Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới.

 Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới”.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị. 

1. Trong hơn 94 năm lãnh đạo Cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đưa con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để đưa dân tộc tiếp tục tiến lên đang đặt ra cấp bách.

Khái niệm “đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I. Lênin nêu ra năm 1922. Từ những năm 1925 - 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu về đảng cầm quyền. Bác coi vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng; Đảng giữ trọng trách to lớn đó vì mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”[1], “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”[2], “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[3]. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”[4]. Về cách lãnh đạo, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành riêng một mục nói về vấn đề này. Người đã đặt câu hỏi: “Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào?”[5] và trả lời: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…”. 2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…”. 3) Phải tổ chức sự kiểm soát…”[6]; và để làm cho đúng cả 3 việc, theo Người, đều phải dựa vào dân.

Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VII của Đảng lần đầu tiên đề cập “đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng”[7], nhấn mạnh cần “quy định cụ thể mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở Trung ương”[8]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”[9]“Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[10]. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII khẳng định “Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua các cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà nước”[11]. Các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII đều tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng; Đại hội XIII nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”[12]. Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương  Đảng khóa X, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” cũng sớm được khẳng định và thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, Hiến pháp và các quy định của pháp luật, cũng như các quy chế, quy định của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các hội quần chúng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng với phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học, thường xuyên được đổi mới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ, sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng đã lập nhiều kỳ tích, đạt được thành tựu vĩ đại. Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 FTA gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân là mục tiêu phấn đấu, Việt Nam được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm sáng về xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

Đồng thời, đã hình thành thể chế chính trị ổn định với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng qua nhiều lần kiện toàn, từng bước định hình, đang tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại. Hệ thống chính trị, nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được xây dựng, hoàn thiện, khẳng định vai trò quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thật sự là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thể chế đó ngày càng khẳng định sự phù hợp và tính ưu việt, được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ, bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Tuy nhiên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Vẫn còn tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều.

2. Để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ; một số công tác trọng tâm, đó là:

Thứ nhất, thống nhất nhận thức và thực hiện cho nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị mà Đảng là hạt nhân; lãnh đạo bằng tư tưởng, đường lối, chính sách và sự tiên phong gương mẫu, thường xuyên tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên; bằng thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; sự vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giới thiệu đại biểu ưu tú vào bộ máy nhà nước và thông qua công tác kiểm tra - giám sát. Đảng cầm quyền bằng pháp luật, lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng chấp hành, “thượng tôn” pháp luật. Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước; quyền lực của đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị, đề ra chủ trương, đường lối, còn quyền lực nhà nước là quyền lực quản lý xã hội trên cơ sở pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảng lãnh đạo toàn diện đất nước và chịu trách nhiệm về mọi thành công, thiếu sót trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Xây dựng các cơ quan tham mưu của cấp ủy thực sự tinh gọn; cán bộ tham mưu có phẩm chất chính trị, có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi, tinh thông nghề nghiệp, trách nhiệm và thông thạo công việc. Nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Đổi mới mạnh mẽ tác phong, lề lối làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, với phương châm “đúng vai, thuộc bài”.

Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện; phải xác định đúng và trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện Nghị quyết của Đảng. Việc quán triệt, thực hiện Nghị quyết phải tạo ra sự tự nhận thức, tự thấm nhuần, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới. Tập trung xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Đảng kiểm tra, giám sát để công việc được thực hiện tốt hơn, nghị quyết được thực hiện hiệu quả; bộ máy của Đảng, Nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đúng chủ trương, đường lối, đúng người, đúng việc; kịp thời phát hiện nhân tố mới, cách làm hay, sáng tạo; uốn nắn, điều chỉnh những biểu hiện lệch lạc, chệch hướng hoặc ngăn chặn những hành vi sai trái, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy cao độ vai trò kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực. Tập trung chuyển đổi số trong công tác đảng; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở, kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu khác, phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

V.I. Lênin đã dạy: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ thuộc loại khác thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”. Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển, đòi hỏi đổi mới không ngừng phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở kiên định các nguyên tắc của Đảng; thấm nhuần lời dạy của Tổng Bí thư Lê Duẩn “Phải lãnh đạo chặt chẽ và có nguyên tắc, không bao giờ lung lay trước những khó khăn, thử thách của cách mạng”./.


Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tiếp Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược với định hướng “6 hơn”, góp phần mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước cũng như duy trì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tiếp Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam Hà Vĩ đến trình Quốc thư và chào xã giao 

Sáng 17/9/2024, tại Phủ Chủ tịch, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tiếp Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam Hà Vĩ đến trình Quốc thư và chào xã giao.

Tại cuộc tiếp, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị Đại sứ Hà Vĩ chuyển lời thăm hỏi và lời chúc tốt đẹp tới Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình và các đồng chí Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc; bày tỏ cảm ơn lãnh đạo cấp cao Trung Quốc mới đây đã có các hình thức thăm hỏi, hỗ trợ Việt Nam ứng phó và khắc phục hậu quả nghiêm trọng do cơn bão Yagi và lũ lụt gây ra; gửi lời thăm hỏi và chia sẻ chân thành của lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam tới lãnh đạo cấp cao và nhân dân các địa phương Trung Quốc chịu ảnh hưởng bởi các trận bão lớn lịch sử vừa qua.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhiệt liệt chúc mừng đồng chí Hà Vĩ được bổ nhiệm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam trong thời điểm quan hệ hai Đảng, hai nước duy trì xu thế phát triển tích cực và đạt đến tầm cao lịch sử mới, đặc biệt hai bên đang hướng tới dịp kỷ niệm 75 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc 18/01/2025; mong muốn và tin tưởng Đại sứ Hà Vĩ trong nhiệm kỳ tại Việt Nam sẽ phát huy tốt vai trò cầu nối quan trọng, đóng góp thiết thực vào việc thúc đẩy sự nghiệp hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước chúc mừng những thành tựu phát triển to lớn của Trung Quốc trong 75 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và hơn 45 năm cải cách mở cửa; nhấn mạnh Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam nhất quán coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, coi đây là lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong tổng thể chính sách đối ngoại của Việt Nam; vui mừng trước đà phát triển tích cực, toàn diện của quan hệ hai nước thời gian qua, đặc biệt là việc Lãnh đạo cao nhất hai Đảng, hai nước đã có các chuyến thăm lẫn nhau mang ý nghĩa lịch sử, xác lập định vị mới cho quan hệ song phương, nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược với định hướng “6 hơn”, góp phần mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước cũng như duy trì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Đại sứ Trung Quốc Hà Vĩ bày tỏ vinh dự trình Quốc thư lên Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngay sau khi sang nhận nhiệm vụ tại Việt Nam; mong muốn trong thời gian tới sẽ nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng như sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương Việt Nam; khẳng định trên cương vị Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam sẽ làm hết sức mình để thúc đẩy quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc - Việt Nam có ý nghĩa chiến lược không ngừng phát triển đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả.

Bày tỏ chân thành cảm ơn Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã dành thời gian tiếp và đưa ra những ý kiến chỉ đạo, định hướng quan trọng về phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm thúc đẩy quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc thời gian tới, Đại sứ Hà Vĩ nhấn mạnh sẽ nỗ lực phát huy vai trò điều phối, thúc đẩy các bộ ngành, địa phương Trung Quốc phối hợp với phía Việt Nam triển khai cụ thể hóa, quán triệt toàn diện nhận thức chung cấp cao và các thỏa thuận hai bên đã ký kết; tiếp tục tăng cường giao lưu tiếp xúc cấp cao thường xuyên nhằm củng cố tin cậy chính trị; mở rộng hợp tác thực chất trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh; làm sâu sắc và nâng tầm hợp tác về kinh tế - văn hóa - xã hội; đẩy mạnh giao lưu hữu nghị nhân dân để củng cố nền tảng xã hội cho quan hệ hai nước; duy trì phối hợp chặt chẽ tại các cơ chế đa phương, diễn đàn quốc tế; cùng kiểm soát và giải quyết tốt hơn bất đồng trên biển trên cơ sở các thỏa thuận và nhận thức chung cấp cao, vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định của khu vực./.

Đẩy mạnh các công trình, dự án quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải.

 Thủ tướng khẳng định, triển khai các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia là nhiệm vụ chính trị quan trọng, cũng là thể hiện "tình dân tộc, nghĩa đồng bào", các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp phải tập trung làm với tinh thần, trách nhiệm vì dân, vì nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành GTVT chủ trì họp phiên thứ 14 của Ban Chỉ đạo 

Chiều 17/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành GTVT (Ban Chỉ đạo) chủ trì họp phiên thứ 14 của Ban Chỉ đạo.

Phiên họp được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến giữa đầu cầu trụ sở Chính phủ với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang có các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải (GTVT) trên địa bàn.

Họp Ban Chỉ đạo các công trình giao thông trọng điểm quốc gia (Nguồn: vtvgo.vn) 

Dự phiên họp có: Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo; Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng; Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị; Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp Nguyễn Hoàng Anh; các thành viên Ban Chỉ đạo, lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố; đại diện các ban quản lý dự án, chủ đầu tư, các nhà thầu…

Phiên họp nhằm kiểm tra, đôn đốc các công việc sau phiên họp lần thứ 13 và bàn các giải pháp, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án.

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, đến nay, danh mục các dự án mà Ban Chỉ đạo theo dõi gồm 40 dự án lớn/92 dự án thành phần trên 3 lĩnh vực: Đường bộ, đường sắt và hàng không, đi qua địa phận 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh từ nay đến cuối năm 2025, chỉ còn khoảng 15 tháng nữa, khối lượng công việc rất lớn. Do đó, Thủ tướng đề nghị cần thảo luận giải pháp đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng các dự án; áp dụng các kinh nghiệm quý báu từ dự án đường dây điện 500 kV mạch 3.

Theo đó, cần tạo phong trào thi đua sôi nổi, cách huy động các lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp với cả hệ thống chính trị vào cuộc dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội; các nhà thầu chính huy động thêm các nhà thầu phụ để tạo việc làm, sinh kế cho người dân, doanh nghiệp và nâng cao năng lực của các nhà thầu trên địa bàn…, tinh thần là "cùng làm, cùng thắng, cùng hưởng, cùng phát triển".

Thủ tướng cũng dành thời gian phân tích ý nghĩa quan trọng của hạ tầng giao thông vận tải chiến lược. Đặc biệt, thống kê sơ bộ cho thấy siêu bão số 3 đã gây thiệt hại khoảng 40 nghìn tỷ đồng, chúng ta phải có giải pháp bù đắp lại những thiệt hại này, trong đó có nhiệm vụ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, thúc đẩy 3 đột phá chiến lược, trong đó có đột phá chiến lược về hạ tầng giao thông vận tải.

Do đó, việc triển khai các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia là nhiệm vụ chính trị quan trọng, cũng là thể hiện "tình dân tộc, nghĩa đồng bào", các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp phải tập trung làm với tinh thần, trách nhiệm vì dân, vì nước, đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện; biểu dương, khen thưởng những nơi làm tốt và xử lý các trường hợp trì trệ, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của Đảng, Nhà nước.

Tại phiên họp lần thứ 13 ngày 08/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã giao 42 nhiệm vụ cho các bộ, ngành và địa phương trong đó tập trung vào tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai công tác giải phóng mặt bằng, cấp nguồn vật liệu xây dựng, nhất là cho các dự án giao thông trọng điểm khu vực phía Nam.

Phiên họp được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến giữa đầu cầu trụ sở Chính phủ với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang có các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải  

Theo báo cáo của Bộ GTVT, đến nay, các đơn vị đã hoàn thành 11 nhiệm vụ đúng thời hạn yêu cầu, đang tích cực triển khai 28 nhiệm vụ là công việc chỉ đạo, điều hành thường xuyên và 01 nhiệm vụ chưa đến hạn, chưa hoàn thành đúng hạn 02 nhiệm vụ, trong đó đã hoàn thành một số nhiệm vụ quan trọng.

Bộ Xây dựng đã hết sức tích cực, trách nhiệm, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức xây dựng và ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung các định mức xây dựng, góp phần hoàn thiện cả về số lượng, chất lượng định mức, hạn chế các bất cập, phù hợp hơn với thực tiễn; đã ban hành văn bản hướng dẫn các địa phương xác định chi phí liên quan đến cấp mỏ vật liệu xây dựng theo cơ chế đặc thù, tháo gỡ nhiều khó khăn trong việc xác định và quản lý chi phí cho các dự án trọng điểm ngành GTVT.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh Nghị quyết số 273/NQ-UBTVQH15 về chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên tại dự án Cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2021-2025; đã có văn bản gửi các địa phương phổ biến Nghị định số 91/2024/NĐ-CP ngày 18/7/2024 về thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của một số Luật nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong đầu tư xây dựng; đã trình Thủ tướng Chính phủ phương án điều chỉnh kế hoạch đầu tư công nguồn ngân sách trung ương trong nước năm 2024.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hướng dẫn tỉnh Bến Tre khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường theo cơ chế đặc thù phục vụ các dự án.

Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã báo cáo phương án đầu tư mở rộng đoạn TP Hồ Chí Minh - Long Thành; đã chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) hướng dẫn các đơn vị trực thuộc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về di dời đường điện cao thế.

Hội đồng Thi đua khen thưởng Trung ương đã phối hợp Bộ Nội vụ, Bộ GTVT và các địa phương tổ chức lễ phát động đợt thi đua cao điểm "500 ngày đêm thi đua hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc".

Bộ GTVT đã trình Bộ Chính trị Đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam; đã trình Chính phủ Nghị quyết triển khai Nghị quyết số 138/2024/QH15 của Quốc hội về chủ trương đầu tư xây dựng đường cao tốc Gia Nghĩa-Chơn Thành.

Về công tác chuẩn bị đầu tư, TP Hồ Chí Minh đã phối hợp cùng các tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Long An để báo cáo Thủ tướng Chính phủ về chủ trương lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án Vành đai 4 TP Hồ Chí Minh; Thủ tướng Chính phủ đã giao các bộ, ngành xử lý các kiến nghị của TP Hồ Chí Minh.

Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương đã điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án TP Hồ Chí Minh -Thủ Dầu Một - Chơn Thành. Tỉnh Cao Bằng đang phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để làm rõ các ý kiến thẩm định về điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ.

Bộ GTVT đang thẩm định nội bộ điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án cao tốc Biên Hòa-Vũng Tàu; đã hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam theo Nghị quyết của Chính phủ và gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thẩm định (lần 2).

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với UBND TP. Hà Nội hoàn thiện hồ sơ và báo cáo Thủ tướng, Phó Thủ tướng về điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án đường sắt đô thị Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo.

Về công tác lập, phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, tỉnh Ninh Bình đã phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Ninh Bình-Hải Phòng.

Tỉnh Thái Bình đang trình Hội đồng thẩm định liên ngành thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Nam Định - Thái Bình; tỉnh Sơn La đang hoàn thiện báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Hòa Bình - Mộc Châu theo ý kiến thẩm định của cơ quan chuyên môn về xây dựng; tỉnh Lâm Đồng đang chỉ đạo nhà đầu tư hoàn thiện báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Tân Phú - Bảo Lộc theo ý kiến thẩm định; tỉnh Lâm Đồng và Bình Dương đang tổ chức thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Bảo Lộc - Liên Khương và dự án TP Hồ Chí Minh -Thủ Dầu Một - Chơn Thành.

Ngày 04/9/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ đã họp cùng tỉnh Lâm Đồng và các bộ, ngành để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ phê duyệt dự án Tân Phú - Bảo Lộc, Bảo Lộc - Liên Khương.

Về công tác giải phóng mặt bằng, với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Ban Chỉ đạo lần thứ 13 và Công điện số 80/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 16/8/2024, các địa phương đã tích cực triển khai công tác này và có sự chuyển biến đáng kể.

Tuy nhiên, do phần diện tích còn lại chủ yếu là đất ở, việc triển khai xác định nguồn gốc, phương án đền bù phức tạp nên một số địa phương vẫn chưa đáp ứng yêu cầu như: Đồng Nai, Bình Dương, Khánh Hòa, Lạng Sơn.

Về vật liệu xây dựng, với các dự án khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ, nguồn cung cấp vật liệu đã cơ bản đáp ứng nhu cầu thi công.

Với các dự án khu vực phía nam, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà về giao chỉ tiêu cung ứng vật liệu cho các dự án, các địa phương đã phối hợp cùng các chủ đầu tư, nhà thầu triển khai các thủ tục liên quan đến cấp mỏ cho các dự án, tuy nhiên tiến độ triển khai còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Ngoài tỉnh Vĩnh Long đã cấp 1,1/3,4 triệu m3, các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre vẫn đang triển khai thủ tục cấp mỏ, bổ sung mỏ.

Dự án cao tốc Biên Hòa-Vũng Tàu, tỉnh Đồng Nai đang triển khai, hoàn thiện các thủ tục cấp mỏ, nhưng còn chậm hơn so với yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.

Về công tác triển khai thi công, triển khai phong trào "500 ngày đêm thi đua hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc", Bộ GTVT đã phối hợp cùng các địa phương được giao làm cơ quan chủ quản rà soát kế hoạch triển khai, xây dựng tiến độ chi tiết, đặc biệt là các công việc có tính chất đường "găng" để đôn đốc các đơn vị.

Đa số các dự án có đủ nguồn vật liệu và điều kiện giải phóng mặt bằng thuận lợi, tiến độ thi công đáp ứng yêu cầu.

Một số dự án có giá trị thực hiện lớn như Cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2021-2025 thi công đạt 52%, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua An Giang đạt 26%, Vành đai 4 Hà Nội đoạn qua Hà Nội đạt 33%, dự án Tuyên Quang - Hà Giang đoạn qua Hà Giang đạt 35%, Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh đoạn qua Long An đạt 41%, Cao Lãnh - An Hữu đoạn qua Đồng Tháp đạt 36%, Biên Hòa - Vũng Tàu đoạn qua Bà Rịa-Vũng Tàu đạt 35%, một số dự án thành phần đang phấn đấu hoàn thành sớm từ 3 đến 6 tháng.

Tuy nhiên, việc triển khai thi công các dự án tại một số địa phương còn chậm như Cần Thơ, Sóc Trăng tại dự án Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Bắc Ninh tại dự án Vành đai 4 Hà Nội, Cao Bằng tại dự án Đồng Đăng - Trà Lĩnh, Lạng Sơn mới triển khai thi công dự án Hữu Nghị - Chi Lăng; đặc biệt là tại các dự án có kế hoạch hoàn thành năm 2025 gồm: Đồng Nai tại dự án thành phần 1 Biên Hòa-Vũng Tàu và dự án thành phần 3 Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh; Bình Dương tại dự án Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh; Tuyên Quang tại dự án Tuyên Quang - Hà Giang.

Về dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành, Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) đang nỗ lực triển khai bám sát tiến độ đề ra; đã mở thầu gói thầu J3-1 và đang giải quyết các thủ tục liên quan để triển khai thi công. Đồng thời, Bộ GTVT đã tổng hợp và trình điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.

Về dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, việc xây dựng trụ sở các cơ quan quản lý nhà nước đang được triển khai đáp ứng tiến độ. Đã thi công đạt 94% khối lượng phần bê tông cốt thép Đài kiểm soát không lưu, bám sát tiến độ đề ra;

Gói thầu nhà ga hành khách đã hoàn thành toàn bộ phần bê tông cốt thép, đang tiến hành lắp dựng kết cấu thép mái theo đúng kế hoạch; các gói thầu khác và hạng mục đường cất hạ cánh, đường lăn, 02 tuyến giao thông kết nối đang được nỗ lực triển khai để đáp ứng kế hoạch;

Dự án nhà ga hành khách T3 Tân Sơn Nhất đã hoàn thành công tác bê tông, lắp đặt hệ mái dàn thép; đang triển khai các hạng mục còn lại bám sát tiến độ.

Dự án đường sắt đô thị Nhổn - ga Hà Nội đã đào 297 m và lắp đặt 186 vòng vỏ hầm đoạn đi ngầm. Dự án đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên tiếp tục chạy thử đến tháng 11/2024 để phục vụ việc đánh giá chứng nhận an toàn hệ thống, đào tạo nhân sự vận hành.

Với các dự án thuộc khu vực chịu ảnh hưởng của cơn bão số 3, các chủ đầu tư đã thực hiện nghiêm các công điện của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT, chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống nên ảnh hưởng không đáng kể, các công trình xây dựng không gây ngập úng cho các khu vực lân cận; hiện các đơn vị đang khắc phục, sửa chữa đường công vụ, đường điện,... để thi công trở lại.

Các báo cáo, ý kiến tại phiên họp thống nhất đánh giá, để triển khai nhiệm vụ về đầu tư xây dựng hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII thông qua, Quốc hội và Chính phủ đã dành nguồn lực lớn, tập trung đầu tư các dự án đường bộ cao tốc, cảng hàng không, đường sắt, huy động được sức mạnh tổng hợp của cả nước với nhiều lực lượng tham gia triển khai các dự án.

Đến nay, tổng số dự án thuộc danh mục Ban Chỉ đạo là 40 dự án/92 dự án thành phần trên 3 lĩnh vực là đường bộ, đường sắt và hàng không; đi qua địa phận của 48 tỉnh, thành phố.

Sau 13 phiên họp, đến nay cả nước đã hoàn thành 2 dự án/12 dự án thành phần (cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 và Tuyên Quang-Phú Thọ) với tổng chiều dài 674 km đi qua 15 tỉnh, thành phố, nâng tổng số đường bộ cao tốc lên 2.021 km. Cả nước đang xây dựng, thi công khoảng 1.700 km cao tốc và chuẩn bị khởi công 1.400 km cao tốc nữa.

Phong trào thi đua "500 ngày đêm thi đua hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025" (do Thủ tướng Chính phủ phát động vào ngày 18/8/2024 tại Đắk Lắk) được sự hưởng ứng, tin tưởng ủng hộ của nhân dân, làm tiền đề hoàn thành mục tiêu đưa vào khai thác 5.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2030.

Ban Chỉ đạo đã xử lý, tháo gỡ nhiều vướng mắc khó khăn, trong đó có các vướng mắc kéo dài, như vốn cho các dự án đường sắt đô thị, cao tốc Bến Lức-Long Thành, việc tiếp tục thi công dự án đường sắt đô thị tuyến Nhổn-Ga Hà Nội; xử lý nguồn vật liệu xây dựng, công tác giải phóng mặt bằng; tiến độ triển khai nhiều dự án bảo đảm yêu cầu.

Thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo tại phiên họp lần thứ 13, đến nay, các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành 11 nhiệm vụ đúng thời hạn yêu cầu, đang tích cực triển khai 28 nhiệm vụ là công việc chỉ đạo, điều hành thường xuyên và 1 nhiệm vụ chưa đến hạn.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận phiên họp

Phát biểu kết luận phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, trong bối cảnh hiện nay cần bứt phá, tăng tốc để thực hiện các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, trong đó có mục tiêu xây dựng 3.000 km cao tốc tới năm 2025 và 5.000 km cao tốc tới năm 2025; đồng thời ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, khắc phục hậu quả, thiệt hại rất nặng nề do bão lũ, thiên tai gây ra.

Do đó, các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, nhà thầu tư vấn, thiết kế, giám sát… căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cam kết của mình cần tích cực, chủ động hoàn thành các công việc được phân công trong thúc đẩy các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, quan trọng ngành GTVT, góp phần thúc đẩy giải ngân đầu tư công, tạo ra không gian phát triển mới, khu công nghiệp, dịch vụ mới, gia tăng giá trị đất đai, giảm chi phí logistics, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế-xã hội.

Thay mặt Ban Chỉ đạo, Thủ tướng biểu dương các bộ, cơ quan và địa phương đã thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Đồng thời, các cơ quan, địa phương chưa thực hiện tốt cần rút kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, không để các vướng mắc kéo dài phải kiểm điểm tại nhiều phiên họp. Nơi nào đã làm tốt thì làm tốt hơn nữa; nơi nào chưa làm tốt thì phải cố gắng, học tập những nơi làm tốt; nơi nào trì trệ, chậm chễ, không hoàn thành nhiệm vụ thì phải xử lý theo quy định.

Theo Thủ tướng, cơn bão số 3 đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản, nhưng qua các khó khăn càng thấy được sức mạnh của nhân dân, của sự đoàn kết, tinh thần tự lực, tự cường, tương thân tương ái của dân tộc. Hiện nay, thời tiết biến đổi bất thường, bất lợi, Bộ GTVT và các địa phương cần tiếp tục phát huy tinh thần "vượt nắng thắng mưa, không thua gió bão", chủ động ứng phó với tình hình thời tiết bất lợi để triển khai các công việc đáp ứng tiến độ yêu cầu.

Thời gian tới, chúng ta phải tiếp tục thực hiện mục tiêu hoàn thành 3.000 km cao tốc tới năm 2025 và 5.000 km cao tốc tới năm 2030; hoàn thành các dự án đường sắt, các sân bay Long Thành, Tân Sơn Nhất, Nội Bài… bảo đảm tiến độ, chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật, an toàn, vệ sinh môi trường, phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Thủ tướng khẳng định, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, những kết quả, kinh nghiệm và bài học qua các nhiệm kỳ, qua lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiều dự án như đường dây 500 kV mạch 3 Phố Nối (Hưng Yên)-Quảng Trạch (Quảng Bình), dự án sân bay Long Thành… chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công các dự án trọng điểm của ngành giao thông. "Cơn bão số 3 đã gây thiệt hại rất lớn về người về tài sản, nhưng dù khó khăn bao nhiêu, chúng ta vẫn phải hoàn thành mục tiêu đã đề ra", Thủ tướng nhấn mạnh.

Về các nhiệm vụ chung, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm để hoàn thành mục tiêu của Phong trào thi đua "500 ngày đêm thi đua hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc"; đồng thời áp dụng các bài học kinh nghiệm quý báu trong các dự án trọng điểm ngành giao thông, với trách nhiệm cao nhất, "tất cả vì Nhân dân, vì sự phát triển của đất nước, vì niềm tự hào của dân tộc ta".

Thủ tướng khái quát một số bài học kinh nghiệm:

Thứ nhất, bài học về công tác quản lý lãnh đạo, điều hành, chỉ đạo, chỉ huy với: Tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó.

Thứ hai, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sức mạnh tổng lực với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, lực lượng quân đội, công an, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội, các doanh nghiệp và đặc biệt là người dân với tinh thần "trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt", "tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng". Thực hiện "4 tại chỗ" gồm chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, trang thiết bị tại chỗ, hậu cần tại chỗ.

Thứ ba, chủ đầu tư, các đơn vị thi công thực hiện dự án phải nỗ lực không ngừng nghỉ, chủ động tích cực, bản lĩnh của ngành giao thông và sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, các doanh nghiệp ở cả Trung ương và địa phương, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, các nhà thầu chính tạo điều kiện, hợp tác để các doanh nghiệp, nhà thầu địa phương làm nhà thầu phụ để từng bước lớn mạnh, với tinh thần "chia sẻ, thấu hiểu, cùng làm, cùng hưởng, cùng thắng và cùng phát triển, cùng có niềm vui, hạnh phúc và niềm tự hào".

Thứ tư, tăng cường công tác hiệp đồng giữa các lực lượng, giữa các cấp, các ngành, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị bảo đảm khoa học, hiệu quả công việc; phân công phải rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ kết quả; kết quả phải cân đong, đo, đếm được để từ đó dễ kiểm tra, dễ giám sát và dễ đánh giá.

Thứ năm, xây dựng, phát động phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, kịp thời động viên, khen thưởng, tạo không khí hăng say làm việc, tất cả vì lợi ích quốc gia, dân tộc, phê bình, xử lý kịp thời những tổ chức, cá nhân làm không tốt, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; các cơ quan truyền thông báo chí nỗ lực, làm tốt công tác tuyên truyền, khắc họa gương người tốt, việc tốt trên công trường, dự án, vận động người dân, tạo sự đồng thuận, đồng lòng triển khai dự án.

Giao các nhiệm vụ cụ thể với các địa phương trong chuẩn bị đầu tư, Thủ tướng yêu cầu Hà Nội, Cao Bằng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để sớm phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Đồng Đăng-Trà Lĩnh và đường sắt đô thị Nam Thăng Long-Trần Hưng Đạo (Hà Nội).

Các tỉnh Sơn La, Thái Bình, Ninh Bình, Bình Dương bám sát kế hoạch đề ra, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để hoàn thành các thủ tục, sớm phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án Hòa Bình-Mộc Châu (hoàn thành trong tháng 10 năm 2024); Ninh Bình-Hải Phòng đoạn qua Nam Định, Thái Bình theo phương thức PPP (phấn đấu hoàn thành tháng 10/2024), TP Hồ Chí Minh -Thủ Dầu Một-Chơn Thành theo nghị quyết của Chính phủ.

Tỉnh Lâm Đồng khẩn trương thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, rà soát phương án đầu tư, sớm phê duyệt dự án cao tốc Tân Phú-Bảo Lộc, Bảo Lộc-Liên Khương; hoàn thành trong tháng 10/2024.

TP Hồ Chí Minh phối hợp với các bộ, ngành để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, giải quyết các thủ tục đầu tư để sớm trình cấp có thẩm quyền thông qua chủ trương đầu tư dự án Vành đai 4 TP Hồ Chí Minh .

Thành phố Hà Nội chủ trì tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền cân đối tổng mức đầu tư giữa các dự án thành phần thuộc Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội.

Về giải phóng mặt bằng, các địa phương phối hợp với các chủ đầu tư để xây dựng kế hoạch triển khai giải phóng mặt bằng, tập trung vào các vị trí đường "găng" để ưu tiên triển khai trước; chủ động tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tăng cường công tác dân vận để đẩy nhanh giải phóng mặt bằng các dự án bám sát tiến độ yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 80/CĐ-TTg, nhất là với các dự án đường bộ cao tốc có kế hoạch hoàn thành năm 2025.

Các tỉnh Đồng Nai, Khánh Hòa, Tuyên Quang, Đà Nẵng, Hưng Yên, Bình Dương, Kiên Giang, Lạng Sơn huy động cả hệ thống chính trị, xác định công tác giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ trọng tâm, quyết tâm, nỗ lực, khắc phục các khó khăn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, đáp ứng tiến độ triển khai các dự án.

Tỉnh Lạng Sơn chủ động làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường để được hướng dẫn thủ tục bổ sung chỉ tiêu sử dụng đất giao thông cho dự án Đồng Đăng - Trà Lĩnh, không để ảnh hưởng đến tiến độ công tác giải phóng mặt bằng.

Về vật liệu xây dựng, các địa phương được giao làm cơ quan chủ quản các dự án chủ động trong việc tìm kiếm, nguồn vật liệu phục vụ thi công các dự án đáp ứng tiến độ yêu cầu; phối hợp chặt chẽ với các địa phương có mỏ vật liệu để hoàn thiện các thủ tục cấp mỏ đảm bảo nguồn vật liệu đắp, không để ảnh hưởng đến tiến độ các dự án, nhất là tỉnh Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh .

Về triển khai thi công, các địa phương được giao nhiệm vụ là các cơ quan chủ quản chỉ đạo các chủ đầu tư, các nhà thầu thi công phối hợp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, xây dựng kế hoạch tổ chức thi công hợp lý, phù hợp điều kiện giải phóng mặt bằng nguồn vật liệu, điều kiện thời tiết; linh hoạt tổ chức thi công phù hợp với điều kiện thời tiết các khu vực bắt đầu vào mùa mưa; xây dựng kịch bản ứng phó với tình hình thời tiết bất thường như bão, lũ để bảo đảm tuyệt đối an toàn cho người lao động, máy móc, giảm thiểu tối đa thiệt hai do bão lũ; tổ chức thi công 3 ca, 4 kíp để hoàn thành các dự án thuộc danh mục 3.000 km có kế hoạch hoàn thành trong năm 2025 theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; nhất là dự án Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh (đoạn qua Đồng Nai và Bình Dương), Biên Hòa-Vũng Tàu (Đồng Nai), Tuyên Quang-Hà Giang (Tuyên Quang) chậm tiến độ, cần có sự chủ động, quyết tâm, nỗ lực vượt bậc của các cơ quan chủ quản, các chủ đầu tư, các nhà thầu để bảo đảm tiến độ đề ra.

Các tỉnh có khối lượng thi công còn thấp như Cần Thơ, Sóc Trăng, Bắc Ninh cần rà soát lại toàn bộ kế hoạch triển khai, tập trung tháo gỡ về vật liệu xây dựng, chỉ đạo nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công tại các khu vực đã có mặt bằng, các hạng mục không bị ảnh hưởng bởi nguồn vật liệu; rà soát năng lực của nhà thầu thi công để kịp thời xử lý theo quy định nếu triển khai chậm tiến độ.

Tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng đẩy nhanh tiến độ thi công dự án Hữu Nghị-Chi Lăng và Đồng Đăng-Trà Lĩnh. Thành phố Hà Nội, các tỉnh Hòa Bình, Sơn La đẩy nhanh các thủ tục để sớm khởi công dự án dự án thành phần 3 Vành đai 4 Hà Nội, cao tốc Hòa Bình-Mộc Châu (khởi công đoạn qua Hòa Bình trong tháng 9/2024 theo đúng kế hoạch của tỉnh).

TPHCM kiểm soát chặt chẽ tiến độ triển khai để đưa vào khai thác dự án đường sắt đô thị Bến Thành-Suối Tiên đúng tiến độ đề ra (trong tháng 11/2024).

Tỉnh Hà Giang rà soát ngân sách để báo cáo cấp thẩm quyền giải quyết các khó khăn về nguồn vốn ngân sách địa phương tham gia dự án Tuyên Quang-Hà Giang.

Các tỉnh bị ảnh hưởng của cơn bão số 3 chỉ đạo các chủ đầu tư, tư vấn rà soát, điều tra bổ sung các số liệu thủy văn để cập nhật (nếu có), bảo đảm các giải pháp thiết kế phù hợp với các biến đổi của thời tiết.

Giao nhiệm vụ cho các bộ ngành, Thủ tướng yêu cầu Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo các chủ đầu tư, các nhà thầu phối hợp với các địa phương đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn thành dự án cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2021-2025, Biên Hòa-Vũng Tàu, Hòa Liên-Túy Loan trong năm 2025 và dự án thành phần 2 Khánh Hòa-Buôn Ma Thuột, đường Hồ Chí Minh theo kế hoạch.

Triển khai lựa chọn nhà đầu tư để sớm khởi công dự án Dầu Giây-Tân Phú; hoàn thiện thủ tục để trình Quốc hội điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Biên Hòa-Vũng Tàu; phối hợp chặt chẽ với Bộ KH&ĐT trong việc thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam.

Khẩn trương tổng hợp ý kiến của các cơ quan liên quan, hoàn thiện báo cáo Thường trực Chính phủ về phương án mở rộng đoạn TP Hồ Chí Minh -Long Thành thuộc dự án đường cao tốc TP Hồ Chí Minh -Long Thành-Dầu Giây theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà.

Khẩn trương báo cáo Thường trực Chính phủ về dự án thành phần 4 sân bay Long Thành theo đúng chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà. Khẩn trương chuẩn bị hồ sơ điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án sân bay Long Thành theo chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ để trình Quốc hội vào kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.

Bộ TN&MT sớm hướng dẫn các địa phương về thời gian được phép hoạt động khai thác trong ngày đối với khai thác cát, sỏi lòng sông.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm hoàn thiện báo cáo thẩm định dự án Tân Phú-Bảo Lộc và Ninh Bình-Hải Phòng đoạn qua Nam Định, Thái Bình; đẩy nhanh các thủ tục thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam. Phối hợp với UBND TP Hồ Chí Minh khẩn trương hoàn thiện thủ tục chuẩn bị đầu tư dự án xây dựng đường Vành đai 4 TP Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật, kịp thời trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.

Bộ NN&PTNT báo cáo cấp có thẩm quyền để bố trí vốn cho dự án trụ sở cơ quan kiểm dịch động, thực vật, bảo đảm việc khai thác đồng bộ sân bay Long Thành; chủ trì, phối hợp Bộ GTVT, Bộ TN&MT làm việc với cơ quan thuộc Quốc hội để giải trình Nghị quyết điều chỉnh chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của dự án cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025.

Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tiếp tục chỉ đạo Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc (VEC) phối hợp với các cơ quan liên quan để sớm hoàn thành báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án mở rộng đoạn TP Hồ Chí Minh -Long Thành, gửi Bộ GTVT để tổng hợp, báo cáo Thường trực Chính phủ; sớm hoàn thiện thủ tục lựa chọn nhà thầu gói thầu J3-1, đồng thời đẩy nhanh tiến độ thi công các gói thầu còn lại hoàn thành toàn bộ dự án Bến Lức - Long Thành trong năm 2025.

Chỉ đạo Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam kiểm soát chặt chẽ chất lượng, tiến độ các dự án cảng hàng không; đẩy nhanh tiến độ lựa chọn nhà thầu, thiết kế kỹ thuật các gói thầu còn lại của nhà ga hành khách Long Thành. Tiếp tục chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị trực thuộc đẩy nhanh việc di dời các đường điện cao thế.

Cho ý kiến giải quyết các đề xuất, kiến nghị, Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ GTVT với vai trò cơ quan thường trực phát huy hơn nữa tính chủ động, phối hợp cùng Văn phòng Chính phủ để đôn đốc các nhiệm vụ được giao, kịp thời tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền để giải quyết các khó khăn, vướng mắc.