến năm 2030, tầm nhìn năm 2050, Nghị quyết số 10 về thực hiện 3 chương trình, mục tiêu quốc gia, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn...

Thay mặt Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai, đồng chí Đặng Xuân Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã tiếp thu, giải đáp các ý kiến, kiến nghị của cử tri; đồng thời đề nghị Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội, các cấp có thẩm quyền tại kỳ họp tới./.

 

VỆ SINH YÊU NƯỚC

 Cách đây 66 năm, ngày 2-7-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Vệ sinh yêu nước” đăng trên Báo Nhân dân. Đây là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt đầu bước vào xây dựng CNXH.

Trong bài báo, Bác nhấn mạnh: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết… Mọi người từ già trẻ, trai gái đã là người yêu nước đều phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh, giữ gìn sức khỏe”.

Khái niệm “vệ sinh” được Bác Hồ đề cập trong bài báo “Vệ sinh yêu nước” là vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường. Đó là những vấn đề rất cụ thể như vệ sinh để phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh để mỗi người dân được sống và làm việc trong môi trường trong lành, sạch sẽ, văn minh hơn. Đó là việc thực hiện ăn sạch, ở sạch; là việc vận động người dân xây dựng các công trình vệ sinh như hố xí, nhà tắm, giếng nước; giữ gìn vệ sinh chuồng trại; là thực hiện các hành vi vệ sinh có lợi cho cá nhân, mang lại lợi ích cho cộng đồng và đất nước.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương triển khai sâu rộng công tác vệ sinh phòng bệnh vì sức khỏe qua nhiều phong trào, chương trình, mục tiêu quốc gia, bằng những việc làm cụ thể, phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tiêu biểu là tổ chức vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện các phong trào: “Sạch làng tốt ruộng, sạch bản tốt nương, sạch phố tốt đồng”, “3 sạch” (ăn sạch, ở sạch, uống sạch), “4 diệt” (diệt ruồi, diệt muỗi, diệt chuột, diệt côn trùng), “Xây dựng ba công trình vệ sinh” (hố xí, giếng nước, nhà tắm) ở các hộ gia đình… Gần đây, trong các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình “5 không, 3 sạch” (3 sạch: sạch nhà, gắn với vệ sinh thân thể; sạch bếp, gắn với vệ sinh an toàn thực phẩm; sạch ngõ, gắn với vệ sinh môi trường), xây dựng nông thôn mới đều có các tiêu chí về vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nhiều chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia về y tế dự phòng, nước sạch, vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng, chống dịch bệnh đã được đẩy mạnh thực hiện. Các phong trào và chương trình quốc gia này đã tác động tích cực tới việc nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh của người dân, khống chế và thanh toán được nhiều dịch bệnh, cải thiện môi trường sống, góp phần để nước ta được Liên hợp quốc đánh giá là quốc gia “điểm sáng” trong thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về y tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngày nay, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, toàn cầu hóa, sự gia tăng dân số và biến đổi khí hậu toàn cầu đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức mới trong lĩnh vực vệ sinh, môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân. Môi trường sống ở nhiều nơi, nhiều khu công nghiệp, khu dân cư, làng nghề, hệ thống sông ngòi, kênh rạch, thậm chí cả một vùng biển bị ô nhiễm trầm trọng bởi các hóa chất công nghiệp, chất bảo vệ thực vật, thuốc phòng trừ sâu bệnh, các chất thải trong sản xuất và sinh hoạt… Ô nhiễm đã tác động trực tiếp đến sức khỏe người dân, trong khi ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, bảo đảm vệ sinh môi trường của nhiều người, nhiều cơ quan, đơn vị còn rất hạn chế. Từ đó, nhiều dịch bệnh mới phát sinh, phát triển, một số dịch bệnh cũ lây theo đường tiêu hóa, hô hấp có xu hướng bùng phát trở lại; đồng thời, chúng ta đang phải đối mặt với những bệnh hết sức nguy hiểm không phải do truyền nhiễm mà do môi trường như tim mạch, ung thư… có chiều hướng ngày càng gia tăng.

Trước thực tế đó, xác định việc phát động và triển khai Phong trào “Vệ sinh yêu nước” một cách sâu rộng trong toàn xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề vệ sinh theo lời dạy của Bác trong giai đoạn hiện nay là hết sức quan trọng, ngày 19-6-2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 730/QĐ-TTg về việc lấy ngày 2-7 hằng năm là “Ngày Vệ sinh yêu nước”; tiếp đó Chính phủ ban hành Chỉ thị số 29/CT-TTg, ngày 26-11-2012 về việc triển khai Phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân”.

Năm nay, theo hướng dẫn của Bộ Y tế, “Ngày Vệ sinh yêu nước” sẽ được tổ chức trên phạm vi cả nước. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn một địa điểm điển hình để tổ chức mít tinh phát động, hưởng ứng với sự tham gia của các sở, ngành, đoàn thể, chính quyền các cấp, học sinh và các tầng lớp nhân dân nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức và hành vi, giải quyết tốt các vấn đề vệ sinh liên quan tới sức khỏe như vệ sinh để phòng chống dịch bệnh, an toàn thực phẩm.

Bên cạnh đó, thực hiện ăn sạch, uống sạch, ở sạch; thu gom, không vứt rác bừa bãi, giữ gìn vệ sinh, cảnh quan môi trường; xây dựng và sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, không phóng uế bừa bãi; xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh và di dời chuồng gia súc, gia cầm ra xa nhà; xây dựng cơ sở y tế Xanh - Sạch - Đẹp, bảo đảm vệ sinh trong trường học, cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ quan, khu dịch vụ, khu du lịch, nơi công cộng. Đồng thời, tổ chức thực hiện các chiến dịch vệ sinh môi trường, làm sạch các công trình vệ sinh tại nơi công cộng, khu du lịch, bệnh viện, cơ sở y tế, trường học, nơi làm việc...; tổ chức ra quân, huy động toàn dân làm tổng vệ sinh đường làng, ngõ xóm, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa gắn với phong trào “Toàn dân xây dựng nông thôn mới”./.

KIÊN QUYẾT QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

 Thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Để đủ sức lãnh đạo đất nước và xã hội, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (CNCN) nói riêng.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”. Đảng ta xác định đấu tranh chống CNCN vừa là một nội dung trọng tâm, vừa là một giải pháp rất quan trọng trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Trong mọi thời kỳ cách mạng, trước bất cứ nhiệm vụ gì, Đảng ta đều đặc biệt coi trọng và gắn chặt với cuộc đấu tranh chống CNCN. Nhằm giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng, trong đó có nội dung liên quan đến CNCN, từ năm 1939, Đảng ta đã tổ chức đợt sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng. Đặc biệt, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ cụ thể 15 căn bệnh nguy hiểm trong Đảng bắt nguồn từ CNCN. Đảng ta nhận thức rõ nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ đảng viên, làm tha hóa Đảng ta không gì khác là CNCN. Từ chỗ coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”, Đảng xác định phải kiên quyết tuyên chiến với loại “giặc nội xâm” này. Vụ án Đại tá Trần Dụ Châu, Giám đốc Nha Quân nhu, vì CNCN mà phạm tội tham nhũng phải lĩnh án tử hình là ví dụ điển hình chứng minh cho tinh thần kiên quyết đấu tranh với CNCN trong Đảng.

Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đều có các văn kiện chuyên đề về đấu tranh chống CNCN. Đặc biệt, từ Đại hội VI đến nay, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống CNCN của Đảng ta được thể hiện rất rõ nét. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm minh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”. Tại Điều 3 của Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, Đảng ta cũng nêu rõ đảng viên không được vướng vào “… CNCN, cơ hội, vụ lợi…”.

Nhờ thường xuyên coi trọng công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống CNCN nói riêng mà năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta ngày càng được nâng lên. Đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng và con đường XHCN; phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu thực sự làm nòng cốt đi đầu trong công cuộc đổi mới và lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan tỏa trong đời sống xã hội. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng ta vẫn vững vàng chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt lên đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra từ nhiệm kỳ khóa VII, trong đó có “nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội” vẫn hiện hữu, có mặt diễn biến gay gắt, phức tạp hơn. Đúng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII đã chỉ rõ điều bức xúc và đáng lo nhất hiện nay là tình trạng tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh sự “phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng”.

Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, nhưng Đảng ta nhận định nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trong đó có nguyên nhân vướng vào CNCN. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến những hành vi sai trái, tiêu cực. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên ngang tầm với đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh phải “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”.

Mặt khác, trước bối cảnh mới đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; nền kinh tế phát triển chưa bền vững, khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động ảnh hưởng rất lớn, cùng với những hạn chế, yếu kém còn tồn tại khiến nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Có thể khẳng định đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung, đấu tranh kiên quyết với CNCN nói riêng không phải là ý muốn chủ quan của ai, mà là yêu cầu tất yếu của tình hình nhiệm vụ cách mạng.

Để tiếp tục đấu tranh chống CNCN đạt hiệu quả cao, trước hết chúng ta cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường xây dựng XHCN. Đây là cơ sở, nền tảng để cán bộ, đảng viên xác định động cơ, mục đích rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu đúng đắn, vì lợi ích của tập thể, của quốc gia, dân tộc, trong đó có gia đình, cá nhân mình. Chỉ có trên cơ sở ý thức rõ điều đó, cán bộ, đảng viên mới nâng cao sức “đề kháng”, không mắc vào CNCN.

Trong tổ chức xây dựng và sinh hoạt đảng phải giữ vững các nguyên tắc, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ gắn chặt với đề cao trách nhiệm cá nhân trong Đảng. Đồng thời, thường xuyên đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình nhằm phòng ngừa từ xa CNCN cũng như mọi biểu hiện tham nhũng, tiêu cực. Mỗi đảng viên, từng tổ chức Đảng phải coi tự phê bình và phê bình như phương thuốc để phòng ngừa và chữa trị các căn bệnh mắc phải. Mặt khác, phải có cơ chế phát huy tai mắt của nhân dân trong xây dựng Đảng và tham gia đấu tranh chống CNCN. Trước hết là phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát cán bộ, đảng viên. Phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong tuyên truyền cổ vũ, tôn vinh những tổ chức đảng, đảng viên điển hình, tiên tiến và phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện của CNCN. Dùng thông tin chính thống đẩy lùi những thông tin sai trái, xấu, độc, đề cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong cung cấp thông tin, định hướng dư luận, đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn lợi cuộc đấu tranh chống CNCN, chống tham nhũng, tiêu cực để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

TÀI SẢN GIÁ TRỊ NHẤT CỦA ĐẠI TƯỚNG HOÀNG VĂN THÁI - TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG ĐẦU TIÊN CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM

Tướng Hoàng Văn Thái là một trong 34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, cũng là Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, khi đó ông mới 30 tuổi.

“Ông là vị tướng trận mạc, sống nhân hậu, tình nghĩa được Quân đội ta và nhân dân ta mến phục... Trong những năm tháng đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong Đảng, trong quân đội, anh Mười Khang vẫn giữ lối sống giản dị - cần - kiệm - liêm - chính, xa lạ với thói xa hoa hình thức, càng xa lạ với tệ tham nhũng, lãng phí...Anh siêng rèn luyện thân thể, lao động chân tay, đến cuối đời vẫn giữ nếp trồng rau, làm vườn như người dân ở Tiền Hải quê anh". Đó là đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về tướng Hoàng Văn Thái.

Là một vị tướng nhưng ông luôn dạy các con không được "Con nhà lính tính nhà quan....Uy tín của ba là để làm việc, con đừng nhờ ba xin xỏ cho con điều gì".

Bản thân đại tướng Hoàng Văn Thái, cho đến lúc mất, tài sản giá trị nhất của ông là cái máy radio cassette mà ông thường hay nghe.

Cuộc đời ông có rất nhiều cái được làm đầu tiên, Tổng tham mưu trưởng, Cục trưởng, Hiệu trưởng, Đại đoàn trưởng... nhưng cái Đại tướng rất tự hào được là người nhạc sĩ đầu tiên của quân đội. Ông chính là tác giả bài "Phất cờ Nam tiến", bài hát được sáng tác trước ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngày 22 tháng 12 năm 1944 một ngày.

CHÂN DUNG VỊ ĐẠI TƯỚNG VĨ ĐẠI

Tên thật là Hoàng Văn Xiêm, sinh năm 1915 trong một gia đình yêu nước ở xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, đồng chí Hoàng Văn Thái sớm giác ngộ, tham gia hoạt động cách mạng (1936) và trở thành một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam lúc 23 tuổi. Năm 1940 ông bị thực dân Pháp bắt giam. Từ năm 1941-1945, trải qua cương vị chỉ huy Đội cứu quốc quân Bắc Sơn, Trưởng đoàn học viên Việt Nam tại Trường quân sự Liễu Châu (Trung Quốc), phụ trách công tác tình báo, tác chiến trong Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Hiệu trưởng Trường Quân chính kháng Nhật…, đồng chí Hoàng Văn Thái luôn kiên định, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, có năng lực tổ chức, giàu trí sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 7-9-1945, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao thành lập Bộ Tổng Tham mưu và là Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của QĐND Việt Nam, khi đó ông mới 30 tuổi. Trên cương vị này, ông đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng cơ quan tham mưu chiến lược của quân đội, ngành tham mưu toàn quân phát triển và dần hoàn thiện giúp Bộ Quốc phòng chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng ngày một trưởng thành. Những ý kiến chỉ đạo của ông đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Hà Nội “60 ngày đêm khói lửa”.

Ngày 20-1-1948, tướng Hoàng Văn Thái nhận quân hàm Thiếu tướng trong đợt phong quân hàm cấp tướng đầu tiên. Ông làm Tham mưu trưởng và là Đảng ủy viên các chiến dịch lớn có ý nghĩa lịch sử đối với sự trưởng thành, chiến thắng của quân đội như Chiến dịch Biên giới (1950), Trung du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954), bên cạnh Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, tướng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng chiến dịch, trực tiếp chỉ huy công tác tham mưu - tác chiến tại mặt trận, góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Năm 1958, ông là Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao nhà nước. Năm 1959, ông được phong hàm Trung tướng.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, ông được giao nhiệm vụ vào truyền đạt Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng (khóa III) cho lãnh đạo, chỉ huy miền Nam (2-1966), sau đó được chỉ định làm quyền Bí thư Khu ủy 5, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 (7-1966).

Tướng Hoàng Văn Thái đã cùng các đồng chí khác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đánh bại cuộc Hành quân Toàn thắng (1-1971), các cuộc hành quân Chenla I, Chenla II, Nguyễn Huệ, chiến dịch tiến công tổng hợp 1972. Sau Hiệp định Paris (1-1973), ông làm Phó tổng Tham mưu trưởng thứ nhất, phụ trách công tác tác chiến và chi viện chiến trường cùng tướng Lê Trọng Tấn làm kế hoạch và chỉ đạo tổ trung tâm hoàn thành kế hoạch giải phóng miền Nam 1975-1976. Ông được phong hàm Thượng tướng năm 1974.

Tướng Hoàng Văn Thái cùng Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược, thực hiện các ý định, chủ trương của Bộ Chính trị, tạo thế và lực cho ta nắm thời cơ giành thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông là Phó chủ tịch Thứ nhất Hội đồng chi viện cho chiến trường, Phó tổng Tham mưu trưởng thứ nhất. Trên thực tế ông đã đảm nhiệm vai trò Tổng Tham mưu trưởng lần thứ ba, thay cho đồng chí Văn Tiến Dũng bí mật vào Nam để trực tiếp chỉ huy chiến trường.

Từ 1974-1986, đồng chí Hoàng Văn Thái làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó tổng Tham mưu trưởng (1974-1981), Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương.

Năm 1980, ông được phong quân hàm Đại tướng.

Đại tướng Hoàng Văn Thái được bầu vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III-V; đại biểu Quốc hội khóa VII, được Nhà nước tặng nhiều huân chương cao quý: Sao vàng (truy tặng năm 2007); Hồ Chí Minh; Quân công hạng Nhất, Nhì; Kháng chiến hạng Nhất; Chiến thắng hạng Nhất; Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.

Đại tướng Hoàng Văn Thái là vị tướng trận mạc. Với kiến thức và tài năng hiếm có, đồng chí đã trở thành nhà chỉ đạo, chỉ huy quân sự xuất sắc, nhà tham mưu lão luyện của quân đội. Đồng chí rất coi trọng nhân tố chính trị, yếu tố nhân dân, là người tổ chức, chỉ huy đầu tiên của Bộ Tổng Tham mưu - cơ quan chiến lược của QĐND Việt Nam, xứng đáng là “người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.