Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024

Lật tẩy chiêu trò bôi nhọ

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần là một mất mát vô cùng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Trong khi nhân dân cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới dành sự tôn kính, tiếc thương về sự ra đi của người đứng đầu Đảng ta thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc.

Thế nhưng với bản chất chống phá Việt Nam, trên các trang mạng xã hội của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị lại có những bài viết, hình ảnh, video phản cảm nhằm xuyên tạc, phủ nhận những cống hiến, đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong số các tổ chức thường xuyên tung tin sai trái, xuyên tạc là tổ chức phản động, khủng bố Việt Tân. Trên trang mạng xã hội, tổ chức này đưa ra lời lẽ lố bịch rằng “Đảng trưởng của một Đảng độc tài, dù có công cũng chỉ là có công với Đảng của họ, còn đối với đất nước chỉ có tội…”. Trang này còn vu cáo rằng “Triều đại của ông Trọng đã phơi bày tình trạng đấu đá nội bộ gay gắt, không quan tâm đến đời sống người dân”; đưa ra luận điệu lố bịch xuyên tạc Tổng Bí thư “là người cuồng tín chủ nghĩa Mác, Lênin”, “kìm kẹp sự phát triển của đất nước”…

Trên một số trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã đưa ra những bình luận hùa theo, phủ nhận thành quả công cuộc phòng, chống tham nhũng dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư, nói rằng “công cuộc đốt lò thất bại hoàn toàn”, “còn lại điều gì từ công cuộc củi, lửa”, “cụ Tổng đi, lò lửa tắt, nhiều kẻ theo đóm ăn tàn”…

Bên cạnh đó, ngày 21/7/2024, Việt Tân còn tổ chức ra cái gọi là “Diễn đàn ước mơ canh tân” dưới dạng hội luận với chủ đề “Ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, tình hình Việt Nam sẽ chuyển biến ra sao”? Hội luận dưới sự chủ trì của Lý Thái Hùng và khách mời là các đối tượng bất mãn, thù địch với Việt Nam như thành viên cái gọi là “Hội anh em dân chủ” Nguyễn Văn Đài. Họ còn xảo biện rằng “công cuộc đốt lò sẽ lụi tàn” khi “người đốt lò vĩ đại đã nằm xuống”, “tất cả chỉ còn công cốc”… Ngoài ra, đối tượng Lê Quốc Quân cũng đăng tải bài viết “Di sản Nguyễn Phú Trọng” với nội dung xuyên tạc, hạ bệ những thành tựu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong nhiều năm qua, nhất là công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, những thành tựu trong lĩnh vực ngoại giao.

Thực tế cho thấy, trước sự mất mát của một nhà lãnh đạo được nhân dân quý trọng, một nhân cách lớn, sự tiếc thương về người bạn chí nghĩa, chí tình được lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế đánh giá cao thì các thế lực thù địch, phản động càng thể hiện bộ mặt đớn hèn, đáng xấu hổ, phản văn hóa. Mục đích của các đối tượng nhằm bôi xấu, kích động chia rẽ trong nội bộ, gây nên sự phân tâm trong các tầng lớp nhân dân về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Từ đó, tạo ra sự lo lắng về vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, Nhà nước và nhân dân.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỘ QUỐC PHÒNG SẮP GIẢI THỂ 2 QUÂN ĐOÀN, THÀNH LẬP QUÂN ĐOÀN 34!

  Bộ Quốc phòng đang tiến hành điều chỉnh tổ chức quân đội, tiến tới giải thể Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, thành lập Quân đoàn 34 theo kế hoạch đã xác định.

Theo Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, vừa qua Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã dẫn đầu đoàn công tác Bộ Quốc phòng đến thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 (TP Pleiku, Gia Lai).

Quân đoàn 3 duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu
Cùng tham gia đoàn có Trung tướng Nguyễn Doãn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam và lãnh đạo các Tổng cục Hậu cần, Kỹ thuật, Tổng cục II, cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 5.

Thiếu tướng Nguyễn Bá Lực, Tư lệnh Quân đoàn 3, cho biết trong 6 tháng đầu năm 2024, Quân đoàn 3 đã triển khai nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của Trung ương và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Quân đoàn duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, phối hợp với địa phương nắm bắt tình hình, xử lý kịp thời các tình huống.

Quân đoàn 3 thực hiện nghiêm túc chủ đề “Năm cơ bản hoàn thành điều chỉnh tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh” của Quân ủy Trung ương, chủ động xây dựng và thực hiện Kế hoạch số 1228 của Bộ Quốc phòng về tổ chức Quân đội Nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030. Các đơn vị đã điều chỉnh, kiện toàn biên chế, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức huấn luyện đạt chất lượng tốt; xây dựng chính quy, quản lý kỷ luật, và thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và các mặt công tác khác có nhiều tiến bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc, thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang biểu dương những nỗ lực, cố gắng và kết quả nổi bật mà Quân đoàn 3 đã đạt được thời gian qua, nhất là trong công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
Đại tướng Phan Văn Giang yêu cầu, thời gian tới, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, các chiến lược, Nghị quyết, đề án, dự án, hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng.

Thường xuyên duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu ở các cấp, nhất là những đơn vị làm nhiệm vụ quan trọng, ở địa bàn trọng điểm; phối hợp chặt chẽ với địa phương và các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, không bị động, bất ngờ về chiến lược, không để lúng túng, chậm chễ, thiếu kịp thời, thiếu linh hoạt trong xử lý các vấn đề phát sinh, mới nổi.

NHẬN DIỆN SỰ THẬT VÌ SAO CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TẤN CÔNG XUYÊN TẠC GIÁO SƯ HOÀNG CHÍ BẢO?

 Giáo sư-Tiến sĩ Hoàng Chí Bảo là diễn giả rất nổi tiếng, Ông là chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông được mệnh danh là "Người kể chuyện Bác Hồ" hay nhất, hay "Pho sử sống về Bác Hồ" vì đã dành phần lớn thời gian trong cuộc đời của mình để sưu tầm, nghiên cứu, truyền bá tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.

Những bài kể chuyện của Ông về Bác Hồ luôn được các tầng lớp Nhân dân ở trong và ngoài nước hân hoan đón nhận và dành rất nhiều tình cảm cho Ông. Ông xứng đáng là một cây đại thụ vững chắc để bảo vệ và tôn vinh những giá trị bất hủ về tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của Nhân dân Việt Nam.

Trái lại, Ông cũng là đích đến của các thế lực thù địch, phản động, bọn cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước. Chúng tìm đủ mọi cách, bằng nhiều thủ đoạn nhắm vào Ông, nhằm xuyên tạc, chống phá, hạ bệ Ông với mục đích rất thâm độc, đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng, chia rẽ khối đại đoàn kết giữa Tôn giáo với Đảng, mà cụ thể là Phật giáo trong những lùm xùm vùa qua. 

Từ những lùm xùm về hiện tượng ông Thích Minh Tuệ (tên thực là Lê Anh Tú) đi khất thực, dẫn đến những lùm xùm về những sai – trái trong thuyết pháp về giáo lý Nhân quả vào nửa đầu năm 2024 của ông Thích Chân Quang (tên thật là Vương Tấn Việt, là một Thượng tọa Phật giáo người Việt Nam, hiện là trụ trì chùa Phật Quang ở Bà Rịa – Vũng Tàu. Việc lên án về những sai-trái của ông Thích Chân Quang là hoàn toàn chính xác, tôi cũng cực lực lên án ông này. Và ngày 19/6/2024 Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho rằng một số nội dung thuyết pháp của Thượng tọa Thích Chân Quang về giáo lý Nhân quả không đúng Chánh pháp, và ra quyết định cấm Thượng tọa Thích Chân Quang thuyết giảng dưới mọi hình thức trong vòng 2 năm, ông Quang đã phải trả giá cho những sai phạm của mình.

Sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng không, đó chỉ là khúc dạo đầu cho việc tấn công vào GS Hoàng Chí Bảo. Một số kẻ ủng hộ ông Thích Minh Tuệ (trong đó có một số thành phần bất hảo) tung ra một số băng hình cách đây 2 đến 3 năm, ghi lại những lời khen ngợi của GS Hoàng Chí Bảo dành cho ông Thích Chân Quang tại lễ trao bằng Tiến sĩ luật cho ông Quang và buổi nói chuyện của Giáo sư tai chùa Phật Quang tỉnh Bà Rịa – Vũng Tầu. Nội dung những băng hình này đã được những kẻ này diễn giải xuyên tạc theo chiều hướng quy kết Giáo sư Hoàng Chí Bảo dám “so sánh” Bác Hồ với ông Thích Chân Quang nhằm hướng lái dư luận tấn công GS Hoàng Chí Bảo.

Đây rõ ràng là một chiêu trò “ném đá dấu tay” hết sức bỉ ổi bởi vì sự thật hoàn toàn không phải là như vậy. Tôi sẽ trích nguyên văn câu nói của GS Hoàng Chí Bảo mà bọn chúng xoáy vào để công kích, đồng thời sẽ phân tích và làm rõ sự thật:

“…Tôi có một cái may mắn là được dành phần lớn thời gian của mình để nghiên cứu và truyền bá Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tôi có một cảm nhận như thế này, không biết các bạn có chia sẻ không? thầy Thích Chân Quang của chúng ta, tiến sĩ Vương Tấn Việt của chúng ta mang được nét hình ảnh rất là đẹp của Bác Hồ. Thầy có một gương mặt rất phúc hậu, thầy có một khả năng chuyền cảm rất tốt đẹp, và cái sự chuyền cảm đó như những nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh người ta gọi là Bác Hồ của chúng ta có một cái biệt tài là thuyết phục, thu phục, chinh phục lòng người thì tôi nghĩ rằng cái nỗ lực trong sự nghiệp tu hành của thầy và bây giờ lại song hành với sự nghiệp khoa học thì chắc chắn thầy sẽ đem lại những thiện cảm rất tốt đẹp cho chúng ta” 

Trong câu nói trên, bọn chúng xoáy vào câu; “thầy Thích Chân Quang của chúng ta, tiến sĩ Vương Tấn Việt của chúng ta mang được nét hình ảnh rất là đẹp của Bác Hồ” để tấn công Giáo sư và mặc định đó là so sánh. Đọc câu này các bạn diễn giải và cảm nhận như thế nào? Có tý gì được gọi là “so sánh” không? Thực chất trong câu nói này Giáo Sư đã rất khôn khéo khi sử dụng trạng từ “mang được nét” để hướng tới “hình ảnh rất là đẹp của Bác Hồ”. Vậy có gì là sai trái?

Bây giờ tôi nói như thế này: “Tôi có một cảm nhận như thế này, không biết các bạn có chia sẻ không? Nhân dân của chúng ta, những người Dân yêu nước chân chính của chúng ta mang được nét hình ảnh rất là đẹp của Bác Hồ”. Tôi nói như vậy đó, ai thấy tôi nói như vậy là phản động thì làm ơn đi báo Chính quyền hộ tôi, tôi cảm ơn. Chứ trên không gian mạng, chỉ vì câu nói đó của Giáo sư mà khá đông người đòi yêu cầu Chính quyền phải xử lý Giáo sư. Thật lực cười cho những cái đầu đất!

Trong toàn câu tôi trích dẫn ở trên, Giáo Sư chỉ sử dụng biện pháp ẩn dụ để tăng sức gợi cảm cho sự diễn đạt, mục đích chính cũng chỉ là để khích lệ, động viên, không có gì là sai trái cả. Có chăng chỉ là những lời khen ngợi hơi thái quá, làm cho người nghe có cảm giác không hay. Về việc này, Giáo sư cũng đã nhận ra và cũng tự trách mình khi trả lời trên báo Dân Việt:

“Tôi lắng nghe, suy ngẫm. Con người ai cũng có thể mắc sai lầm chứ, dù nhỏ hay lớn. Bác nói dân góp ý cho chúng ta có điều sai, điều đúng đều là đáng quý. Về việc này ông Thích Chân Quang phải tự trách mình. Tôi cũng thế. Bác bảo: trước hết trách mình trước rồi hãy trách người khác. Tôi tin lẽ phải sẽ đi cùng năm tháng”.

Ngoài ra cần phải lưu ý thời điểm và ngữ cảnh khi Giáo sư Hoàng Chí Bảo khen ngợi ông Thích Chân Quang. Thời điểm đó cách nay đã 2 đến 3 năm rồi, lúc đó ông Quang chưa sa vào chủ nghĩa cá nhân, cũng không có bài thuyết giảng nào đi vào lòng đất như bây giờ. 
Do đó mọi sự chụp mũ rằng: “Giáo sư Hoàng Chí Bảo đang bao che cho ông Thích Chân Quang” là sự quy kết vô căn cứ, có ác ý.

Phần kết:
Có điều đáng nói, đáng lên án đó là; Có một số người được cho là yêu nước, nhưng chỉ vì yêu - gét một ai đó, đồng thời bị một đám youtuber bẩn dẫn dắt, đã có những lời nói xúc phạm rất nghiêm trọng đến GS Hoàng Chí Bảo trên không gian mạng, đây là điều không thể chấp nhận được.

Việc yêu ai, ghét ai là quyền của mỗi cá nhân, tôi hoàn toàn tôn trọng quyền đó. Nhưng tôi hy vọng mọi người khi yêu-ghét ai thì cũng đừng để cảm xúc làm mờ đi lý trí, khi đó ta sẽ không có được một cái đầu lạnh để nhìn nhận, đánh giá đúng-sai cho những vấn đề mà ta quan tâm, mọi đánh giá lúc này chỉ là cảm tính, thiếu khách quan, trung thực, rất dễ bị kẻ xấu khai thác lợi dụng.

Tôi có tình cờ xem kênh “Yén bạc TV”, bạn chủ kênh có tổng kết lại những lùm xùm vừa qua bằng một câu ngắn gọn mà tôi cho rằng cũng đáng để suy ngẫm: “thích Tuệ, gét Quang quàng qua Bảo”
Xin cảm ơn các bạn!

LẠI MỘT "ĐỐI TƯỢNG" Ở QUẢNG BÌNH XUYÊN TẠC CỐ TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

   Ngày 3/8, Công an Quảng Bình đã triệu tập đối tượng T.N.H (SN 1990), trú tại phường Bắc Lý, TP Đồng Hới để xử lý vì có hành vi lên mạng xã hội đăng tải các bài viết bịa đặt, sai sự thật về cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Tại cơ quan Công an, đối tượng T.N.H đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm pháp luật, tự nguyện gỡ các bài viết, sau đó đăng bài đính chính, công khai xin lỗi trên Facebook cá nhân.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Công an TP Đồng Hới đã lập biên bản vi phạm hành chính, ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T.N.H số tiền 7,5 triệu đồng về hành vi trên theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 101, Nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ./.
Yêu nước ST.

CẢNH GIÁC VỚI VIỆC LỢI DỤNG CUỘC CHÍNH BIẾN TẠI VENEZUELA ĐỂ KÍCH ĐỘNG TẠI VIỆT NAM!

 Trước tình hình phức tạp tại Venezuela những ngày qua, nhiều trang tin phản động, các đối tượng chống đối đã kích động tình hình chính trị tại Việt Nam. Các đối tượng cố tình so sánh và đưa ra những nhận định sai lệch nhằm gây phức tạp cho tình hình chính trị tại nước ta. Thực tế là, việc đa đảng không đảm bảo dân chủ và cũng không chắc chắn mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân như những luận điệu mà kẻ xấu đã đưa ra!


Chế độ chính trị của Việt Nam luôn nỗ lực vì quyền lợi của nhân dân, với những cải cách kinh tế và xã hội liên tục. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, từ xóa đói giảm nghèo đến phát triển cơ sở hạ tầng. Chính sự ổn định này đã tạo điều kiện cho cuộc sống người dân ngày càng cải thiện. 

Việc so sánh giữa tình hình Venezuela và Việt Nam là không hợp lý và thiếu cơ sở. Mỗi quốc gia có bối cảnh lịch sử và điều kiện phát triển khác nhau, không thể áp đặt một mô hình lên một quốc gia khác. Những luận điệu kích động chỉ nhằm mục đích gây rối, không mang lại lợi ích gì cho người dân.

Người dân Việt Nam cần cảnh giác trước những thông tin sai lệch và kích động. Hãy đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tiếp tục đồng lòng xây dựng một Việt Nam ngày càng phồn vinh. Chúng ta đã, đang và sẽ luôn cố gắng để đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc, không thể bị kẻ xấu kích động./.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: BẢN CHẤT KHÔNG CHÂN THÀNH!

 Xin được chia sẻ bài thơ này rất hay và sâu cay, hài hước, châm biếm sâu sắc, để nói về vấn đề Mỹ không công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Xin giới thiệu đến bạn đọc:

MỸ ĐẾ KIM TIỀN!
Việt - Mỹ đối tác ngang hàng
Nâng tầm chiến lược là vàng chữ tâm
Cớ sao bạn Mỹ vô tâm
Lại quảng cà rốt đánh thâm bạn vàng?
Trước mặt ăn nói đàng hoàng
Sau lưng dấu gậy sỗ sàng lắm thay!
Dân Việt nhìn phát biết ngay
Đâu là tri kỷ, đâu hay phản mình
Hàng trăm ông bạn phân minh
Nước to, nước nhỏ chân tình sống chung
Nhưng thấy nước Mỹ vô cùng...
Vô cùng xiên xỏ, lạnh lùng, dở khôn
Chơi bài Cà Rốt - cà Tung*
Vui quảng cà rốt, buồn vung gậy liền
Lạ gì cái lối xỏ xiên
Của anh "Mỹ đế kim tiền" các ông!
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHÂN QUYỀN, PHÂN CẤP GIỮA TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY!

    Pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương có vai trò rất quan trọng góp phần xây dựng chính quyền địa phương hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ sở phân tích những kết quả, hạn chế trong thực tiễn, bài viết đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay!


1. Mở đầu
Hiện nay, vấn đề phân quyền và phân cấp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn do nhận thức chưa đầy đủ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định:“Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa trung ương và địa phương”(1) và “Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”(2).

2. Khái niệm pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam
Về phân quyền. Nghiên cứu trên phương diện lý luận, phân quyền thường được chia thành phân quyền theo chiều ngang và phân quyền theo chiều dọc.

Phân quyền theo chiều ngang là cơ chế phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước theo ba chức năng cơ bản: lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm tính độc lập và cân bằng lẫn nhau giữa các quyền. Mức độ rõ ràng và mạnh mẽ của sự phân chia quyền lực này có thể khác biệt tùy thuộc vào truyền thống pháp lý và cấu trúc chính trị của từng quốc gia, điều này ảnh hưởng đến cách thức các quyền này tương tác và cân bằng lẫn nhau trong thực tiễn.

Phân quyền theo chiều dọc (theo cấp hành chính lãnh thổ) là cách phân chia quyền lực và trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương (CQĐP). Trong mô hình này, chính quyền trung ương trao một số quyền hạn để các địa phương tự quản lý các vấn đề kinh tế - xã hội và tài chính, dựa trên khung pháp luật quốc gia. Chính quyền địa phương, với tư cách là pháp nhân công quyền, được quyền tự ra quyết định nhưng vẫn phải tuân thủ và báo cáo về hiệu quả quản lý với trung ương. Chính quyền trung ương sẽ giám sát và kiểm tra hoạt động của địa phương qua các cơ chế, như thanh tra, kiểm tra và kiểm toán,… giúp điều chỉnh và hướng dẫn khi cần thiết.

Ở Việt Nam hiện nay, có thể hiểu phân quyền là việc Quốc hội bằng các đạo luật giao cho từng cấp chính quyền địa phương thực hiện một phạm vi công việc nhất định theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cấp được phân quyền giao nhiệm vụ làm chủ công việc của mình và chịu trách nhiệm thực hiện, không phải xin ý kiến cấp trên. Do đó, đối với việc được phân quyền không có quan hệ cấp trên - cấp dưới, cấp chính quyền chỉ được thực hiện theo quy định của luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và nhân dân địa phương(3).

Bên cạnh đó, trách nhiệm của chính quyền cấp trên được kiểm tra, thanh tra cấp dưới theo quy định của pháp luật. Pháp luật ở nước ta hiện nay quy định: “Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác. Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền”(4).

Về phân cấp được hiểu “là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp hành chính”, “…là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn do mình nắm giữ cho cấp dưới”(5). Phân cấp còn được hiểu “…là việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp hành chính để việc quản lý được thuận lợi và hiệu quả. Bản chất của phân cấp là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định do cấp mình đang nắm giữ cho cấp dưới thực hiện với nguyên tắc cấp dưới có đủ điều kiện, năng lực thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn ấy”(6); là chế độ quản lý hành chính “phân cho một tập thể hay một đơn vị hành chính - lãnh thổ tự quản lý, có tư cách pháp nhân, có những quyền hạn và những nguồn lực nhất định, dưới sự kiểm tra của Nhà nước”(7). 

Ở Việt Nam phân cấp thường áp dụng trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, do đó, chủ thể phân cấp thường là Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, và địa phương là hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện. Trong thực tế quản lý nhà nước từ khi có chính quyền mới năm 1945 đến nay, nước ta đã tiến hành phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền, trên cơ sở luật pháp hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền thông qua Luật Tổ chức CQĐP và Luật Tổ chức Chính phủ qua các thời kỳ. Hiện nay, pháp luật quy định việc phân cấp: “phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân cấp và cơ quan nhà nước được phân cấp”(8).

Pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương
Trong lĩnh vực phân quyền và phân cấp, pháp luật đặc biệt nhấn mạnh việc phân định rõ ràng quyền lực và trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và CQĐP. Điều này không chỉ tạo ra khung khổ pháp lý để các đơn vị hành chính cấp dưới tự quản lý các vấn đề địa phương dựa trên quy định pháp luật, mà còn giúp trung ương có cơ chế kiểm soát và đánh giá hiệu quả hoạt động của CQĐP. Pháp luật không chỉ là công cụ để Nhà nước thực thi quyền lực, mà còn là phương tiện để đạt được các mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, theo định hướng của Nhà nước. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết của việc thiết lập một hệ thống pháp luật minh bạch và hiệu quả, bảo đảm sự phân cấp hợp lý giữa các cấp chính quyền để ứng phó linh hoạt với các thách thức và nhu cầu phát triển của đất nước.

Từ quan điểm chung như trên có thể khái niệm Pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và CQĐP là hệ thống các quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, thể thức do pháp luật quy định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương theo mục đích, định hướng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3. Quá trình phát triển pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam
Thời kỳ đất nước có chiến tranh, tập trung giành độc lập, thống nhất đất nước, các quy định của pháp luật chủ yếu sử dụng phân cấp, phù hợp với đặc thù nhà nước đơn nhất, tập trung, thống nhất trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mô hình quản lý truyền thống này đã do đó đã đạt hiệu quả cao trong việc tập trung cao độ mọi nguồn lực cho chiến tranh. Sau ngày thống nhất đất nước (30-4-1975), do kéo dài cơ chế cũ với tình trạng chia cắt, ngăn sông cấm chợ đã đưa đất nước rơi vào khủng hoảng. Quyết định đổi mới năm 1986 của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thoát khỏi tình trạng trì trệ, đã đưa đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới có ý nghĩa lịch sử(9).

Để phát triển và hội nhập quốc tế, cơ chế, chính sách, pháp luật đã ngày càng đồng bộ nhằm giải phóng mọi nguồn lực. Địa phương từng bước được phân cấp theo quy mô nhiều hơn, được tự chủ, tự chịu trách nhiệm huy động nguồn lực của địa phương cho phát triển.

Cùng với sự phát triển của đất nước, việc phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương đã được quy định ngày một đầy đủ hơn trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức CQĐP, các văn bản pháp luật chuyên ngành. Cụ thể như sau:

Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, tập trung vào việc cải cách tổ chức bộ máy chính CQĐP. Chương trình này nhằm mục đích phân cấp quyền hạn một cách rõ ràng và hợp lý giữa trung ương và các địa phương, cũng như phân biệt các chức năng và nhiệm vụ giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, đồng thời củng cố cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND).

Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã có những bổ sung, sửa đổi để phù hợp với các quy định mới, nhằm thực hiện phân cấp quản lý nhà nước hiệu quả hơn cho các đô thị, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh. Theo Nghị định số 93/2001/NĐ-CP ngày 12-12-2001, Thành phố Hồ Chí Minh được trao quyền tự chủ rộng rãi trong việc quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, quản lý nhà đất và hạ tầng kỹ thuật đô thị, ngân sách và tổ chức bộ máy cán bộ, công chức.

Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30-6-2004 của Chính phủ tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết của việc phân cấp quản lý nhà nước, đặc biệt giữa Chính phủ và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nghị quyết này đặc biệt tập trung vào phân cấp trong các lĩnh vực quan trọng như quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển, quản lý ngân sách nhà nước, quản lý đất đai, tài nguyên và tài sản nhà nước, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công cùng quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức.

Hiến pháp năm 2013 đã hiến định khái niệm phân quyền, phân cấp và Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII yêu cầu phải thực hiện phân quyền, phân cấp hợp lý, mạnh mẽ giữa trung ương và CQĐP, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn và trách nhiệm, yêu cầu rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, khắc phục chồng chéo, trùng lặp và sự phân tán, tập trung quá mức. Điều 12 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”(10).

Khẳng định nguyên tắc phân quyền, phân cấp, tại Điều 5, khoản 4 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 nêu rõ: “Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương”(11) và một số nội dung phân cấp quan trọng, tạo cơ sở đẩy mạnh phân cấp hợp lý trên các lĩnh vực.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, những nội dung về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương đã được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015(12).

Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21-3-2016 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và các ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đặt ra nguyên tắc cơ bản nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Nguyên tắc này nhấn mạnh sự quản lý thống nhất của Chính phủ, đồng thời khuyến khích sự chủ động, trách nhiệm và tinh thần sáng tạo của CQĐP.

Việc phân cấp được thiết kế để bảo đảm một cách quản lý nhất quán từ trung ương xuống cấp tỉnh, tăng cường khả năng ứng phó và giải quyết vấn đề tại chỗ của các cơ quan địa phương, qua đó phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Nghị quyết yêu cầu rõ ràng hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cho mỗi cấp quản lý, từ Chính phủ, Thủ tướng, các bộ và ngành, đến chính quyền tỉnh, đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.

Thực tiễn quản lý điều hành, việc thực hiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương đã xuất hiện nhiều bất cập như: bất cập về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, tài chính… Vì vậy, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP (ngày 22-11-2019); trong đó sửa đổi Điều 12 - Phân quyền cho chính quyền địa phương và Điều 13 - Phân cấp cho chính quyền địa phương. Luật quy định rõ khi thực hiện phân quyền, phân cấp phải bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác của địa phương; chính quyền địa phương phải “chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp”(13).

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHÂN QUYỀN, PHÂN CẤP GIỮA TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY!

     Pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương có vai trò rất quan trọng góp phần xây dựng chính quyền địa phương hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ sở phân tích những kết quả, hạn chế trong thực tiễn, bài viết đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay!

1. Mở đầu
Hiện nay, vấn đề phân quyền và phân cấp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn do nhận thức chưa đầy đủ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định:“Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa trung ương và địa phương”(1) và “Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”(2).

2. Khái niệm pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam
Về phân quyền. Nghiên cứu trên phương diện lý luận, phân quyền thường được chia thành phân quyền theo chiều ngang và phân quyền theo chiều dọc.

Phân quyền theo chiều ngang là cơ chế phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước theo ba chức năng cơ bản: lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm tính độc lập và cân bằng lẫn nhau giữa các quyền. Mức độ rõ ràng và mạnh mẽ của sự phân chia quyền lực này có thể khác biệt tùy thuộc vào truyền thống pháp lý và cấu trúc chính trị của từng quốc gia, điều này ảnh hưởng đến cách thức các quyền này tương tác và cân bằng lẫn nhau trong thực tiễn.

Phân quyền theo chiều dọc (theo cấp hành chính lãnh thổ) là cách phân chia quyền lực và trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương (CQĐP). Trong mô hình này, chính quyền trung ương trao một số quyền hạn để các địa phương tự quản lý các vấn đề kinh tế - xã hội và tài chính, dựa trên khung pháp luật quốc gia. Chính quyền địa phương, với tư cách là pháp nhân công quyền, được quyền tự ra quyết định nhưng vẫn phải tuân thủ và báo cáo về hiệu quả quản lý với trung ương. Chính quyền trung ương sẽ giám sát và kiểm tra hoạt động của địa phương qua các cơ chế, như thanh tra, kiểm tra và kiểm toán,… giúp điều chỉnh và hướng dẫn khi cần thiết.

Ở Việt Nam hiện nay, có thể hiểu phân quyền là việc Quốc hội bằng các đạo luật giao cho từng cấp chính quyền địa phương thực hiện một phạm vi công việc nhất định theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cấp được phân quyền giao nhiệm vụ làm chủ công việc của mình và chịu trách nhiệm thực hiện, không phải xin ý kiến cấp trên. Do đó, đối với việc được phân quyền không có quan hệ cấp trên - cấp dưới, cấp chính quyền chỉ được thực hiện theo quy định của luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và nhân dân địa phương(3).

Bên cạnh đó, trách nhiệm của chính quyền cấp trên được kiểm tra, thanh tra cấp dưới theo quy định của pháp luật. Pháp luật ở nước ta hiện nay quy định: “Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác. Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền”(4).

Về phân cấp được hiểu “là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp hành chính”, “…là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn do mình nắm giữ cho cấp dưới”(5). Phân cấp còn được hiểu “…là việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp hành chính để việc quản lý được thuận lợi và hiệu quả. Bản chất của phân cấp là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định do cấp mình đang nắm giữ cho cấp dưới thực hiện với nguyên tắc cấp dưới có đủ điều kiện, năng lực thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn ấy”(6); là chế độ quản lý hành chính “phân cho một tập thể hay một đơn vị hành chính - lãnh thổ tự quản lý, có tư cách pháp nhân, có những quyền hạn và những nguồn lực nhất định, dưới sự kiểm tra của Nhà nước”(7). 

Ở Việt Nam phân cấp thường áp dụng trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, do đó, chủ thể phân cấp thường là Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, và địa phương là hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện. Trong thực tế quản lý nhà nước từ khi có chính quyền mới năm 1945 đến nay, nước ta đã tiến hành phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền, trên cơ sở luật pháp hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền thông qua Luật Tổ chức CQĐP và Luật Tổ chức Chính phủ qua các thời kỳ. Hiện nay, pháp luật quy định việc phân cấp: “phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân cấp và cơ quan nhà nước được phân cấp”(8).

Pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương
Trong lĩnh vực phân quyền và phân cấp, pháp luật đặc biệt nhấn mạnh việc phân định rõ ràng quyền lực và trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và CQĐP. Điều này không chỉ tạo ra khung khổ pháp lý để các đơn vị hành chính cấp dưới tự quản lý các vấn đề địa phương dựa trên quy định pháp luật, mà còn giúp trung ương có cơ chế kiểm soát và đánh giá hiệu quả hoạt động của CQĐP. Pháp luật không chỉ là công cụ để Nhà nước thực thi quyền lực, mà còn là phương tiện để đạt được các mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, theo định hướng của Nhà nước. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết của việc thiết lập một hệ thống pháp luật minh bạch và hiệu quả, bảo đảm sự phân cấp hợp lý giữa các cấp chính quyền để ứng phó linh hoạt với các thách thức và nhu cầu phát triển của đất nước.

Từ quan điểm chung như trên có thể khái niệm Pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và CQĐP là hệ thống các quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, thể thức do pháp luật quy định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương theo mục đích, định hướng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3. Quá trình phát triển pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam
Thời kỳ đất nước có chiến tranh, tập trung giành độc lập, thống nhất đất nước, các quy định của pháp luật chủ yếu sử dụng phân cấp, phù hợp với đặc thù nhà nước đơn nhất, tập trung, thống nhất trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mô hình quản lý truyền thống này đã do đó đã đạt hiệu quả cao trong việc tập trung cao độ mọi nguồn lực cho chiến tranh. Sau ngày thống nhất đất nước (30-4-1975), do kéo dài cơ chế cũ với tình trạng chia cắt, ngăn sông cấm chợ đã đưa đất nước rơi vào khủng hoảng. Quyết định đổi mới năm 1986 của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thoát khỏi tình trạng trì trệ, đã đưa đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới có ý nghĩa lịch sử(9).

Để phát triển và hội nhập quốc tế, cơ chế, chính sách, pháp luật đã ngày càng đồng bộ nhằm giải phóng mọi nguồn lực. Địa phương từng bước được phân cấp theo quy mô nhiều hơn, được tự chủ, tự chịu trách nhiệm huy động nguồn lực của địa phương cho phát triển.

Cùng với sự phát triển của đất nước, việc phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương đã được quy định ngày một đầy đủ hơn trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức CQĐP, các văn bản pháp luật chuyên ngành. Cụ thể như sau:

Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, tập trung vào việc cải cách tổ chức bộ máy chính CQĐP. Chương trình này nhằm mục đích phân cấp quyền hạn một cách rõ ràng và hợp lý giữa trung ương và các địa phương, cũng như phân biệt các chức năng và nhiệm vụ giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, đồng thời củng cố cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND).

Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã có những bổ sung, sửa đổi để phù hợp với các quy định mới, nhằm thực hiện phân cấp quản lý nhà nước hiệu quả hơn cho các đô thị, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh. Theo Nghị định số 93/2001/NĐ-CP ngày 12-12-2001, Thành phố Hồ Chí Minh được trao quyền tự chủ rộng rãi trong việc quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, quản lý nhà đất và hạ tầng kỹ thuật đô thị, ngân sách và tổ chức bộ máy cán bộ, công chức.

Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30-6-2004 của Chính phủ tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết của việc phân cấp quản lý nhà nước, đặc biệt giữa Chính phủ và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nghị quyết này đặc biệt tập trung vào phân cấp trong các lĩnh vực quan trọng như quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển, quản lý ngân sách nhà nước, quản lý đất đai, tài nguyên và tài sản nhà nước, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công cùng quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức.

Hiến pháp năm 2013 đã hiến định khái niệm phân quyền, phân cấp và Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII yêu cầu phải thực hiện phân quyền, phân cấp hợp lý, mạnh mẽ giữa trung ương và CQĐP, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn và trách nhiệm, yêu cầu rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, khắc phục chồng chéo, trùng lặp và sự phân tán, tập trung quá mức. Điều 12 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”(10).

Khẳng định nguyên tắc phân quyền, phân cấp, tại Điều 5, khoản 4 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 nêu rõ: “Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương”(11) và một số nội dung phân cấp quan trọng, tạo cơ sở đẩy mạnh phân cấp hợp lý trên các lĩnh vực.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, những nội dung về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương đã được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015(12).

Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21-3-2016 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và các ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đặt ra nguyên tắc cơ bản nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Nguyên tắc này nhấn mạnh sự quản lý thống nhất của Chính phủ, đồng thời khuyến khích sự chủ động, trách nhiệm và tinh thần sáng tạo của CQĐP.

Việc phân cấp được thiết kế để bảo đảm một cách quản lý nhất quán từ trung ương xuống cấp tỉnh, tăng cường khả năng ứng phó và giải quyết vấn đề tại chỗ của các cơ quan địa phương, qua đó phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Nghị quyết yêu cầu rõ ràng hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cho mỗi cấp quản lý, từ Chính phủ, Thủ tướng, các bộ và ngành, đến chính quyền tỉnh, đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.

Thực tiễn quản lý điều hành, việc thực hiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương đã xuất hiện nhiều bất cập như: bất cập về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, tài chính… Vì vậy, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP (ngày 22-11-2019); trong đó sửa đổi Điều 12 - Phân quyền cho chính quyền địa phương và Điều 13 - Phân cấp cho chính quyền địa phương. Luật quy định rõ khi thực hiện phân quyền, phân cấp phải bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác của địa phương; chính quyền địa phương phải “chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp”(13).

4. Thực trạng pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay
Kết quả đã đạt được
Một là, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2019, khẳng định thẩm quyền của Chính phủ trong việc phân quyền và phân cấp cho các CQĐP. Đây là một thay đổi lớn so với quy định trước đây trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, khi Luật này chỉ đề cập đến thẩm quyền phân công và phân cấp, không rõ ràng về phân quyền.

Việc định rõ thẩm quyền phân quyền của Chính phủ cho các cấp CQĐP đánh dấu một bước tiến quan trọng trong chính sách phân quyền, phân cấp ở Việt Nam, tạo khung khổ pháp lý cho việc tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm của chính quyền địa phương, từ đó góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển địa phương(14).

Hai là, Điều 25 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định rõ thẩm quyền phân quyền, phân cấp của Chính phủ phải trên cơ sở quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định về phân quyền cho CQĐP cũng khẳng định: “Việc phân quyền cho mỗi cấp CQĐP phải được quy định trong các luật” (Điều 12, khoản1). Điều đó có nghĩa là việc phân quyền cho CQĐP phải dựa trên cơ sở pháp lý căn bản, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền XHCN.

Ba là, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP cũng quy định cụ thể, rõ ràng hơn về yêu cầu, điều kiện phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương. Luật Tổ chức CQĐP quy định: Phân cấp cho CQĐP phải “Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (Điều 13, khoản 1). “Cơ quan nhà nước cấp trên khi phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới phải bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp” (Điều 13, khoản 3).

Bốn là, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP đã xác định rõ cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Luật Tổ chức CQĐP ghi: “Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp” (Điều 13, khoản 4) và “Cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương” (Điều 12, khoản 3).

Triển khai thực hiện các quy định về phân cấp quản lý trong các luật, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 99/2020/NQ-CP ngày 24-6-2020 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực; và Nghị quyết số 04/2022/NQ-CP ngày 10-01-2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước. Nghị quyết số 99/2020/NQ-CP ngày 24-6-2020 của Chính phủ Việt Nam đặt ra các chỉ đạo chiến lược để cải thiện quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực, bằng cách phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp hành chính. Nghị quyết này nhấn mạnh sự cần thiết của việc quản lý tập trung, thống nhất từ Chính phủ, trong khi vẫn bảo đảm sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các chính quyền địa phương. Mục tiêu là khai thác tối đa tiềm năng của mỗi địa phương, đồng thời quy định rõ ràng nguyên tắc: một việc chỉ được giao quản lý cho không quá hai cấp hành chính để tăng hiệu quả giám sát và kiểm soát. Nghị quyết số 04/2022/NQ-CP ngày 10-01-2022, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước. Nghị quyết làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa Chính phủ và các bộ, ngành, cũng như giữa các cấp chính quyền, nhằm tăng cường hiệu quả quản lý và phát huy sự chủ động, sáng tạo của các cấp. Đặc biệt, nghị quyết này phân biệt giữa các nhiệm vụ và quyền hạn theo ngành và lĩnh vực, được phân thành hai nhóm chính: 1) Hoàn thiện các quy định phân quyền quản lý nhà nước giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và CQĐP theo ngành, lĩnh vực (11 ngành, lĩnh vực); 2) Hoàn thiện phân cấp giữa Chính phủ với các bộ, ngành theo ngành, lĩnh vực (6 ngành, lĩnh vực) và hoàn thiện phân cấp giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và CQĐP theo ngành, lĩnh vực (14 ngành, lĩnh vực). Nghị quyết nhấn mạnh sự cần thiết của việc kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp, cũng như yêu cầu xác định rõ các văn bản pháp lý cần được sửa đổi hoặc bổ sung để hỗ trợ việc phân quyền và phân cấp hiệu quả.

Các văn bản pháp luật nói trên tạo nên chính sách khung về phân quyền, phân cấp; đồng thời thể hiện quan điểm, mục tiêu, nội dung và các giải pháp về phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước.

Một số hạn chế, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP ở Việt Nam còn một số hạn chế, vướng mắc sau đây:

Một là, việc phân quyền và phân cấp giữa trung ương và CQĐP ở Việt Nam theo quy định hiện tại còn có những bất cập. Hiến pháp năm 2013 chỉ nêu lên nguyên tắc chung về phân cấp, không đi vào chi tiết các điều kiện cụ thể. Luật Tổ chức Chính phủ 2015 và Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 cũng chỉ đưa ra khung chung về phân quyền và phân cấp, yêu cầu phải theo các luật định và nghị quyết từ Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Dù có sửa đổi và bổ sung năm 2019, Luật Tổ chức CQĐP vẫn chưa giải quyết được vấn đề thiếu rõ ràng về nguyên tắc, phạm vi, và giới hạn của quyền phân cấp. Luật chưa làm rõ các nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể nào thuộc về CQĐP, cụ thể với UBND các cấp, gây khó khăn trong việc triển khai các chính sách một cách hiệu quả. Mọi quyết định về phân cấp cho các cấp huyện và xã, hoặc các cơ quan khác, đều cần được HĐND cùng cấp thông qua bằng nghị quyết, dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình phê duyệt và thực hiện. Thêm vào đó, các nguyên tắc về phân cấp và ủy quyền trong quản lý nhà nước chưa được cụ thể hóa đối với từng lĩnh vực, làm giảm tính hiệu quả và linh hoạt trong quản lý các vấn đề ở địa phương.

Hai là, pháp luật quy định nguyên tắc phân quyền và phân cấp giữa các cấp hành chính chưa được phân định rõ ràng, dẫn đến còn có sự hiểu biết khác nhau về cách thức quản lý một công việc giữa các cấp địa phương. Luật Tổ chức CQĐP, dù đã được sửa đổi và bổ sung năm 2019, vẫn còn thiếu rõ ràng trong việc quy định cụ thể nhiệm vụ và thẩm quyền giữa các cấp chính quyền, giữa xã và phường. Điều này gây khó khăn trong việc phân biệt rõ ràng chức năng và trách nhiệm giữa các đơn vị hành chính. Đặc biệt, trong quy định về nhiệm vụ và thẩm quyền giữa HĐND và UBND tại các cấp, luật vẫn chưa làm rõ được sự khác biệt đáng kể trong chức năng và nhiệm vụ của hai cơ quan này, khiến cho việc lập kế hoạch và triển khai chính sách chưa thực sự được minh bạch và rõ ràng. Sự không rành mạch này có thể dẫn đến sự chồng chéo nhiệm vụ và thẩm quyền, gây ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước tại cơ sở.

Ba là, pháp luật quy định sự phân định trách nhiệm và quyền hạn giữa trung ương và CQĐP, cũng như giữa các cấp CQĐP trong các lĩnh vực như quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường; quản lý thị trường, và quản lý dịch vụ công vẫn còn một số bất cập. Mặc dù đã có các quy định nhưng sự phân chia quyền hạn và trách nhiệm thường không đồng đều, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai và giám sát thực hiện.

Bốn là, pháp luật quy định nội dung phân quyền, phân cấp quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công gần giống nhau theo từng cấp hành chính, trong khi đó mỗi loại hình đơn vị hành chính cùng cấp (chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo…) ở những loại hình đơn vị hành chính này có sự khác biệt rất lớn về: Vị trí địa lý tự nhiên, mật độ dân cư, trình độ dân trí, có sở hạ tầng giao thông, trình độ phát triển kinh tế, yêu cầu quản lý nhà nước…, đòi hỏi phải có chính sách, cơ chế phân quyền, phân cấp khác nhau, phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính. Thực tế, pháp luật đang quy định phân quyền, phân cấp gần giống nhau giữa chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn, chính quyền huyện đảo.

Năm là, pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương chỉ có hiệu lực, hiệu quả khi cần phải có một khung khổ pháp lý để giám sát, kiểm tra, thanh tra khoa học. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn có hạn chế về hành lang pháp lý cụ thể về vấn đề này, nhất là những chế tài xử lý đối với các vi phạm về phân cấp, phân quyền(15).

5. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Định hướng hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Trong thời gian tới việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP ở Việt Nam cần bám sát các định hướng lớn sau đây:

Một là, các quy định pháp luật về phân quyền và phân cấp giữa trung ương và CQĐP phải được xây dựng dựa trên sự nhận thức sâu sắc về bản chất và đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và phục vụ cho mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trong bối cảnh mới hiện nay. Theo đó, Nhà nước XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục tiêu thực thi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, nhất quán và nghiêm minh. Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và thượng tôn, bảo đảm quyền con người và quyền công dân được bảo vệ hiệu quả.

Hai là, pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP bảo đảm phân rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp, vừa quản trị nhà nước thống nhất, vừa tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ được phân quyền của CQĐP, khuyến khích đổi mới, sáng tạo thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển của CQĐP, và cộng đồng các địa phương.

Ba là, pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP phải phù hợp trình độ, năng lực quản trị của từng cấp, từng loại hình của CQĐP ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt; phát huy mạnh mẽ hơn tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền đô thị trong quản lý điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; gắn việc phân quyền, phân cấp với tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ương và cơ quan nhà nước cấp trên, xử lý kịp thời các sai sót của chính quyền địa phương, của cấp dưới; đồng thời tăng tính công khai, minh bạch trong sử dụng tài chính, ngân sách, tài sản công và bố trí nguồn nhân lực, tránh lãng phí, sử dụng kém hiệu quả hoặc để xảy ra tình trạng tham nhũng.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Một là, hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP trước mắt về phía chủ thể có thẩm quyền ban hành pháp luật cần có chuyển biến nhận thức về vai trò mới của Nhà nước pháp quyền trong quản trị quốc gia hiện đại, lấy quản trị nhà nước làm trung tâm. Phải loại bỏ, khắc phục tư duy xây dựng pháp luật dựa trên cơ chế quản lý tập trung, xin - cho quá mức không phù hợp với thể chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, không phù hợp với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước theo yêu cầu hiện đại hóa và hội nhập quốc tế toàn diện hiện nay.

Hai là, từ thực tiễn xây dựng, ban hành pháp luật thời gian vừa qua cần tiến hành một đề án lớn về tổng rà soát những nhiệm vụ đã phân quyền, phân cấp, xác định những việc cần làm của từng cấp từ trung ương xuống địa phương. Luật hóa nguyên tắc: 1) cấp nào làm tốt nhất, hiệu quả nhất thì phân quyền, phân cấp cho cấp đó; 2) một việc chỉ có một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm, khắc phục chồng chéo chức năng, nhiệm vụ.

Ba là, nghiên cứu xem xét xây dựng “Luật Phân quyền, phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương”, trong đó đẩy mạnh phân quyền, phân cấp cho các cấp CQĐP, bảo đảm rõ ràng nguyên tắc: 1) phân quyền do luật định; 2) phân cấp phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan phân cấp. Từ đó, giúp cho CQĐP có cơ sở pháp lý sẽ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý phát triển CQĐP theo hướng hiện đại.

Bốn là, hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa các cấp CQĐP và pháp luật về tổ chức bộ máy phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng loại hình đơn vị hành chính(16) với tinh thần: Đẩy mạnh tự chủ về tài chính, tiếp đến sẽ tự chủ về bộ máy và tự chủ về nhân sự.

Năm là, hoàn thiện pháp luật theo hướng phân định rõ thẩm quyền, kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ và phù hợp với xu hướng quản trị địa phương trong giai giai đoạn mới.

Phân định rõ những nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ, ngành (quản lý theo chức năng) với nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cấp chính quyền địa phương (quản lý theo lãnh thổ); bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa ngành và cấp trong triển khai, gắn với đổi mới cơ chế và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị cơ sở. Bảo đảm sự tương xứng, đồng bộ giữa việc giao nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác(17). Cần hoàn thiện pháp luật theo hướng trên cơ sở phân quyền, phân cấp giữa trung ương cho địa phương, cho cơ sở và có cơ chế bảo đảm sự chủ động tham gia quản lý nhà nước của các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, thiết chế truyền thông và nhân dân trong phạm vi thẩm quyền đã được phân cấp, bảo đảm quản trị địa phương hiệu quả cao.

Sáu là, hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP trong đó chú trọng cơ chế kiểm soát khi thực hiện phân cấp, phân quyền hiệu lực, hiệu quả.

6. Kết luận
Phân quyền, phân cấp mạnh mẽ giữa trung ương và CQĐP là yêu cầu tất yếu đặt ra trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay để bộ máy nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương sẽ góp phần tạo khung khổ pháp lý thúc đẩy sự vận hành của cơ chế phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP, thúc đẩy sự phát triển của đất nước, đáp ứng được yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa của Việt Nam hiện nay./.
___________________
(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.225, 287.

(3), (9) Thang Văn Phúc: Những vấn đề trọng tâm về phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và chính quyền địa phương trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: “Những vấn đề mới, đột phá trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, TP. Hồ Chí Minh, tháng 3 - 2022, tr.317, 318.

(4), (8), (12), (13) Văn phòng Quốc hội, số: 22/VBHN-VPQH, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, ngày 16-12-2019: Điều 12; Điều 13; Điều 12,13; Điều 11 Khoản 2, điểm e.

(5) Phạm Hồng Thái, Phân quyền và phân cấp trong quản lý nhà nước - Một số khía cạnh lý luận - thực tiễn và pháp lý, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, số 27 - 2011, tr.5.

(6) Nguyễn Thị Thu Hà: Phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XII, https://tcnn.vn/.

(7) BộTư pháp, Viện Khoa học pháp: Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.614-615.

(10) Quốc hội, Hiến pháp năm 2013; Điều 112.

(11) Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Điều 5

(14), (15), (16), (17) Bộ Nội vụ, Viện Khoa học tổ chức nhà nước: Định hướng hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và giải pháp tổ chức thực hiện, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cấp quốc gia “Định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng” do Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, tr.271, 275, 278, 279./.
Yêu nước ST.

CÙ HUY HÀ VŨ - VỰC SÂU LÀ DO ANH TỰ TÌM ĐẾN VÀ LAO XUỐNG!

     Cù Huy Hà Vũ là con trai của cụ Cù Huy Cận, một trong những vị cách mạng tiền bối của đất nước ta. Cụ Cù Huy Cận, Nguyễn Lương Bằng và Trần Huy Liệu thay mặt cho chính quyền cách mạng đã tiếp nhận ấn kiếm từ tay vua Bảo Đại vào ngày 30.8.1945 tại lầu Ngũ Phụng cửa Ngọ Môn (Huế) sau khi nhà vua đọc chiếu thoái vị. Cù Huy Hà Vũ được sinh ra trong cái nôi cách mạng, được tạo điều kiện để học tập đến tiến sĩ. Thế nhưng chỉ vì hám danh, hám lợi, bất mãn vì không được leo cao mà trở cờ, bội phản. Cù Huy Hà Vũ được các tổ chức phản động ở hải ngoại đặt ống đu đủ vào ruột cùng và bơm thổi y thành "kẻ sĩ', thành "nhân sĩ trí thức", "nhà đấu tranh dân chủ". Cứ thế, anh ta trượt rất dài trên đường băng khốn nạn và tội lỗi!

Cái gì đến cũng phải đến, Vũ bị bắt ngày vào 5 tháng 11 năm 2010 tại thành phố Hồ Chí Minh, bị khởi tố ngày 15 tháng 11 năm 2010 về tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phải thi hành án tù 7 năm sau khi tòa sơ thẩm ngày 4 tháng 4 năm 2011 tuyên án, và phiên tòa phúc thẩm diễn ra ngày 2 tháng 8 giữ nguyên bản án, nhưng sau đó Vũ đã được trả tự do trước hạn tối chủ nhật ngày 6 tháng 4 năm 2014 và được đưa thẳng từ nhà tù đến sân bay Nội Bài để cùng vợ sang Mỹ! Thiên đường của xứ tự do, dân chủ Hoa Kỳ là niềm ước ao bấy lâu của anh ta. Khi vừa sang Mỹ, tổ chức ân xá Quốc tế gọi y là "tù nhân lương tâm". Một số tổ chức chống cộng cực đoan săn đón những ngày đầu, họ tổ chức phỏng vấn, đăng tải nhiều bài viết của y. 

Thế nhưng đời không như là mơ! Hoa Kỳ là nơi mà các hội, đoàn chống cộng thi nhau tranh giành tầm ảnh hưởng của mình theo kiểu "quần khuyển tranh cốt" (đàn chó tranh xương). Cù Huy Hà Vũ dần dần nếm trải cảm giác chạy ăn từng bữa khi đã hết giá trị lợi dụng. Ngày còn ở trong tù Việt Nam nhìn Hà Vũ béo tốt dù luôn mồm xuyên tạc, bịa đặt về cái gọi là "đối xử không tốt với tù nhân lương tâm" và y rêu rao "tuyệt thực". Ấy thế nhưng khi đạt mục đích là đến với "xứ tự do" thì trông y chẳng khác nào một người đói ăn trong nạn đói lịch sử năm 1945. Nhân quả luân hồi, báo ứng. Từ cổ chí kim những kẻ phản quốc chưa bao giờ có cái kết tốt đẹp! Ra đi không thẹn bằng khi trở về. Giờ đây khi đã sáng mắt ra thì mong muốn duy nhất là trở về quê hương "tôi còn hộ chiếu tôi sẽ trở về nước". 

Được đảng, nhà nước cho ăn học tử tế nhưng lại trở cờ theo giặc, thường xuyên chống phá sự bình yên của đất nước ta, luôn ôm dạ phản trắc, thấy lợi nhỏ quên nghiệp lớn, bán rẻ tổ quốc và luôn có tư tưởng thờ ngoại bang. Kêu gọi phương Tây can thiệp chuyện nội bộ của Việt Nam. Ảo tưởng và luôn cho mình là học cao, biết rộng; trên thông thiên văn, dưới tường địa lý nhưng có một điều chắc chắc là trung hiếu, sỉ nhục những cái làm nền tảng để làm nên kẻ sĩ thì Cù Huy Hà Vũ lại không hề có. Vì danh lợi mà sẵn sàng mang thân dê chó thờ ngoại quốc, uốn lưỡi cú diều mà chê bai, bôi nhọ chế độ đã rửa cái nhục nộ lệ cho đất nước; chế độ đã dẫn dắt con thuyền độc lập, tự do đến với bến bờ hạnh phúc như hôm nay. 

Cù Huy Hà Vũ là cái gương tày liếp, bài học nhãn tiền cho những kẻ cố tình đi ngược lại lợi ích của dân tộc, chống phá tổ quốc! Người mẹ hiền Việt Nam luôn sẵn sàng giang rộng vòng tay để đón những đứa con lầm lỗi trở về, có điều là đứa con đó phải thành tâm sám hối! Nhìn Cù Huy Hà Vũ bây giờ vừa giận lại vừa tiếc nuối. 

Giận là giận kẻ quay lưng với tổ quốc; tiếc là tiếc cho một con người được sinh ra trong môi trường tốt, ăn học đủ đầy nhưng lệch lạc về tư tưởng, u mê trong nhận thức và ngu xuẩn về lý luận! Hãy lấy đó làm gương! Cù Huy Hà Vũ chọn cho mình con đường là vực sâu của tội lỗi. Còn đường do anh ta tự tìm đến. Chẳng thể oán trách ai./.
Yêu nước ST.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: BẢN CHẤT KHÔNG CHÂN THÀNH!

     Xin được chia sẻ bài thơ này rất hay và sâu cay, hài hước, châm biếm sâu sắc, để nói về vấn đề Mỹ không công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Xin giới thiệu đến bạn đọc:
MỸ ĐẾ KIM TIỀN!
Việt - Mỹ đối tác ngang hàng
Nâng tầm chiến lược là vàng chữ tâm
Cớ sao bạn Mỹ vô tâm
Lại quảng cà rốt đánh thâm bạn vàng?
Trước mặt ăn nói đàng hoàng
Sau lưng dấu gậy sỗ sàng lắm thay!
Dân Việt nhìn phát biết ngay
Đâu là tri kỷ, đâu hay phản mình
Hàng trăm ông bạn phân minh
Nước to, nước nhỏ chân tình sống chung
Nhưng thấy nước Mỹ vô cùng...
Vô cùng xiên xỏ, lạnh lùng, dở khôn
Chơi bài Cà Rốt - cà Tung*
Vui quảng cà rốt, buồn vung gậy liền
Lạ gì cái lối xỏ xiên
Của anh "Mỹ đế kim tiền" các ông!
Yêu nước ST.

CẢNH GIÁC VỚI VIỆC LỢI DỤNG CUỘC CHÍNH BIẾN TẠI VENEZUELA ĐỂ KÍCH ĐỘNG TẠI VIỆT NAM!

     Trước tình hình phức tạp tại Venezuela những ngày qua, nhiều trang tin phản động, các đối tượng chống đối đã kích động tình hình chính trị tại Việt Nam. Các đối tượng cố tình so sánh và đưa ra những nhận định sai lệch nhằm gây phức tạp cho tình hình chính trị tại nước ta. Thực tế là, việc đa đảng không đảm bảo dân chủ và cũng không chắc chắn mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân như những luận điệu mà kẻ xấu đã đưa ra!

Chế độ chính trị của Việt Nam luôn nỗ lực vì quyền lợi của nhân dân, với những cải cách kinh tế và xã hội liên tục. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, từ xóa đói giảm nghèo đến phát triển cơ sở hạ tầng. Chính sự ổn định này đã tạo điều kiện cho cuộc sống người dân ngày càng cải thiện. 

Việc so sánh giữa tình hình Venezuela và Việt Nam là không hợp lý và thiếu cơ sở. Mỗi quốc gia có bối cảnh lịch sử và điều kiện phát triển khác nhau, không thể áp đặt một mô hình lên một quốc gia khác. Những luận điệu kích động chỉ nhằm mục đích gây rối, không mang lại lợi ích gì cho người dân.

Người dân Việt Nam cần cảnh giác trước những thông tin sai lệch và kích động. Hãy đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tiếp tục đồng lòng xây dựng một Việt Nam ngày càng phồn vinh. Chúng ta đã, đang và sẽ luôn cố gắng để đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc, không thể bị kẻ xấu kích động./.
Yêu nước ST.

DƯ LUẬN CẦN CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG “VIRUS” ĐỘC HẠI DO “VIỆT TÂN” TÁN PHÁT TRÊN MẠNG XÃ HỘI!

     Thông cáo của Văn phòng Trung ương Đảng phát ngay sau hội nghị cho biết căn cứ các quy định của Đảng, trên cơ sở định hướng giới thiệu nhân sự của Bộ Chính trị, Trung ương đã thảo luận dân chủ, thống nhất rất cao với số phiếu tuyệt đối 100% bầu ông Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 13!

Ngay sau khi thông cáo trên được các phương tiện truyền thông đại chúng trong và ngoài nước chia sẻ, đám kền kền “Việt Tân” và số chống đối chính trị ở ngoài nước đã chính thức mở chiến dịch công kích, bôi nhọ, hạ bệ uy tín, danh dự Tổng Bí thư Tô Lâm. Vẫn cái gọi là “bình cũ rượu mới”, khi các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhậm chức, họ đều tổ chức các chiến dịch “truyền thông bẩn” như vậy. Cho nên, không bất ngờ, lạ lẫm khi đám kền kền “việt tân” liên tiếp cho ra đời một seri bài viết nói xấu tân Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Với chiêu trò, thủ đoạn quen thuộc, chúng tìm cách “bới lông tìm vết”, “ngụy tạo chứng cứ” về các vấn đề đời tư, năng lực lãnh đạo, quan hệ xã hội… của Tổng Bí thư Tô Lâm, dùng ngòi bút từ não trạng của kẻ "thần kinh chính trị" vẽ nên những câu chuyện hoang đường, “nửa đục nửa trong” theo dạng “thâm cung bí sử”, kích thích sự tò mò, theo dõi của dư luận xã hội, dẫn dắt những người nhẹ dạ cả tin theo định hướng tiêu cực.

Một thực tế cho thấy, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước càng liêm chính, thể hiện rõ nét vai trò, năng lực lãnh đạo, được nhân dân kính mến, thì đám kền kền càng điên cuồng chống phá theo kiểu “đỉa gặp phải vôi”. Cho nên, trong thời gian tới, những bài viết xuyên tạc, những thông tin “lá cải” sẽ được chúng tăng cường phát tán trên không gian mạng. Vì vậy, chúng ta cần nâng cao cảnh giác, tăng cường sự “miễn dịch” trước những thứ “virus” độc hại mà “Việt Tân” và số chống đối chính trị ở nước ngoài phát tán trên không gian mạng về chủ đề liên quan tân Tổng Bí thư; đồng thời cần bày tỏ quan điểm lên án, phê phán những luận điệu xuyên tạc, góp phần làm trong sạch mạng xã hội, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch./.
Yêu nước ST.

LẠI MỘT "ĐỐI TƯỢNG" Ở QUẢNG BÌNH XUYÊN TẠC CỐ TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

     Ngày 3/8, Công an Quảng Bình đã triệu tập đối tượng T.N.H (SN 1990), trú tại phường Bắc Lý, TP Đồng Hới để xử lý vì có hành vi lên mạng xã hội đăng tải các bài viết bịa đặt, sai sự thật về cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Tại cơ quan Công an, đối tượng T.N.H đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm pháp luật, tự nguyện gỡ các bài viết, sau đó đăng bài đính chính, công khai xin lỗi trên Facebook cá nhân.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Công an TP Đồng Hới đã lập biên bản vi phạm hành chính, ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T.N.H số tiền 7,5 triệu đồng về hành vi trên theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 101, Nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ./.
Yêu nước ST.