Huyền
sử cho rằng cuốn cổ thư mang tên “Dụng binh yếu chỉ” này xuất hiện
từ thời Lĩnh Nam, giúp các nữ tướng nước ta nhiều lần ngăn bước quân Hán,
bại 12 đại tướng, khiến 45 vạn quân tử trận, chấn động Trung Nguyên. Không chỉ
thế, theo chiều dài lịch sử, cuốn sách này được các anh hùng Đại Việt sử dụng
để làm nên những chiến công vang dội bảo vệ Giang Sơn Xã Tắc. Dẫu có nhiều phần
trong chuyện này có lẽ không phải là sự thực, nhưng trong lịch sử nước ta, xác
thực có những cuốn cổ thư, binh thư là báu vật hộ quốc. Truyền kỳ về cuốn cổ
thư “Dụng binh yếu chỉ” đáng để hậu nhân tham khảo vậy.
Sau khi Thánh Thiên mất, cuốn “Dụng binh yếu chỉ” vẫn được
lưu truyền không trọn vẹn, sau này trở thành bí kíp giúp những anh hùng bảo vệ
Giang Sơn. Không biết đã có bao nhiêu người đã dùng đến “Dụng binh yếu chỉ”,
nhưng một số nguồn dã sử có ghi nhận 2 trường hợp sau:
Chỉ dùng 2 thiên trong “Dụng binh yếu chỉ” khiến quân Ngô thất
điên bát đảo
Sau khi Lĩnh Nam mất vào tay nhà Hán, người Việt lại phải trải
qua thời gian dài bị đô hộ. Đến năm 246, một người phụ nữ là Triệu Thị Trinh đã
nổi lên chống lại ách đô hộ của nhà Ngô (thời Tam Quốc), quân sĩ đều tôn kính gọi
là Bà Triệu.
Bấy giờ khi Bà Triệu khởi binh thì chỉ dùng tới 2
thiên của “Dụng binh yếu chỉ” là “đoản binh” và “trận pháp” nhưng đã đánh nhiều
trận khiến quân Ngô điên đảo. Từ căn cứ núi Nưa, Bà Triệu cho quân tiến xuống
đánh khắp vùng đồng bằng, đánh đâu thắng đó khiến binh tướng nhà Ngô kinh
hoàng.
Cuối cùng nhà Ngô phải cử Lục Dận (cháu của danh tướng Lục Tốn)
sang Giao Châu. Lục Dận dùng vàng bạc của cải mua chuộc các thủ lĩnh địa phương
và tù trưởng. Họ vì lợi trước mắt mà nhận của cải rời đi, khiến nghĩa quân của
Bà Triệu không còn đủ số lượng để đương đầu với quân Ngô.
Bà Triệu không giữ được căn cứ, phải rút vào núi Tùng và
tuẫn tiết trên núi.
“Dụng binh yếu chỉ” góp phần đánh tan quân Mông Thát
Đến thời nhà Trần thì “Dụng binh yếu chỉ” vốn có 36 thiên
chỉ còn lại 5 thiên là Thủy chiến, Đoản binh, Hư thực, Dụng gián, Trận pháp.
Bấy giờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn học rất sâu rộng,
ông nghiên cứu tất cả binh thư của Đại Việt, Trung Nguyên, Chiêm thành, Mông Cổ,
trong đó có cả “Dụng binh yếu chỉ”, rồi soạn ra hai bộ sách:
- Bộ “Binh thư yếu lược” gồm 18 thiên.
- Bộ “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” gồm có 9 trận pháp. Biến
hóa chín lần chín là 81 thế trận.
Phần phụ lục “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” có ghi chép 5
thiên còn sót lại trong “Dụng binh yếu chỉ” của Thánh Thiên.
Tuy nhiên cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền” hiện cũng
đã thất truyền, chỉ còn được biết tới nhờ lời đề tựa cho sách
của Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng
chép đoạn Hưng Đạo Vương nhắn nhủ cho con cháu đời sau về cuốn sách
này:
Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật
này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ
truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi
là tiết lộ thiên cơ đó.
Phải chăng cũng chính vì việc trao truyền phải dựa
vào sự lĩnh ngộ nên những tinh hoa binh pháp mà Hưng Đạo Vương soạn ra
mới dần dần bị mai một mất? Đây cũng là một nguyên nhân đáng chú ý,
bên cạnh một nguyên nhân khác…
Vì sao có lớp bụi dày suốt 20 thế kỷ
Nói về “Dụng binh yếu chỉ”, chúng ta luôn phải lưu ý
rằng truyền kỳ về cuốn cổ thư này thuộc về huyền sử hoặc dã sử
mà không được chính sử ghi chép lại. Điều này thật ra cũng có nguyên
nhân riêng của nó.
Sau khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần thì lại không thể chống
nổi sự xâm lược của quân Minh. Năm 1407 sau khi đánh bại nhà Hồ, tướng nhà Minh
là Trương Phụ cho đốt nhiều nguồn sử liệu, các sách quý bị lấy hết chở về thành
Nam Kinh, trong đó bao gồm cả toàn bộ các nguồn sử liệu trước đây, kể cả các
tác phẩm của Hưng Đạo Vương.
Các sách sử của nước ta chép sau thời kỳ này không
còn có nhiều căn cứ nữa, phải dựa vào cả một số sách sử Trung
Quốc để ghi chép lại; vì thế mà những trận đánh vang dội của các nữ tướng
thời Lĩnh Nam cũng như “Dụng binh yếu chỉ” đều không được ghi chép lại.
Đơn cử như Đại Việt Sử ký toàn thư dựa vào cuốn sử nhà
Nguyên là “Kinh thế đại điển tư lục” mà cho rằng Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản bị
tử trận. Nhưng thực tế tất cả các gia phả họ Trần đều ghi chép rằng người tử trận
là Hoài Nhân Vương Trần Quốc Kiện, còn Hoài Văn Hầu sau này được phong thành
Hoài Văn Vương và sống thọ đến 92 tuổi. (Xem bài: Trần Quốc Toản không tử trận,
lập 13 chiến công, uy vũ chấn động Trung Nguyên)
Các nguồn sử liệu nước ta bị lấy về Nam Kinh. Sau đó,
trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, vào tháng 12 năm 1937, quân Nhật chiếm được
thành Nam Kinh, nhiều tài liệu và sách quý bị lấy đi về mang về Nhật Bản, trong
đó có cả các sách sử của người Việt. Điều này lại phủi thêm một lớp bụi mù
lên lịch sử nước nhà. Chỉ có một số rất ít nhà nghiên cứu có điều
kiện, cất công đi tìm hiểu từ Trung Quốc qua Nhật Bản, cộng thêm cơ
duyên trùng hợp mới may mắn tìm hiểu được một phần sự thật của câu
chuyện mang nhiều màu sắc huyền sử này.
Một nguyên nhân khác
Tại bài viết “Bói đầu năm” đăng trong Tập San Sử Địa số
5, tác giả Hồ Hữu Tường cho biết, ông vẫn còn sở hữu cuốn “Binh thư yếu lược” của
Hưng Đạo Vương, cuốn sách này vẫn còn được lưu truyền đến nay trong những người
sưu tầm sách cổ. Ông cũng cho biết thêm, một nguyên nhân khác khiến “Binh thư yếu
lược” thất truyền là bởi vì hậu nhân không thể hiểu được những điều được viết
trong sách. Đơn cử một trích đoạn tại thiên “Thiên tượng” (天象) như sau:
“Chiếm nguyền đán thiên sắc vân khí bí pháp. Nguyền đán
chánh nguyệt, sơ nhất nhật, tý thời, đăng lâu bí chiếm tứ phương. Hữu hoàng vân
khí, hòa cốc đại thục. Bạch vân khí, hữu binh khởi. Nhược độc xuất kỳ phương hạ,
tắc thị hữu phương binh khởi. Tứ phương vọng vô vân, nhi độc kiến xích bạch nhị
sắc tương liên, xích vi huyết, bạch vi kim, sở giáng phương hạ tắc khởi loạn.
Thanh sắc phong tai, Hắc sắc thủy tai. Chủ quốc cảnh bị”.
Dịch nghĩa:
“Phép bí mật để xem khí trời và sắc mây trong tiết Nguyên
đán. Tiết Nguyên đán, đúng tháng giêng, ngày mồng một, giờ tý, lên lầu mà bí mật
xem bốn phương. Nếu thấy khí mây màu vàng, thì năm ấy lúa trúng mùa lớn. Nếu thấy
khí mây có sắc trắng, thì năm ấy có binh dậy. Nếu một vầng mây hiện ra một
mình dưới một phương trời nào, thì ở phương ấy có binh dậy. Nếu trông
bốn phương không có mây, mà chỉ thấy hai sắc đỏ trắng liền nhau, thì sắc đỏ tượng
trưng cho máu, sắc trắng tượng trưng cho chất kim (gươm đao): hai sắc trắng đỏ
hạ xuống phương nào, thì phương ấy bắt đầu loạn. Sắc xanh là điềm có nạn gió
bão. Sắc đen là điềm có nạn mưa lụt. Nước nào có điềm ấy phải phòng bị”.
Tác giả Hồ Hữu Tường bình rằng: Trước chúng ta, gần bảy trăm
năm, có biết bao kẻ, thử giở Binh Thư Yếu Lược mà đọc mấy dòng đầu, vội vã xếp
sách lại và buột miệng nói:
“Ông già nầy (Hưng Đạo Vương) lẩm cẩm thật! Ngày Tết, mồng một
tháng giêng, trời tối đen như mực, chỉ có sao mà không có trăng, dầu có leo lên
lầu mà xem khí sắc của trời và mây, làm sao mà thấy mây sắc trắng, sắc vàng, sắc
xanh, sắc đỏ?”
Mấy ai lĩnh ngộ được huyền cơ mang màu sắc tu luyện ấy trong
sách của cổ nhân?
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét