Huyền
sử cho rằng cuốn cổ thư mang tên “Dụng binh yếu chỉ” này xuất hiện
từ thời Lĩnh Nam, giúp các nữ tướng nước ta nhiều lần ngăn bước quân Hán,
bại 12 đại tướng, khiến 45 vạn quân tử trận, chấn động Trung Nguyên. Không chỉ
thế, theo chiều dài lịch sử, cuốn sách này được các anh hùng Đại Việt sử dụng
để làm nên những chiến công vang dội bảo vệ Giang Sơn Xã Tắc. Dẫu có nhiều phần
trong chuyện này có lẽ không phải là sự thực, nhưng trong lịch sử nước ta, xác
thực có những cuốn cổ thư, binh thư là báu vật hộ quốc. Truyền kỳ về cuốn cổ
thư “Dụng binh yếu chỉ” đáng để hậu nhân tham khảo vậy.
Sau khi Thánh Thiên mất, cuốn “Dụng binh yếu chỉ” vẫn được
lưu truyền không trọn vẹn, sau này trở thành bí kíp giúp những anh hùng bảo vệ
Giang Sơn. Không biết đã có bao nhiêu người đã dùng đến “Dụng binh yếu chỉ”,
nhưng một số nguồn dã sử có ghi nhận 2 trường hợp sau:
Chỉ dùng 2 thiên trong “Dụng binh yếu chỉ” khiến quân Ngô thất
điên bát đảo
Sau khi Lĩnh Nam mất vào tay nhà Hán, người Việt lại phải trải
qua thời gian dài bị đô hộ. Đến năm 246, một người phụ nữ là Triệu Thị Trinh đã
nổi lên chống lại ách đô hộ của nhà Ngô (thời Tam Quốc), quân sĩ đều tôn kính gọi
là Bà Triệu.
Bấy giờ khi Bà Triệu khởi binh thì chỉ dùng tới 2
thiên của “Dụng binh yếu chỉ” là “đoản binh” và “trận pháp” nhưng đã đánh nhiều
trận khiến quân Ngô điên đảo. Từ căn cứ núi Nưa, Bà Triệu cho quân tiến xuống
đánh khắp vùng đồng bằng, đánh đâu thắng đó khiến binh tướng nhà Ngô kinh
hoàng.
Cuối cùng nhà Ngô phải cử Lục Dận (cháu của danh tướng Lục Tốn)
sang Giao Châu. Lục Dận dùng vàng bạc của cải mua chuộc các thủ lĩnh địa phương
và tù trưởng. Họ vì lợi trước mắt mà nhận của cải rời đi, khiến nghĩa quân của
Bà Triệu không còn đủ số lượng để đương đầu với quân Ngô.
Bà Triệu không giữ được căn cứ, phải rút vào núi Tùng và
tuẫn tiết trên núi.
“Dụng binh yếu chỉ” góp phần đánh tan quân Mông Thát
Đến thời nhà Trần thì “Dụng binh yếu chỉ” vốn có 36 thiên
chỉ còn lại 5 thiên là Thủy chiến, Đoản binh, Hư thực, Dụng gián, Trận pháp.
Bấy giờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn học rất sâu rộng,
ông nghiên cứu tất cả binh thư của Đại Việt, Trung Nguyên, Chiêm thành, Mông Cổ,
trong đó có cả “Dụng binh yếu chỉ”, rồi soạn ra hai bộ sách:
- Bộ “Binh thư yếu lược” gồm 18 thiên.
- Bộ “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” gồm có 9 trận pháp. Biến
hóa chín lần chín là 81 thế trận.
Phần phụ lục “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” có ghi chép 5
thiên còn sót lại trong “Dụng binh yếu chỉ” của Thánh Thiên.
Bộ “Binh thư yếu lược” cùng “Vạn Kiếp tông bí truyền” được
dùng để truyền dạy cho các tướng lĩnh là Hoàng thân nhà Trần. Những binh pháp
trong đó đã được sử dụng để Đại Việt 3 lần đánh tan quân Mông Thát.
Tuy nhiên cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền” hiện cũng
đã thất truyền, chỉ còn được biết tới nhờ lời đề tựa cho sách
của Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng
chép đoạn Hưng Đạo Vương nhắn nhủ cho con cháu đời sau về cuốn sách
này:
Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật
này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ
truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi
là tiết lộ thiên cơ đó.
Phải chăng cũng chính vì việc trao truyền phải dựa
vào sự lĩnh ngộ nên những tinh hoa binh pháp mà Hưng Đạo Vương soạn ra
mới dần dần bị mai một mất? Đây cũng là một nguyên nhân đáng chú ý,
bên cạnh một nguyên nhân khác…
Vì sao có lớp bụi dày suốt 20 thế kỷ
Nói về “Dụng binh yếu chỉ”, chúng ta luôn phải lưu ý
rằng truyền kỳ về cuốn cổ thư này thuộc về huyền sử hoặc dã sử
mà không được chính sử ghi chép lại. Điều này thật ra cũng có nguyên
nhân riêng của nó.
Sau khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần thì lại không thể chống
nổi sự xâm lược của quân Minh. Năm 1407 sau khi đánh bại nhà Hồ, tướng nhà Minh
là Trương Phụ cho đốt nhiều nguồn sử liệu, các sách quý bị lấy hết chở về thành
Nam Kinh, trong đó bao gồm cả toàn bộ các nguồn sử liệu trước đây, kể cả các
tác phẩm của Hưng Đạo Vương.
Các sách sử của nước ta chép sau thời kỳ này không
còn có nhiều căn cứ nữa, phải dựa vào cả một số sách sử Trung
Quốc để ghi chép lại; vì thế mà những trận đánh vang dội của các nữ tướng
thời Lĩnh Nam cũng như “Dụng binh yếu chỉ” đều không được ghi chép lại.
Đơn cử như Đại Việt Sử ký toàn thư dựa vào cuốn sử nhà
Nguyên là “Kinh thế đại điển tư lục” mà cho rằng Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản bị
tử trận. Nhưng thực tế tất cả các gia phả họ Trần đều ghi chép rằng người tử trận
là Hoài Nhân Vương Trần Quốc Kiện, còn Hoài Văn Hầu sau này được phong thành
Hoài Văn Vương và sống thọ đến 92 tuổi. (Xem bài: Trần Quốc Toản không tử trận,
lập 13 chiến công, uy vũ chấn động Trung Nguyên)
Các nguồn sử liệu nước ta bị lấy về Nam Kinh. Sau đó,
trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, vào tháng 12 năm 1937, quân Nhật chiếm được
thành Nam Kinh, nhiều tài liệu và sách quý bị lấy đi về mang về Nhật Bản, trong
đó có cả các sách sử của người Việt. Điều này lại phủi thêm một lớp bụi mù
lên lịch sử nước nhà. Chỉ có một số rất ít nhà nghiên cứu có điều
kiện, cất công đi tìm hiểu từ Trung Quốc qua Nhật Bản, cộng thêm cơ
duyên trùng hợp mới may mắn tìm hiểu được một phần sự thật của câu
chuyện mang nhiều màu sắc huyền sử này.
Một nguyên nhân khác
Tại bài viết “Bói đầu năm” đăng trong Tập San Sử Địa số
5, tác giả Hồ Hữu Tường cho biết, ông vẫn còn sở hữu cuốn “Binh thư yếu lược” của
Hưng Đạo Vương, cuốn sách này vẫn còn được lưu truyền đến nay trong những người
sưu tầm sách cổ. Ông cũng cho biết thêm, một nguyên nhân khác khiến “Binh thư yếu
lược” thất truyền là bởi vì hậu nhân không thể hiểu được những điều được viết
trong sách. Đơn cử một trích đoạn tại thiên “Thiên tượng” (天象) như sau:
“Chiếm nguyền đán thiên sắc vân khí bí pháp. Nguyền đán
chánh nguyệt, sơ nhất nhật, tý thời, đăng lâu bí chiếm tứ phương. Hữu hoàng vân
khí, hòa cốc đại thục. Bạch vân khí, hữu binh khởi. Nhược độc xuất kỳ phương hạ,
tắc thị hữu phương binh khởi. Tứ phương vọng vô vân, nhi độc kiến xích bạch nhị
sắc tương liên, xích vi huyết, bạch vi kim, sở giáng phương hạ tắc khởi loạn.
Thanh sắc phong tai, Hắc sắc thủy tai. Chủ quốc cảnh bị”.
Dịch nghĩa:
“Phép bí mật để xem khí trời và sắc mây trong tiết Nguyên
đán. Tiết Nguyên đán, đúng tháng giêng, ngày mồng một, giờ tý, lên lầu mà bí mật
xem bốn phương. Nếu thấy khí mây màu vàng, thì năm ấy lúa trúng mùa lớn. Nếu thấy
khí mây có sắc trắng, thì năm ấy có binh dậy. Nếu một vầng mây hiện ra một
mình dưới một phương trời nào, thì ở phương ấy có binh dậy. Nếu trông
bốn phương không có mây, mà chỉ thấy hai sắc đỏ trắng liền nhau, thì sắc đỏ tượng
trưng cho máu, sắc trắng tượng trưng cho chất kim (gươm đao): hai sắc trắng đỏ
hạ xuống phương nào, thì phương ấy bắt đầu loạn. Sắc xanh là điềm có nạn gió
bão. Sắc đen là điềm có nạn mưa lụt. Nước nào có điềm ấy phải phòng bị”.
Tác giả Hồ Hữu Tường bình rằng: Trước chúng ta, gần bảy trăm
năm, có biết bao kẻ, thử giở Binh Thư Yếu Lược mà đọc mấy dòng đầu, vội vã xếp
sách lại và buột miệng nói:
“Ông già nầy (Hưng Đạo Vương) lẩm cẩm thật! Ngày Tết, mồng một
tháng giêng, trời tối đen như mực, chỉ có sao mà không có trăng, dầu có leo lên
lầu mà xem khí sắc của trời và mây, làm sao mà thấy mây sắc trắng, sắc vàng, sắc
xanh, sắc đỏ?”
Mấy ai lĩnh ngộ được huyền cơ mang màu sắc tu luyện ấy trong
sách của cổ nhân?
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Cây tre Việt Nam, Hiên ngang Cuba, Nguyễn Ái Quốc đến với Lê-nin, Điện Biên Phủ - một danh từ Việt Nam, ...
- Phong cách nghệ thuật: Giàu chất trữ tình, cảm hứng nổi bật là ca ngợi yêu nước của nhân dân.
- Giải thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, ...
2. Tác phẩm Cây tre Việt Nam
- Thể loại: Thể kí có tính chất tùy bút
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1955, là lời bình cho bộ phim tài liệu "Cây tre Việt Nam" do các nahf điện ảnh Ba Lan thực hiện sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi.
- Phương thức biểu đạt: Thuyết minh, nghị luận, miêu tả, biểu cảm.
- Tóm tắt: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam. Tre và những cây họ nhà Tre là thứ cây có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Tre có một vẻ đẹp giản dị và nhiều phẩm chất đáng quý. Tre gắn bó lâu đời với con người, đặc biệt là người nông dân trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất và trong chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Tre là bạn đồng hành của dân tộc ta trên con đường đi tới tương lai.
- Bố cục: Gồm 3 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến “chí khí như người”: Giới thiệu chung về cây tre Việt Nam.
+ Phần 2: Tiếp theo đến “Tiếng sáo diều tre cao vút mãi.”:Sự gắn bó của tre trong sản xuất, chiến đấu và đời sống con người Việt Nam.
+ Phần 3: Đoạn còn lại: Cây tre là tượng trưng cho tâm hồn và khí chất con người Việt Nam.
- Giá trị nội dung: Cây tre là người bạn thân thiết, lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam. Cây tre mang vẻ đẹp bình dị và nhiều phẩm chất quý báu, tựa như con người Việt Nam. Cây tre đã trở thành biểu tượng của đất nước, dân tộc Việt Nam.
- Giá trị nghệ thuật: Tác phẩm có nhiều chi tiết, hình ảnh chọn lọc. Sử dụng phép tu từ nhân hóa, so sánh, điệp ngữ,... Lời văn giàu cảm xúc, nhịp điệu.
3. Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam
Cây tre đã gắn bó với dân tộc Việt Nam từ bao đời nay. Tre có mặt trong cuộc sống con người mọi lúc. Cây tre là biểu tượng cho con người, dân tộc Việt Nam. Viết về vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của cây tre chúng ta có thể kể đến bài Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy và không thể không nhắc đến tác phẩm Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới. Tác phẩm được viết làm lời bình cho một bộ phim điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, tác phẩm đã cho thấy vẻ đẹp của con người, đất nước Việt Nam, đồng thời ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta.
Không sử dụng ngôn từ hoa mỹ, giọng văn trong "Cây tre Việt Nam" tự nhiên, mộc mạc và ngay thẳng như tre. Ngay từ những câu văn mở đầu tác giả đã khẳng định tre là người “bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam”. Câu văn ấy là lời khẳng định về mối quan hệ gắn bó lâu dài, bền chặt của tre với con người. Đặt tre trong muôn ngàn cây cối khác nhau, Théo Mới đã làm nổi bật lên vai trò, ý nghĩa của nó: “Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa” . Cũng bởi vậy mà tre có mặt ở khắp mọi nơi: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi,… đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn” . Câu văn nhịp nhàng kết hợp với biện pháp liệt kê đã cho thấy sự thân thuộc, gần gũi của tre với đời sống con người.
Tiếp ngay sau đó, Thép Mới khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất của tre: mọc thẳng, ở đâu tre cũng xanh tốt, dáng tre mộc mạc, màu tre nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc,… Và vẻ đẹp, khí chất của tre được tác giả so sánh: “Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”. Câu văn không đơn thuần là một phép so sánh, mà còn là một lời ngầm khẳng định cây tre chính là biểu tượng cho con người Việt Nam, những vẻ đẹp, khí chất của tre cũng chính là phẩm chất cao quý của dân tộc ta. Tất cả những điều ấy được diễn tả bằng lời văn nhịp nhàng, cân đối như lời hát.
Không chỉ mang những phẩm chất đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, tre còn gắn liền với đời sống dân tộc Việt. Tác giả bắt đầu sự gắn bó đó bằng việc trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: “Bóng tre trùm mát rượi” , đây là cầu nối, khơi gợi sự gắn bó khăng khít giữa người và tre. Tre bao bọc, che chở con người, dưới bóng tre xanh dân ta vỡ ruộng, khai hoang, làm ăn sinh sống. Điệp ngữ “bóng tre” “dưới bóng tre” được điệp đi điệp lại càng khẳng định hơn nữa sự gắn bó thủy chung của tre với con người. Tre cứ thế gắn bó trong lao động, trong đời sống văn hóa, tâm linh của dân tộc Việt. Với người dân Việt Nam, tre như người bạn muôn đời thủy chung và gần gũi. Tre ở mọi nơi, mạnh mẽ và kiên cường sống, đồng hành với con người từ thuở lọt lòng cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trở về nguồn cội. Ấy là chiếc nôi tre ru giấc ngủ nồng say ngày còn thơ ấu, là tiếng sáo diều vút cao mỗi chiều chăn trâu cắt cỏ, là điếu thuốc lào hàn huyên bên chén chè xanh,...
Không chỉ vỗ về con người Việt Nam trong những ngày tháng êm đềm, tre còn kề vai sát cánh với người trong những năm chiến tranh thảm khốc nhất. Tre bao bọc xóm láng, ôm lấy người, vừa là khiên chắn, vừa là vũ khí. Cảm hứng chính của đoạn văn được khơi dậy từ hình ảnh: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất”. Hình ảnh gọn ghẽ, mang tính hình tượng cao, tô đậm đặc điểm của tre đông thời ca ngợi ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù, cả tre và người không chịu khuất phục, tre giúp sức người: gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng hàng loạt biện pháp nhân hóa: tre là đồng chí, tre giữ làng, tre hi sinh,… vừa tôn vinh giá trị của tre vừa làm sống dậy những năm tháng chiến tranh ác liệt mà hào hùng của dân tộc.
Kết lại bài viết, là hình ảnh tre của hiện tại, khi cuộc sống con người đã trở nên hiện đại hơn, sắt thép xi măng đã dần thay thế cho tre. Nhưng không vì thế mà tre mất đi vị thế của mình. Tre vẫn xuất hiện trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi, được tác giả diễn đạt thật tinh tế qua hình ảnh “măng mọc” , tiếng sáo diều vi vút,… Lời kết vút lên như một lần nữa ca ngợi sự gắn bó thủy chung, son sắt của tre với con người. Dù đất nước có phát triển hơn nữa, cuộc sống con người hiện đại ra sao, tre Việt Nam, con người Việt Nam vẫn sẽ hiên ngang bất khuất, mãi không đổi thay giữa thăng trầm lịch sử.
Bài kí sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất thơ với nhịp điệu phong phú, biến hóa linh hoạt, phù hợp với nội dung bài viết. Hệ thống điệp từ, điệp ngữ, chia làm nhiều câu văn ngắn tạo nên không khí sục sôi, hào hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Giọng điệu dịu dàng kết hợp với các câu văn trữ tình hòa quyện với nhau tựa như một khúc hát ru tha thiết. Những thủ pháp nghệ thuật ấy làm nên một bài kí với âm điệu và dáng hình đẹp như một bài thơ, khắc họa trọn vẹn hình ảnh tre Việt Nam.
"Cây tre Việt Nam" là một trong những bài kí xuất sắc của tác giả Thép Mới với những chi tiết, hình ảnh được chọn lọc kĩ càng, giọng điệu tha thiết khẳng định sự gắn bó, thủy chung của cây tre với đời sống người dân Việt Nam. Dù hôm nay hay mãi mãi về sau, tre sẽ luôn là người bạn, người đồng hành bên dáng hình Việt Nam ngàn đời.
TCCS - Ngoại giao “cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu trong Hội nghị đối ngoại toàn quốc (14-12-2021). Khái niệm này là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc thấm nhuần triết lý và thực hành hiệu quả trường phái ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tham quan triển lãm ảnh về ngoại giao Việt Nam tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32_Nguồn: vietnamplus.vn
1-Ngày 14-12-2021, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến “trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc“cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”(1).
Ngày 19-12-2023, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh về trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo, nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo, nhưng rất bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái, nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Theo khắc họa khái quát của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” được hình thành trong thời kỳ đổi mới gần 40 năm qua. Trường phái này được Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại. Như vậy, đề cập đến trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” chính là đề cập đến đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cũng như các hoạt động đối ngoại, ngoại giao của cả hệ thống chính trị Việt Nam trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới.
2-Khi khắc họa khái quát về trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, đây là trường phái được “phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(2).
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trang bị cho chúng ta thế giới quan và phương pháp luận khoa học, biện chứng và cách mạng để có thể thấy rõ được những quy luật phát triển và xu thế vận động khách quan của xã hội loài người. Với thế giới quan và phương pháp luận đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận thế giới là một chỉnh thể phức tạp, luôn trong trạng thái không ngừng vận động, vừa tuân theo các quy luật và xu thế khách quan, vừa chịu sự tương tác phức tạp, chứa đựng cả hợp tác lẫn đấu tranh giữa các quốc gia - dân tộc, giữa các nền kinh tế và giữa các nền văn hóa... Quy luật phát triển của xã hội loài người là đi từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao, và hình thái kinh tế - xã hội cao nhất là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, nhân loại đang trong giai đoạn lịch sử quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc(3).
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển hệ thống quan điểm mang tính nền tảng, chỉ đạo việc hoạch định và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam. Trong kho tàng tư tưởng của Người mà Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng để hình thành và phát triển trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, đáng chú ý là tư tưởng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam là một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới; “dĩ bất biến ứng vạn biến”, kiên trì thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc trong mọi hoàn cảnh, kiên định về chiến lược, linh hoạt về sách lược; đoàn kết giai cấp, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(4);“Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(5);“giúp bạn là tự giúp mình”; ngoại giao là một “mặt trận”...
Có thể nói, thế giới quan khoa học, biện chứng, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp Đảng ta có cách nhìn rõ về cấu trúc chính trị, kinh tế - xã hội, về các quy luật và xu thế vận động khách quan của thế giới ngày nay, về vị trí của Việt Nam trong sự vận động của thế giới. Với cách nhìn đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoạch định đường lối, đề ra chủ trương, chính sách phát triển đất nước vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với các quy luật và xu thế vận động khách quan của thế giới và xã hội loài người, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Từ thực tiễn sinh động các hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết nên một hệ thống quan điểm chỉ đạo việc hoạch định và triển khai thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đặc biệt đáng chú ý là các quan điểm sau: 1- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại(6); 2- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi(7); 3- Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế(8); 4- Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ; 5-Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế(9); 6- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tếvới cách nhìn biện chứng về đối tượng, đối tác: “trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”(10); 7- Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế(11); 8- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”(12); 9- Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế(13); 10- Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước(14); 11- Thực hiện chính sách “bốn không”: không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; 12- Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân(15).
Nhân dân giới thiệu quà tặng du lịch thuyền buồm ba vách Quảng Yên cho du khách (ảnh: Dương Văn Toàn)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
3-Lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là xuất phát điểm, là cơ sở để hoạch định và triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại, là cái “gốc” của đối ngoại, ngoại giao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta”(16).
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (năm 1986) đến nay, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại(17)của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định xuyên suốt qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Với đường lối đối ngoại đó, Việt Nam luôn giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, có quan điểm, lập trường riêng đối với các vấn đề quốc tế... Giữ vững độc lập, tự chủ, nhưng không biệt lập, đóng cửa, tự cô lập, mà luôn mở rộng sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với các nước, các nền kinh tế, các tổ chức quốc tế và khu vực; luôn phấn đấu vì hòa bình, thúc đẩy tình hữu nghị, sự hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, việc Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo nên sự tin cậy trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, không ngừng nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam.
Ngay từ khi định hình đường lối đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với thực lực, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Sự uyển chuyển trong chính sách và các bước đi đối ngoại của Việt Nam không phải là sự ngả nghiêng, thực dụng, vô nguyên tắc, mà là sự sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược trên cơ sở kiên định về chiến lược nhằm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam trong mọi hoàn cảnh. Chỉ trên cơ sở giữ vững nguyên tắc và kiên định về chiến lược mới có thể sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược. Đồng thời, sự sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược giúp cho việc triển khai, thực hiện chiến lược đạt hiệu quả cao.
Thực tiễn đối ngoại, ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thể hiện rõ sự bám chắc vào lợi ích quốc gia - dân tộc, sự kiên định và nhất quán về đường lối, sự sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược và trong từng bước đi, đối sách cụ thể; tạo thành ba nét đặc sắc của trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát:“gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”.
4-Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Khi đó, Việt Nam đang trong hoàn cảnh đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, cả về kinh tế - xã hội lẫn quan hệ đối ngoại. Trong khi đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh đó, về mặt đối ngoại, có hai vấn đề lớn, hết sức cấp bách mà Việt Nam phải xử lý:Một là,phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để củng cố độc lập dân tộc, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và phát triển đất nước.Hai là,thích ứng với bối cảnh khách quan của thế giới đang biến đổi sâu sắc với những đảo lộn trong cục diện thế giới... Từ việc xử lý những vấn đề này, quá trình hình thành đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã được thúc đẩy.
Ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW,“Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”,trong đó nhận định: tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và cô lập về chính trị sẽ trở thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Từ đó, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ phải ra sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, “thêm bạn, bớt thù”, làm thất bại âm mưu cô lập Việt Nam về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; ra sức tranh thủ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế. Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI thể hiện sự đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời cuộc và thế giới; mở đầu cho việc hoạch định đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tiếp đó, các Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 8-1989) và Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 3-1990) khóa VI đã tập trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; đề ra quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn biến của tình hình thế giới đối với đất nước, đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
ĐếnĐại hội VII của Đảng (tháng 12-1991), Việt Nam khẳng định “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”(18). Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định một trong sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”; xác định mục tiêu của đối ngoại Việt Nam là “tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(19).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (tháng 6-1992) đã ra nghị quyết về công tác đối ngoại, xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế. Đây là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Đường lối đối ngoại đổi mới đã được Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) chính thức khẳng định với tuyên bố“Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(20).
Từ Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Cùng với sự nhất quán đó, qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam liên tục được hoàn thiện và phát triển. Đáng chú ý là những nội dung lớn sau:
Về thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc:Từ chỗ yêu cầu các hoạt động đối ngoại phải “đáp ứng lợi ích của nhân dân ta” (Đại hội VII) đã phát triển thành yêu cầu “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” (Đại hội XI), rồi “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” (Đại hội XIII).
Về quan hệ song phương với các nước:Từ chủ trương “bình thường hóa, thiết lập quan hệ với các nước” (Đại hội VII) đã phát triển thành chủ trương “đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững” (Đại hội XI), rồi thành chủ trương “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy” (Đại hội XIII).
Về quan hệ đa phương:Từ chủ trương “hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng” (Đại hội VII) đã phát triển thành chủ trương “tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc” (Đại hội XI), rồi “nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn, như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác” (Đại hội XII). Đến Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021), nội dung về quan hệ đa phương trong đường lối đối ngoại của Đảng đã được phát triển thành “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể”(21). “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”(22).
Về hội nhập quốc tế:Từ chủ trương “tham gia và tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế” (Nghị quyết số 13-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa VI), đã phát triển thành “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” (Đại hội IX); rồi “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” (Đại hội X); “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (Đại hội XI) và hiện nay là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” (Đại hội XIII).
Về định vị Việt Nam trong thế giới ngày nay và xác định tâm thế đối ngoại của ViệtNam: Từ thời điểm ban đầu hết sức khiêm tốn khi tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” (Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII) đã phát triển thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội IX), rồi “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (Đại hội X), “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội XI) và Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(23).
Về quan hệ Đảng:Từ chỗ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ xác lập các mối quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới (Đại hội VI), đã mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả (Đại hội VII) và từ Đại hội VIII mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác, nghĩa là với tất cả chính đảng. Từ Đại hội XI, bên cạnh quan hệ song phương với các chính đảng ở các nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương mở rộng tham gia và thúc đẩy mạnh hơn quan hệ đa phương chính đảng.
Về lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý:Từ quan điểm “Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại” (Đại hội IX) đã phát triển thành “Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế” (Đại hội XIII).
Về tổ chức lực lượng:Từ yêu cầu “phối hợp chặt chẽ” hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, đối ngoại quốc phòng và an ninh, thông tin đối ngoại và thông tin trong nước” (Đại hội VIII) đã phát triển thành “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân” (Đại hội XIII).
Có thể thấy, quá trình hoàn thiện, phát triển đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam và trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” vẫn đang tiếp diễn.
5-Trong gần 40 năm qua, nhất quán triển khai thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã phá được thế bị bao vây, cấm vận; tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới; có quan hệ đặc biệt với ba nước(24), quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với bảy nước(25), quan hệ đối tác chiến lược với 11 nước(26), quan hệ đối tác toàn diện với 12 nước(27); có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; hình thành thế đan xen lợi ích nhiều tầng nấc với nhiều nước. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Các tổ chức hữu nghị nhân dân Việt Nam có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài.
Vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để bảo vệ chủ quyền, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đồng thời góp phần vào việc củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Đối với những vấn đề phức tạp về biên giới lãnh thổ, biển, đảo, Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán với các nước liên quan, cố gắng kiểm soát bất đồng, thúc đẩy tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Việt Nam đã có những đóng góp tích cực và trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới; đồng thời, tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn (ASEM, APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN...) và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Ủy viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN... Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của Việt Nam đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Nhìn tổng thể, trong gần 40 năm qua, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung có ý nghĩa lịch sử của đất nước, để “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng:Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(28); đồng thời, ngày càng vững bước tiến tới mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045./.