Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024
MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH TIẾP NGOẠI TRƯỞNG HOA KỲ SANG CHIA BUỒN TRƯỚC SỰ RA ĐI CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHỦ TỊCH NƯỚC TÔ LÂM TIẾP NGOẠI TRƯỞNG HOA KỲ ANTONY BLINKEN SANG VIỆT NAM CHIA BUỒN TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG QUA ĐỜI!
Ngời sáng lý tưởng cách mạng
Cuối năm 2012, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tuấn được thăng quân hàm trung tướng. Hơn một năm dồn tâm huyết với công tác tuyên huấn, đến tháng 4-2014, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn được Bộ Quốc phòng mời lên gặp mặt để nghe thông báo quyết định nghỉ chờ hưu. Tại buổi gặp mặt, ông bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là Quân đội và nhân dân đã tạo điều kiện cho ông chiến đấu và công tác trong suốt cuộc đời quân ngũ.
Theo Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, nếu không có Đảng, nhân dân, Quân đội thì ông sẽ không có được ngày hôm nay. Đồng thời, ông cũng trình bày tâm huyết của mình trước khi về hưu, trong đó đặc biệt lưu ý về âm mưu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhất là những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, về "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Ông mong muốn các đồng chí lãnh đạo Đảng quan tâm sâu sắc đến vấn đề này. Ông nói: “Xét cho cùng “diễn biến hòa bình” chỉ có tác dụng khi nó chuyển hóa thành "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta, đúng như Lênin đã cảnh báo: “Không ai có thể làm sự nghiệp của họ sụp đổ nếu không phải chính họ, những người cộng sản tự làm sụp đổ sự nghiệp của mình”. Theo ông, bài học của Liên Xô (trước đây) và các nước Đông Âu là minh chứng rõ nét nhất.
Vốn cùng quê Đại Lộc (Quảng Nam) lại là bạn chiến đấu cùng thời nên Thượng tướng, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Anh hùng LLVT nhân dân Võ Tiến Trung, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng có rất nhiều kỷ niệm với Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn. Nói về người bạn thân thiết của mình, Thượng tướng Võ Tiến Trung tâm sự: “Tôi và anh Nguyễn Thanh Tuấn biết nhau từ năm 1967. Là đôi bạn cùng chiến đấu trên chiến trường Quảng Nam, nên chúng tôi thường trao đổi, bàn bạc công việc trong chiến đấu và kể cho nhau về những trận đánh tiêu biểu. Sau này tôi về giữ chức Phó tư lệnh thì anh Tuấn là Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 5. Giữa tôi và anh Tuấn luôn có quan điểm chung về lập trường chính trị, về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, về công tác cán bộ, về đánh giá tình hình... Có thể nói, anh Nguyễn Thanh Tuấn là con người thông minh, trí tuệ. Anh luôn giữ lửa cách mạng và rất nhạy bén với tình hình, nhạy bén với công việc. Anh là người dũng cảm trong chiến đấu; gương mẫu, tài năng trong thời bình. Với bạn bè, đồng chí, đồng đội, anh là người thủy chung, trọn tình, trọn nghĩa. Và điều đặc biệt nhất ở anh là tính chiến đấu, kiên quyết bảo vệ chế độ, bảo vệ cách mạng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đến cùng!”.
Đột phá, sáng tạo trong công tác tuyên huấn
Bằng chính sự trải nghiệm trong chiến tranh và những thử thách giữa thời bình nên Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn luôn là người cán bộ có bản lĩnh, nhạy bén và tài năng. Phẩm chất và năng lực của ông được thể hiện rõ nét qua lối sống sinh hoạt hằng ngày cũng như quá trình công tác. Trong công tác tư tưởng văn hóa, nhiều đề xuất của ông có tính đột phá, sáng tạo...
Những giải pháp có tính đột phá, hiệu quả
Phần lớn cuộc đời quân ngũ, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn gắn bó với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn miền Trung-Tây Nguyên. Mãi đến cuối năm 2009, ông được Bộ Quốc phòng điều động ra Tổng cục Chính trị (TCCT) Quân đội nhân dân Việt Nam nhận nhiệm vụ Cục trưởng Cục Tuyên huấn.
Trong những năm tháng chiến đấu trên chiến trường và khoảng thời gian đối mặt với nhiều thử thách, khó khăn trong thời bình, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý giá. Chính ông đã đề xuất nhiều giải pháp hiệu quả về hoạt động công tác tuyên huấn trong Quân đội. Ngay sau khi nhận chức Cục trưởng Cục Tuyên huấn, ông đã được thủ trưởng TCCT giao trọng trách khẩn trương xây dựng Đề án “Thành lập Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội”. Sau khi nhận nhiệm vụ, Cục trưởng Nguyễn Thanh Tuấn tổ chức họp các thủ trưởng Cục Tuyên huấn, triển khai thành lập Ban biên soạn đề án do Phó cục trưởng Nguyễn Ngọc Tương phụ trách. Quá trình xây dựng đề án, Cục trưởng Nguyễn Thanh Tuấn luôn động viên, nhắc nhở Ban biên soạn nghiên cứu kỹ tài liệu về cách thức, phương pháp tổ chức của các nước: Nga, Belarus, Thái Lan... để vận dụng sao cho phù hợp với thực tiễn của Quân đội ta. Sau hơn một năm nỗ lực làm việc của Ban biên soạn, đề án đã được Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương thông qua. Đến ngày 19-5-2011, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định thành lập Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội.
Cũng trong thời điểm này, đồng chí Nguyễn Thanh Tuấn được Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và môi trường (nay là Cục Khoa học quân sự, Bộ Quốc phòng) đề xuất đăng ký đề tài khoa học. Cục trưởng Nguyễn Thanh Tuấn triển khai thành lập Ban nghiên cứu đề tài gồm 7 thành viên do ông làm chủ nhiệm, với nội dung: “Công tác quản lý bộ đội ở đơn vị cơ sở”. Sau hơn một năm nghiên cứu, phân tích kết quả sau điều tra xã hội học, khảo sát thực tế tại một số đơn vị đủ quân, đề tài được các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội đánh giá xuất sắc, được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen.
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn kể: “Giữa năm 2010, theo quy định, các cơ quan triển khai lập dự toán ngân sách ngành báo cáo TCCT và Bộ Quốc phòng. Lần đầu tiên chỉ đạo việc này nên tôi nghiên cứu rất kỹ các quy định của ngành tài chính và nhận thấy có một số vấn đề chưa hợp lý như ngân sách dành cho công tác giáo dục chính trị (GDCT) tại đơn vị tính bình quân đầu người chưa đến 15.000 đồng/chiến sĩ/năm. Số tiền đó chỉ bảo đảm mua được 4 tập giấy với hai cây bút bi. Như vậy sẽ không có tiền phục vụ giáo viên biên soạn giáo án, không có các loại văn phòng phẩm. Với thực tế như vậy khó có thể tính đến chuyện biên soạn giáo án điện tử, giảng bài bằng phương pháp trình chiếu PowerPoint. Trước tình hình đó, tôi xin được gặp Bộ trưởng Phùng Quang Thanh để báo cáo một số vấn đề, trong đó có các nội dung đề nghị: Tăng ngân sách cho công tác GDCT tại đơn vị, kết nối mạng internet toàn quân và thành lập lực lượng chuyên trách đấu tranh chính trị trên không gian mạng. Được Bộ trưởng nhất trí, tại buổi làm việc, tôi đã mạnh dạn trình bày những kiến nghị của mình. Sau khi nghe xong phần tôi trình bày, Bộ trưởng trả lời: “Vấn đề này muốn thay đổi thì Cục Tuyên huấn phải làm đề án thông qua Thường vụ Quân ủy Trung ương mới có thể nâng ngân sách lên được!”. Sau buổi gặp đó, tôi về báo cáo với thủ trưởng TCCT và triển khai xây dựng Đề án “Đổi mới GDCT tại đơn vị cơ sở” và đã được Quân ủy Trung ương-Bộ Quốc phòng cho phép triển khai thực hiện.
Lý giải về sự cần thiết phải thành lập lực lượng đấu tranh chính trị trên không gian mạng, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn khẳng định: “Trước đây, việc quản lý mạng xã hội của ta còn lỏng lẻo, gần như để tự phát, thế nên việc thành lập một lực lượng chuyên trách đấu tranh trên không gian mạng là hết sức cần thiết”.
Trò chuyện với Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, tôi được biết, để triển khai nhiệm vụ quan trọng này, ông chủ động báo cáo Bộ trưởng Phùng Quang Thanh xin ý kiến cho phép Cục Tuyên huấn tham mưu với Thường vụ Quân ủy Trung ương ban hành chỉ thị về tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa trong Quân đội, đề xuất thành lập lực lượng đấu tranh chính trị trên không gian mạng và kết nối mạng internet toàn quân. Qua hai lần tiếp xúc, thấy Bộ trưởng còn lưỡng lự nên Cục trưởng Nguyễn Thanh Tuấn đã chủ động làm việc với lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) để tìm hiểu về khả năng và hiệu quả của việc nối mạng, nhất là về công nghệ điện toán đám mây, công nghệ 5G... Sau khi nắm chắc tình hình và khả năng khắc phục mặt tiêu cực của việc nối mạng, Cục trưởng Nguyễn Thanh Tuấn nhờ chuyên gia của Tập đoàn Viettel đi cùng đến gặp Bộ trưởng Phùng Quang Thanh lần thứ ba để trình bày dự án. Lần này, nghe xong, Bộ trưởng đồng ý cho triển khai phương án, nhưng lưu ý khi làm Đề án “Đổi mới GDCT tại đơn vị cơ sở” nên đưa vào và tính toán thật kỹ nguồn ngân sách, các bước tiến hành, làm điểm và triển khai đồng bộ...
Một thời gian sau, đề án được Bộ Quốc phòng thông qua và đưa vào thực hiện. Theo đó, ngân sách dành cho công tác GDCT được nâng lên. Từ năm 2014, đội ngũ giáo viên được trang bị máy tính, máy chiếu để giảng bài, góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDCT tại đơn vị. Đồng thời, mạng internet đã được kết nối trong toàn quân, lực lượng đấu tranh chính trị trên không gian mạng được thành lập. Trên thực tế, lực lượng này đã tích cực đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội trên không gian mạng, qua đó góp phần quan trọng trong việc xây dựng bản lĩnh chính trị, lập trường, tư tưởng vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ. Nhất là tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong các cơ quan, đơn vị. Từ đó tạo nhận thức đúng đắn, toàn diện và đầy đủ trong cán bộ, chiến sĩ về tính hai mặt của internet, mạng xã hội cũng như âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch.
Tiếp xúc với Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, tôi còn được nghe ông kể câu chuyện khá thú vị về việc thực hiện Đề án “Tổ chức lại các đoàn văn công chuyên nghiệp trong Quân đội”. Chuyện bắt đầu từ một buổi biểu diễn của Đoàn Văn công Quân khu Côn Minh (Trung Quốc). Lúc đó, 3 nhà hát của TCCT là Nhà hát Ca múa nhạc Quân đội, Nhà hát Chèo Quân đội, Nhà hát Kịch nói Quân đội đã được ưu tiên đầu tư về con người và cơ sở vật chất thuộc vào hàng hiện đại bậc nhất của toàn quân. Tuy nhiên, khi TCCT mời Đoàn Văn công Quân khu Côn Minh sang biểu diễn, mọi người mới ngỡ ngàng trước sự chính quy, hiện đại của bạn. Đoàn sang biểu diễn mang theo hai xe container đạo cụ và âm thanh, ánh sáng. Trong đêm diễn hôm ấy, bạn chỉ mới sử dụng một container nhưng sân khấu rực rỡ, lung linh, âm thanh sống động khiến người xem thích thú...
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn kể: “Trong lần gặp Bộ trưởng Phùng Quang Thanh để báo cáo công việc, tôi nhắc lại đêm biểu diễn của Đoàn Văn công Quân khu Côn Minh với Bộ trưởng. Bộ trưởng nghe xong, chỉ đạo: “Thế thì cậu về làm đề án ngay”. Nghe Bộ trưởng nói vậy, tôi về chỉ đạo cơ quan triển khai thực hiện đề án. Một thời gian sau, các đoàn văn công cấp quân khu được tổ chức lại và được trang bị hệ thống âm thanh, ánh sáng trị giá hàng tỷ đồng...”.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG ĐẦU TRANH BẢO VỆ NỀN TÀNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
Trong
cuộc đấu tranh quyết liệt bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chúng ta đã có
những thành công tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phát triển và làm cho chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã
hội Việt Nam; bảo vệ uy tín của Đảng cũng như các quan điểm, đường lối của Đảng
trong tiến trình cách mạng; thông qua đấu tranh lý luận và hoạt động thực tiễn
đã góp phần bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn
môi trường hòa bình, ổn định, tạo niệm tin, kiên định và đồng lòng cả dân tộc
vững bước đi lên CNXH. Và chính trong quá trình này chúng ta có thêm được những
kinh nghiệm để tiếp tục đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có thể nêu một số kinh nghiệm cơ bản sau:
Thứ nhất, đấu tranh trên phương diện lý
luận cần gắn chặt hơn nữa với đấu tranh trong hoạt động thực tiễn, cần sự phối
hợp chăt chẽ của các lực lượng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng
Điều cần thấy là, các thế lực thù địch
và cơ hội luôn tìm mọi thủ đoạn tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Trên
phương diện lý luận chúng hướng đến phủ định các nguyên lý triết học Mác-Lênin,
kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó tập trung vào xuyên
tạc, phủ định học thuyết hình thái kinh tế xã hội, về chuyên chính vô sản và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ định học thuyết giá trị thặng dư, phủ
định lý luận về sự quá độ lên CNXH…Cùng với đó là phủ định tư tưởng Hồ Chí
Minh, đặt tư tưởng Hồ Chí minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng không chỉ
cố luận chứng trên phương diện lý luận mà còn thông qua các hoạt động thực tiễn
minh chứng sự phát triển vượt trội của chủ nghĩa tư bản. Lấy sự đổ vỡ mô hình
CNXH ở Liên xô cũ và các nước Đông Âu để luận giải tính không hợp lý của CNXH
hội cũng như hướng vào phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngay ở Việt Nam, không chỉ xuyên tạc,
bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh trên phương diện lý luận, chúng còn xuyên tạc
rằng, việc Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam
là gượng ép, sai lầm, và vì vậy đây chính là nguyên nhân đẩy đến các cuộc chiến
tranh hao người tốn của, làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Trên thực tế,
họ lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự suy thoái của một bộ phận cán
bộ, đảng viên để làm minh chứng, từ đó xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là không phù hợp, là lỗi thời với xu thế phát triển chung của
thế giới.
Chính thực tế đó đòi hỏi trong cuộc đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng chúng ta phảigắn chặt hơn nữa đấu tranh trên phương diện lý luận với đấu
tranh trong hoạt động thực tiễn. Thông qua các kết quả thực tiễn để minh chứng
sự đúng đắn đường lối của Đảng, của lý luận Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời công khai những hạn chế, sai lầm do các nguyên nhân chủ quan và khách
quan trong quá trình xây dựng xã hội mới. Muốn vậy phải có sự gắn kết, phối hợp
chặt chẽ hơn nữa của các lực lượng tham gia đấu tranh lý luận với công tác
tuyên truyền kết quả phát triển kinh tế xã hội, với đấu tranh phòng chống sự
suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống cũng như phòng chống tham nhũng.
Thứ hai, cần chủ động trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đi liền nhận diện các luận điểm họ chống
phá để đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, chúng ta cần chủ động tuyên truyền,
luận giải tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Bấy lâu nay chúng ta đã quyết liệt đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, các phần tử
thoái hóa biến chất nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc nhận diện diện
rõ các thế lực và các quan điểm của họ để phản bác khá thuyết phục. Tuy nhiên,
trong bối cảnh mới hiện nay, các thế lực chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng
khá đa dạng. Ngoài các thế lực như chúng ta chỉ rõ như: “1- Nhóm đối lập về mặt
hệ tư tưởng; 2- Các thế lực thù địch về chính trị, chống lại chế độ xã hội chủ
nghĩa của chúng ta; 3- Thực tiễn quá trình đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta luôn chủ động,
kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự
thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là những thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới vừa qua đã làm cho quy mô, trình độ
nền kinh tế được nâng lên, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được
cải thiện rõ rệt. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay”[5].
Vươn lên trong quá trình phát triển luôn
là mục tiêu của các quốc gia. Vì vậy các quốc gia dân tộc luôn tranh thủ mọi
điều kiện khai thác các nguồn lực để bứt phá. Trong bối cảnh này lợi ích quốc
gia dân tộc luôn được quan tâm hàng đầu. Cùng vì vậy cạnh tranh phát triển,
cạnh tranh trong khai thác các nguồn lực ngày càng quyết liệt, làm cho quan hệ
giữa các quốc gia luôn song hành giữa hợp tác phát triển và cạnh tranh quyết
liệt, thậm chí có những va đập do các nhân tố lịch sử, do hành động bá quyền
dẫn đến xâm hại lợi ích quốc gia. Lợi dụng bối cảnh này các thế lực thù địch và
những phần tử thoái hóa biến chất xuyên tạc đường lối phát triển, công kích
quan hệ quốc tế…đòi điều chỉnh, thay đổi con đường phát triển, thực chất cũng
là nhằm vào chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng.
Điều rất đáng chú ý trong bối cảnh hiện
nay là đi liền với các thách thức an ninh truyền thống là nổi lên các thách
thức an ninh phi truyền thống, tác động đến sự phát triển của chúng ta, gây ra
những đổ vỡ, những mất mát hoặc thua thiệt khó lường. Các thế lực thù địch, cơ
hội lợi dụng điều đó để tiếp tục chống phá, khoét sâu vào những hạn chế, quy về
sự sai lầm trong lựa chọn con đường, mô hình phát triển, làm giảm niềm tin của
người dân vào Đảng, vào chế độ. Trong bối cảnh như vậy, việc đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên cấp thiết. Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ XIII đã khẳng định rõ cần: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,
cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ”[6]. 4- Là những người vốn là cán bộ đảng viên nhưng không
chịu tu dưỡng, học tập, nâng cao tư tưởng đạo đức cách mạng dẫn tới tha hóa về
tư tưởng, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phai nhạt lý
tưởng, mà Đảng ta đã chỉ rõ là “tự chuyển hóa, tự diễn biến” trong nội bộ”[7], còn không ít thế lực dưới những vỏ bọc khác nhau. Chẳng
hạn, cùng phối hợp hay phụ họa các thế lực này là sự xuất hiện chủ nghĩa cơ
hội, chúng tác động làm suy yếu các tổ chức từ bên trong, chúng đã và đang xuất
hiện cũng hết sức tinh vi. Ph.Ăngghen đã nói rằng chủ nghĩa cơ hội biến chủ
nghĩa Mác thành một thứ “chủ nghĩa Mác” bị xuyên tạc méo mó”[8]. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đã xuất hiện
những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều
lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”[9]. Bên cạnh chủ nghĩa cơ hội là thế lực cũng rất nguy hại,
tuy không ra mặt phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng
giải thích, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh theo mục
tiêu, lợi ích của họ. Đây chính là những thế lực không muốn Việt Nam phát
triển, mà muốn Việt Nam phụ thuộc, hỗ trợ cho lợi ích của họ. Họ cho rằng chúng
ta không vận dụng đúng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, làm tổn hại
trong quan hệ quốc tế, ảnh hưởng đến môi trường và sự phát triển của chính Việt
Nam.
Chính vì vậy để đấu tranh phản bác cùng
với nhận rõ các luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội, suy
thoái, biến chất, chúng ta cần chủ động giáo dục tuyên truyền và nghiên cứu,
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh. Làm rõ bản chất cách mạng,
khoa học, như chính các nhà kinh điển chỉ ra. V.I.Lênin đã không ít lần nhấn
mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn
và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển
hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[10]. Trong quá trình nghiên cứu phát triển cần làm rõ những
luận điểm nào có giá trị bền vững, mang tính phổ quát, những luận điểm nào phù
hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, và kể cả những luận điểm nào không còn
phù hợp do điều kiện lịch sử hiện nay đã thay đổi. Phát triển lý luận Mác-Lênin
là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp nhau, của những người mácxít chân chính.
Ngay bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình nghiên
cứu và hoạt động trong phong trào công nhân cũng đã điều chỉnh một số luận điểm
của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Dù sao thì cũng không
thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”[11].
Như vậy đẩy mạnh việc tuyên truyền làm
rõ bản chất cách mạng và khoa học, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh gắn với đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái là phương cách
tất yếu và cần luôn được quán triệt, gắn bó chặt chẽ nhằm bảo đảm hiệu quả của
cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ ba, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng không chí tập trung trực diện vào các nội dung trong học thuyết
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà cần chú ý tới những vấn đề vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đấu tranh và xây dựng xã
hội mới.
Trong mục tiêu xuyên tạc phủ định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực phản động cơ hội, thoái hóa
biến chất không chỉ trực diện hướng tới phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng mà
chúng con thông qua hình thức, biện pháp gián tiếp để thực hiện ý đồ của mình.
Bên cạnh mưu toan phủ định trực tiếp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng còn tập trung phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi xấu lãnh đạo, phủ
định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, xuyên tạc quan hệ
đối ngoại, bịa đặt vu cáo Việt Nam vi phạm quyền con người, đàn áp tôn giáo…
Bên cạnh đó ca ngợi, tuyên truyền về các giá trị dân chủ, nhân quyền, văn hóa
theo lối sống phương Tây…Tất cả những chiêu bài đó nhằm cố minh chứng việc
chúng ta lựa chọn sai con đường, sai mô hình do xuất phát từ học thuyết và tư
tưởng lỗi thời, ảo tưởng. Thực chất mục tiêu suy cho cùng là phủ định nền tảng
tư tưởng của Đảng, kêu gọi theo con đường mới, từ bỏ vai trò của Đảng, vai trò
của lực lượng vũ trang.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không
chỉ là bảo vệ trực diện nội dung các quan điểm, nguyên lý cụ thể của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minhh, mà còn chính là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính
trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hoà
bình, ổn định để phát triển đất nước. Điều cần chú ý là, những nguyên lý lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị bền vững nằm
trong một hệ thống và bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo
vệ tính hệ thống, toàn vẹn của những nguyên lý lý luận. Cần phản bác khuynh
hướng tách rời, trích dẫn cắt xén các luận điểm và luận giải không phù hợp với
bối cảnh lịch sử.
Thứ tư, cần tập trung vào trọng điểm đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng
trên môi trường mạng
Thực tế, các thế lực thù địch, cơ hội,
thoái hóa biến chất thường lợi dụng các phương thức khác nhau để liên kết, phát
tán thông tin chống phá, hòng phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng thường
thông qua các phương thức: 1-Gửi đơn thư góp ý, khiếu nại, tố cáo đến các cơ
quan Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử và các cơ quan ngôn luận; 2- Thông qua
các quan hệ, các tổ chức dưới dạng các tài liệu, sách truyền tay, thông tin
truyền miệng; 3- Thông qua các hội nghị, hội thảo, tổ chức các sự kiện chuyên
đề; 4- Thông qua lập các trang Web của các tổ chức, hoặc của các cá nhân để
đăng thông tin; 5- Thông qua mạng xã hội phát tán các thông tin và liên kết tạo
thành đợt tấn công theo chuyên đề, theo các sự kiện. Chính vì vậy, đòi hỏi
chúng ta cũng phải vận dụng các phương thức thông tin để phản bác lại các quan
điểm xuyên tạc, phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong các phương thức
trên, cần đặc biệt chú ý phương thức thông qua môi trường mạng.
Mạng xã hội là thành quả của cách mạng
khoa học kỹ thuật, toàn thế giới áp dụng. Tuy nhiên, cả thế giới cũng đang đứng
trước những thách thức lớn trong quản lý mạng xã hội, đối phó với mặt trái của
mạng xã hội. Chúng ta đi sau, nhưng chúng ta phải quản lý, định hướng mạng xã
hội vì mục đích của chúng ta. Vì vậy, cần tiếp tục bảo đảm sự thống nhất cao về
tầm quan trọng của cuộc đấu tranh trên không gian mạng hiện nay, từ đó xây dựng
và phát triển mạnh mẽ lực lượng đấu tranh trên mặt trận này, ngăn chặn và triệt
phá kịp thời mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; chủ động kịp thời
định hướng thông tin, đưa thông tin chính thống đến người dân, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm môi trường ổn định cho
phát triển. Để làm tốt việc đó, một trong những giải pháp là đẩy mạnh quá trình
chuyển đổi số trong lĩnh vực thông tin truyền thông, cần xem thông tin truyền
thông là một trong những lĩnh vực cần có ưu tiên cùng với 8 lĩnh vực ưu tiên
chuyển đổi số: Y tế, Giáo dục, Tài chính – Ngân hàng, Nông nghiệp, Giao thông
vận tải và logistics, Năng lượng, Tài nguyên và Môi trường, Sản xuất công
nghiệp, đã được Chính phủ thông qua.
Thứ năm, về mặt tổ chức đội ngũ chuyên
gia và xây dựng tuyến bài tập trung có chất lượng
Kinh nghiệm cho thấy, đi liền với tuyên
truyền, nghiên cứu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần
xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận không chỉ đông về lượng mà phải
bảo đảm chất lượng, đủ tầm trí tuệ và bản lĩnh để có những bài viết chất lượng.
Hiện nay đội ngũ lý luận của chúng ta còn thiếu và còn không ít hạn chế. Cần
tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận
có bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phương pháp và kỹ năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ chuyên
gia đầu ngành, có nhiệt huyết và tầm cao về lý luận; xây dựng đội ngũ cán bộ kế
cận, cán bộ trẻ. Nên có chính sách đặc thù thu hút, ưu tiên đào tạo và sử dụng
đội ngũ này. Bên cạnh đó, nghiên cứu đổi mới hình thúc và gia tăng thời lượng
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống nhà trường,
nhất là ở bậc đại học. Cần có cơ chế bồi dưỡng đối với những người học tốt
nghiệp các cấp học ở nước ngoài về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung, chương trình, giáo trình và phương pháp
giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các nhà trường phù hợp với đối tượng
và cấp học; truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những nội dung mới, phù hợp tình hình hiện
nay, làm cơ sở cho việc vận dụng trong chỉ đạo thực tiễn.
Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức,
trên cơ sở phát huy hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo 35 các cấp làm lực lượng
lòng cốt trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thu hút các cộng
tác viên, các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia. Các cơ
quan báo chí truyền thông cần tiếp tục nâng cao chất lượng trong xây dựng các
chuyên trang, chuyên mục với hệ thống các tuyến bài đấu tranh sắc sảo với các
quan điểm sai trái, có tính toán liều lượng và thời điểm hợp lý, bảo đảm tính
liên tục, có trọng tâm. Kết hợp chặt chẽ những giải pháp về mặt tư tưởng với
quy định mang tính pháp luật, cùng giải pháp công nghệ và chế tài xử phạt
nghiêm minh, đủ sức răn đe đối với những thế lực, phần tử thực hiện các hoạt
động hướng đến phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ở Việt Nam, ngay từ khi ra đời,
Đảng ta đã xác địnhchủ nghĩa Mác – Lênin là cốt, là gốc, là nền tảng tư tưởng
của Đảng. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động” . Luận điểm này đã tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện qua
các kỳ đại hội của Đảng. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII nêu rõ: “Kiên
định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.
Đi
lên CNXH là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng phù hợp với khát vọng của người dân
Việt Nam vươn tới ấm no, tự do, hạnh phúc. Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích giai
cấp và lợi ích cá nhân của không ít phần tử suy thoái, bất mãn, đã chống đối
lại con đường tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển mà Đảng, Bác và nhân dân
ta lựa chọn. Họ đã không từ thủ đoạn nào hòng làm chuyển hướng, làm thất bại
công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Và đương nhiên, họ tập trung công kích,
xuyên tạc, phủ định cái gốc của Đảng – nền tảng tư tưởng của Đảng ngay từ khi
Đảng ta ra đời, lãnh đạo nhân dân thực hiện các cuộc trường chinh kháng chiến và
công cuộc xây dựng CNXH ngày nay.
Như
vậy trên con đường xây dựng xã hội mới, chúng ta phải thường xuyên, liên tục
đấu tranh chống lại các hoạt động cả trên bình diện lý luận và thực tiễn để bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động có sứ
mệnh xây dựng thành công xã hội mới, điều đó cũng có nghĩa cuộc đấu tranh này
là liên tục, gắn liền với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động.
Cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ liên tục
về thời gian, mà còn liên tục về không gian, có nghĩa rằng cuộc đấu tranh này
không chỉ trên phạm vi quốc gia mà cả trên bình diện quốc tế. Điều này gắn liền
với sự vận động của xã hội loài người đang quá độ lên CNXH. Phủ định học thuyết
Mác – Lênin chính là sự phủ định xu hướng vận động khách quan của sự quá độ lên
CNXH trên phạm vi thế giới, là sự phủ định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Cũng chính vì vậy, cuộc đấu tranh này luôn quyết liệt, phức tạp, là cuộc
đấu tranh mất còn với thế lực thù địch phản động của những người cộng sản đi
theo con đường mà các nhà kinh điển Macxit đã chỉ ra.
Tính quyết liệt và phức tạp của
cuộc đấu tranh ngày nay còn gắn liền với sự lợi dụng những bước tiến trình độ
lực lượng sản xuất, biểu hiện tập trung ở sự phát triển của khoa học công nghệ.
Việc lợi dụng thành tựu khoa học công nghệ để tạo ra bước phát triển mới của
CNTB, cũng như lợi dụng thành tựu công nghệ để chống phá với những phương thức
ngày càng tinh vi, với mục tiêu không bao giờ thay đổi là phủ định chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định con đường XHCN, luôn được các thế
lực thù địch khai thác triệt để.
Bên
cạnh đó quá trình hội nhập và mở cửa các nền kinh tế quốc gia dân tộc một mặt
là điều kiện cho quá trình hợp tác phát triển, mở rộng sự hiểu biết, giao lưu
văn hóa, gắn kết cộng đồng vì sự phát triển chung, đồng thời cũng là không gian
cho các thế lực thù địch lợi dụng đẩy mạnh các hoạt động chống phá cả trên
phương diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại và an ninh quốc
phòng./.
Dấu ấn thời bình
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn quê ở Quảng Nam nên khí chất ngay thẳng, thấy đúng là bảo vệ, thấy sai là đấu tranh, không nể nang, thỏa hiệp. Cấp trên sớm nhận ra ông có tố chất về chính trị nên luôn cân nhắc bố trí những cương vị “đứng mũi chịu sào”.
Trò chuyện cùng các đồng chí cán bộ, cựu chiến binh TP Đà Nẵng, tôi biết thêm nhiều câu chuyện thú vị, hiểu thêm những việc làm để lại dấu ấn đậm nét của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn... Cuối năm 1989, ông được cấp trên điều từ Phòng Tuyên huấn Quân khu 5 sang giữ chức Phó chỉ huy trưởng về Chính trị Thành đội Đà Nẵng (Tỉnh đội Quảng Nam-Đà Nẵng). Với nhãn quan chính trị sâu sắc và kinh nghiệm tích lũy từ thực tiễn, đồng chí Nguyễn Thanh Tuấn đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong quá trình công tác. Thời gian ở Thành đội Đà Nẵng, ông mạnh dạn đề xuất nhiều chủ trương, biện pháp có tính đột phá, chủ động làm trước, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Dấu ấn đầu tiên là khi ông đề xuất phương án tổ chức giao ban chính trị viên và chính trị viên phó ở cấp phường. Chuyện là thế này, ngày mới về công tác, qua nắm tình hình, đồng chí Nguyễn Thanh Tuấn nhận thấy mối liên kết giữa cấp phường và Thành đội còn chưa chặt chẽ, thiếu thông tin từ cơ sở. Thế nên, đầu năm 1990, ông đã báo cáo Thành ủy Đà Nẵng đề xuất phương án tổ chức giao ban chính trị viên, chính trị viên phó trên toàn địa bàn, luân phiên định kỳ mỗi tháng một lần. Thành phần tham dự gồm 28 bí thư đảng ủy phường kiêm chính trị viên phường đội, cán bộ lãnh đạo của Thành đội và Phó bí thư Thành ủy Đà Nẵng tham dự với tư cách đại biểu cấp trên. Phương án này được Thành ủy chấp thuận và bắt đầu từ năm 1990, Thành đội tiến hành giao ban chính trị viên và chính trị viên phó. Nhờ vậy, mối quan hệ trên, dưới thông suốt. Theo đó, mọi thông tin từ cơ sở được phản ánh kịp thời, các quy định, chỉ thị, hướng dẫn... của cấp trên được triển khai đồng bộ, chặt chẽ. Thông qua việc giao ban chính trị, sự phối hợp giữa Thành ủy và Thành đội tốt hơn. Hai đơn vị tổ chức được nhiều hoạt động có ý nghĩa, nhất là trong công tác giáo dục, tuyên truyền...
Dấu ấn thứ hai là ông chủ động “kết nối” với Ban Văn hóa-Thông tin TP Đà Nẵng phối hợp cùng Thành đội Đà Nẵng tổ chức chương trình liên hoan văn nghệ với chủ đề: “Hát về chiến sĩ-chiến sĩ hát”, thiết thực chào mừng Ngày hội Quốc phòng toàn dân và tập hợp quần chúng trong dịp lễ Noel. Được UBND thành phố tán thành, chương trình diễn ra trong không khí sôi nổi, thắm tình quân dân. “Sản phẩm đầu tay” do Thiếu tá Nguyễn Thanh Tuấn khởi xướng từ ngày ấy được duy trì cho đến nay và được nhân rộng trong các cơ quan, đơn vị trên địa bàn Quân khu 5 và phạm vi cả nước.
Vốn một thời là lính biển nên tôi biết Đại tá Phan Văn Cúc (nguyên Phó chỉ huy trưởng về Chính trị Vùng 3 Hải quân) có mối quan hệ thân thiết với Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn. Khi tôi tìm đến nhà riêng thì được Đại tá Phan Văn Cúc nhắc lại chuyện cũ: “Ngày anh Nguyễn Thanh Tuấn sang Vùng 3 Hải quân đặt vấn đề cử lực lượng tham gia Chương trình “Hát về chiến sĩ-chiến sĩ hát”, ban đầu tôi còn lưỡng lự. Nhưng sau vài phút trao đổi thông tin về ý tưởng và nội dung, tôi đồng ý ngay. Ngày đó, các đơn vị phối hợp tổ chức được một “sân chơi” thu hút đông đảo quần chúng nhân dân và cán bộ, chiến sĩ đón nhận như vậy là rất ý nghĩa, thiết thực!”.
Dấu ấn thứ ba là khi ông trở thành người đầu tiên đề xuất phương án tổ chức ngày chính trị cơ sở, định kỳ mỗi quý một lần gồm tất cả 28 phường trên địa bàn TP Đà Nẵng. Thành phần tham dự gồm toàn bộ dân quân tự vệ và khu đội do cán bộ được Ban chỉ huy Thành đội phân công chủ trì, bí thư đảng ủy phường dự với tư cách chính trị viên. Với mục đích mở rộng dân chủ ở cơ sở, kịp thời nắm bắt thông tin, nhờ vậy những khúc mắc của cán bộ cơ sở từng bước được tháo gỡ, mối quan hệ đoàn kết trên dưới ngày càng được củng cố.
Dấu ấn thứ tư của đồng chí Nguyễn Thanh Tuấn đối với công tác xây dựng Đảng chính là triển khai thành lập chi bộ quân sự cấp xã (phường). Ông kể: “Ngày mới về nhận công tác, tôi được nghe báo cáo có đồng chí cán bộ phường đội phẩm chất đạo đức tốt, lý lịch trong sạch, năng nổ, nhiệt tình, nhưng chi bộ địa phương nơi cứ trú nhất định không làm thủ tục đề nghị kết nạp Đảng. Thấy có vấn đề, tôi trực tiếp xuống địa bàn tìm hiểu nguyên nhân. Đến nơi, đồng chí bí thư chi bộ khu dân cư trả lời một cách nặng nề, máy móc: “Ông đó sáng mô cũng phì phèo thuốc lá, cà phê. Dân đang nghèo, tiền đâu mà tiêu hoang phí như rứa, kết nạp Đảng răng được!”. Từ câu nói của đồng chí bí thư chi bộ, tôi xuống ngay cơ sở và biết được tình hình đa số đảng viên ở khu dân cư đều lớn tuổi, rất khó tạo nguồn cán bộ cho địa phương. Mặt khác, tôi thấy cấp phường, xã không có tổ chức đảng là một sự khiếm khuyết trong hệ thống lãnh đạo của Đảng ta. Vì vậy, tôi trực tiếp sang Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng trao đổi tình hình và đề xuất phối hợp tổ chức thành lập chi bộ quân sự cấp phường. Kiến nghị của tôi được Thành ủy Đà Nẵng chấp thuận và ra quyết định thành lập hai chi bộ quân sự ở phường Hải Châu 2 và Chi bộ Quân sự phường An Hải Tây làm thí điểm. Sau đó một thời gian ngắn, Thành ủy quyết định thành lập thêm chi bộ quân sự ở phường Chính Gián. Đến đầu năm 1990, các chi bộ quân sự chính thức đi vào hoạt động và phát huy tốt hiệu quả...”.
Nói về những dấu ấn của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Trung tướng Tạ Nhân, nguyên Phó chủ nhiệm Thường trực Ủy ban kiểm tra Quân ủy Trung ương, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 5, tâm sự: “Anh Nguyễn Thanh Tuấn là thủ trưởng cũ của tôi. Anh là người từng trải, từng qua nhiều vị trí công tác. Dù ở cương vị nào, anh cũng đều nhiệt tình và trách nhiệm. Gần anh ấy, tôi học tập từ anh đức tính chân thành, giản dị và ngay thẳng. Những điều anh nói, những việc anh làm đều vì sự thành công của tập thể đơn vị!”.
Ký ức về một thời đánh giặc
Cơn mưa chiều bất chợt khiến phố biển Đà Nẵng như dịu mát hơn. Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn tiếp tôi trong căn phòng nhỏ trên phố Nguyễn Trác...
Câu chuyện ông kể giúp tôi hiểu sâu hơn về những năm tháng khốc liệt của chiến tranh... Tuổi thơ của ông lớn lên trong nghèo đói và khói lửa đạn bom. Năm 1967, ba, má ông hy sinh. Quyết trả thù nhà, tròn 14 tuổi, Nguyễn Thanh Tuấn đã làm chiến sĩ liên lạc của Tiểu đoàn Đặc công 91 Lam Sơn, có nhiệm vụ chuyển công văn của đơn vị sang Trung đoàn 36 và trinh sát nắm tình hình địch trên địa bàn. Tổ chức biết ông là con liệt sĩ, nhà có 7 người thân hy sinh trong kháng chiến, Mặt trận 44-Quảng Đà không muốn mất một “hạt giống đỏ” nên cho ra Bắc học tập. Thế nhưng ngày ấy ông nhất quyết xin ở lại miền Nam để chiến đấu. Cuối cùng đơn vị đành phải cho ông đi học Trường Đặc công Quân khu 5, rồi giữ lại làm giáo viên đến 3 khóa. Xác định lý tưởng cao đẹp của người thanh niên là trên trận tuyến chống quân thù nên Nguyễn Thanh Tuấn kiên quyết xin được trực tiếp tham gia chiến đấu. Xét thấy nguyện vọng chính đáng nên cấp trên phân công Nguyễn Thanh Tuấn về Hội An (Quảng Nam) nắm tình hình xây dựng lực lượng, một thời gian sau thì chuyển về quận Nhì (Đà Nẵng) tham gia lực lượng biệt động...
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn nhớ lại: “Trung tuần tháng 8-1973, tôi đang là mũi trưởng biệt động quận Nhì được phân công về hoạt động tại khu vực B1 Hồng Phước. Để thuận tiện cho nhiệm vụ, tôi ở căn hầm bí mật trong khuôn viên nhà bà Phạm Thị Dĩ để chuẩn bị công tác tham gia huấn luyện, xây dựng lực lượng biệt động của quận. Thời kỳ này, xóm Hồng Phước (nay thuộc quận Liên Chiểu) cách trung tâm TP Đà Nẵng khoảng 10km. Địa bàn hoạt động khá thuận lợi bởi 64 hộ dân trong xóm đều là cơ sở cách mạng. Tuy kẻ địch thường xuyên lùng sục, vây ráp nhưng bà con vẫn mưu trí, tranh thủ ban đêm đào được 46 hầm bí mật dưới lòng đất. Điều khiến kẻ thù không ngờ tới là vùng đất ngay sát nách TP Đà Nẵng với dày đặc mật vụ, thám báo, gián điệp lùng sục, thế nhưng bà con vẫn kiên trung nuôi giấu cán bộ, bộ đội, du kích. Đêm đêm bà con vẫn đưa đón hàng trăm cán bộ, chiến sĩ về hoạt động; vận chuyển hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, hàng trăm tấn lương thực, hàng hóa và nhiều công văn, tài liệu cách mạng mà không hề bị lộ.
Trầm ngâm giây lát, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn nhỏ nhẹ: “Ngày xưa chiến tranh khốc liệt, gian khổ là thế, hiểm nguy là vậy, nhưng chúng tôi không hề đơn độc, không hề nao núng tinh thần, bởi có lòng dân đùm bọc, chở che. Hình ảnh ngọn đèn của mẹ Dĩ ở Hồng Phước là một minh chứng sống cho sức mạnh toàn dân đánh giặc. Ở mảnh đất này, nhà mẹ Dĩ và một số mẹ đêm đêm thắp sáng ngọn đèn dầu để chỉ lối cho chúng tôi về hoạt động. Cứ thấy ánh đèn le lói trong đêm là chúng tôi thêm ấm lòng, vững dạ. Đó là tín hiệu báo an toàn, để từ đây sẽ có tin từ nội thành ra, gặp cơ sở để nắm tình hình, huấn luyện cấp tốc kỹ thuật cách đánh cho đội viên biệt động, hướng dẫn những vấn đề cần thiết khác. Có thể nói người dân Hồng Phước và nhiều vùng quê khác trên khắp miền Nam đã làm nên những chiến công thầm lặng, nếu không có lòng dân Hồng Phước, lòng dân miền Nam thì không thể có chiến công của lực lượng biệt động và Quân Giải phóng, làm tiền đề cho ngày giải phóng Đà Nẵng 29-3-1975 và ngày 30-4 lịch sử”.