Thứ Tư, 28 tháng 4, 2021

 

THAM GIA BẦU CỬ QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN LÀ LÀ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý CHÍ, NGUYỆN VỌNG,
 QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 -  2026 là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước nhằm lựa chọn, bầu ra những đại biểu tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới, góp phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Cuộc bầu cử diễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới ở nước ra sau 35 năm thực hiện đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực nhưng cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh thương mại, chiến tranh công nghệ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhân tố gây bất ổn đến an ninh quốc gia của Việt Nam. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trước tình hình đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải ra sức phấn đấu, đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng tận dụng mọi thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thử thách để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đặt ra.

Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam công tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết phục vụ cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đang được tiến hành rất khẩn trương. Tuy nhiên, trước thềm bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã và đang tiến hành nhiều hoạt động chống phá cuộc bầu cử với tính chất hết sức quyết liệt, manh động. Thông qua việc xuyên tạc thông tin, đưa ra những luận điệu sai trái, thiếu trung thực, phiến diện, quy chụp với mục đích hướng lái dư luận theo hướng tiêu cực, gieo rắc nhận thức lệch lạc, sai lầm liên quan đến hoạt động bầu cử ở nước ta. Trong đó, có quan điểm cho rằng: bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân chỉ là nghĩa vụ chứ không phải quyền lợi, dân chủ, đều là sự sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự. Đây là một quan điểm sai trái, xuyên tạc, thiếu chính xác của các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị đối với công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện mưu đồ chính trị của chúng.

 Ở VIỆT NAM, QUYỀN BẦU CỬ VÀ ỨNG CỬ LÀ MỘT TRONG NHỮNG QUYỀN CHÍNH TRỊ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

Bầu cử là việc đưa ra quyết định của công dân hoặc của thành viên một tổ chức để chọn ra các cá nhân nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền, thuộc ban lãnh đạo của một tổ chức, cơ quan đơn vị nào đó. Đây là cơ chế phổ biến được các nền dân chủ hiện áp dụng để phân bổ chức vụ trong bộ máy lập pháp, đôi khi cả ở bộ máy hành pháp, tư pháp và ở chính quyền địa phương. Bầu cử là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua bầu cử giúp người dân có điều kiện thể hiện quyền  "làm chủ" của mình, nhất là trong việc lựa chọn ra những người đại diện cho tiếng nói, cho lợi ích của mình. Trong bất kỳ một thể chế chính trị nào, để Nhà nước có quyền hợp pháp, thực sự là Nhà nước "của dân, do dân, vì dân" thì phải có được sự đồng thuận của người dân.

Thông báo Kết luận số 174-TB/TW ngày 08/6/2020 của Bộ Chính trị về phương hướng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 nêu rõ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải là những người trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ngoài tiêu chuẩn chung, Hướng dẫn số 36-HD/BCHTW, ngày 20/01/2021 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác nhân sự đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ  2021 - 2026 đã quy định chi tiết về tiêu chuẩn, điều kiện của đại biểu Quốc hội chuyên trách và đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách. Ở Việt Nam, quyền bầu cử và ứng cử là một trong những quyền chính trị cơ bản của công dân và được quy định cụ thể tại Điều 18 Hiến pháp năm 1946: "Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi, không phân biệt gái, trai, đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử", và tiếp tục được khẳng định xuyên suốt trong các bản Hiến pháp năm 1959 (Điều 23), Hiến pháp năm 1980 (Điều 57), Hiến pháp năm 1992 (Điều 54). Hiến pháp năm 2013 và quyền của công dân luôn gắn liền với nghĩa vụ của công dân. Trong đó, Điều 15, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân", Điều 21 cũng quy định: "Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân...". Theo Điều 2 Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp năm 2015 quy định: "Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Luật này". Đồng thời, Khoản 5, Điều 4 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp năm 2015 quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp; tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp". 

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 là cuộc bầu cử được tiến hành dựa trên hệ thống thiết chế pháp luật rất vững chắc như: Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức quốc hội năm 2014, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015… Điều này có nghĩa là các quyền, nghĩa vụ của công dân, của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các quy trình tổ chức đều được xây dựng một cách chặt chẽ, khoa học, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân cũng như phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.Bên cạnh đó, tiếp thu tinh thần chỉ đạo của  Bộ Chính trị tại Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 20/6/2020 về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Hướng dẫn số 36-HD/BCHTW ngày 20/01/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bổ sung, hoàn thiện thêm nội dung về quy trình nhân sự theo hướng việc giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định tại Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp năm 2015; quy trình thủ tục, hồ sơ cụ thể thực hiện theo quy định của Hội đồng Bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Như vậy có thể thấy, trong quy trình lựa chọn, sự tín nhiệm của cử tri là thước đo rất quan trọng về tiểu chuẩn của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Do đó, tại  Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính phủ lần này, trong quá trình lựa chọn, sàng lọc, đặc biệt quan tâm đến yếu tố tín nhiệm. Nếu ở địa bàn, ở nơi công tác nếu cá nhân đó không được tín nhiệm thì bước đầu tiên sẽ không đưa vào giới thiệu nhân sự bầu cử. Ngoài ra, còn nhiều văn bản khác cũng quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân, cũng như tiêu chuẩn về nhân sự bầu của đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026.

Việt Nam không hạn chế quyền ứng cử tự do của công dân, nếu họ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định và được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Bên cạnh đó, việc tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi công dân; bản thân mỗi cử tri có vai trò quyết định trong việc lựa chọn cho mình những người đại diện xứng đáng nhất để thay mặt mình quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, dân tộc. 

THAM GIA BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN LÀ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý CHÍ, NGUYỆN VỌNG, QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 

Trong quá trình lịch sử, các cuộc bầu cử dân chủ luôn là hoạt động tiêu biểu, quan trọng nhất trong các hoạt động dân chủ trực tiếp của người dân. Thông qua các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền công dân, quyền "làm chủ" của dân được thể hiện đúng với bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nói cách khác, tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp chính là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước nói chung và cơ quan đại  diện - cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương tới địa phương ở nước ta nói riêng. Tham gia bầu cử chính là nơi để cử tri phát huy quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu, xứng đáng cho ý chí, nguyện vọng là quyền làm chủ của mình trong cơ quan quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Trong lịch sử đất nước ta, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945), cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 06/01/1946 được tổ chức thành công là mốc son lịch sử của thể chế dân chủ ở Việt Nam trong điều kiện đất nước vô cùng khó khăn của "thù trong, giặc ngoài", tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hết sức khó khăn. Do đó, cuộc Tổng tuyển cử này không chỉ là một cuộc vận động chính trị thông thường mà thực chất là một cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp vô cùng gay go, phức tạp. Tuy nhiên, đại đa số người dân tham gia bầu cử luôn xúc động và tự hào vì "... ngày mai mà một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ra bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình..."[1]. Trong quá trình vận động và phát triển, tính dân chủ trong bầu cử và ứng cử ngày càng được mở rộng và quy trình bầu cử cũng như lựa chọn nhân sự ngày càng chặt chẽ và khoa học. Mặc dù, vẫn còn một số ít những tồn tại, hạn chế nhưng phải khẳng định một điều rằng chất lượng đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân ngày càng được nâng cao. Điều này được minh chứng trên diễn đàn của Quốc hội, của Hội đồng nhân dâncác cấp ngày càng xuất hiện nhiều hơn những tiếng nói đại diện cho quyền lực nhân dân trong hoạt động kiểm tra giám sát của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, trong các phát biểu, kiến nghị, góp ý và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, trong giải quyết những vấn đề mà cử tri, nhân dân cả nước quan tâm. Để đạt được những thành tựu trên, một trong những yếu tố quyết định và không thể không nói đến đó là tinh thần, trách nhiệm của mỗi người dân ngày càng được nâng cao thông qua việc lựa chọn những người đại diện xứng đáng nhất để thay mặt quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, dân tộc. 

Trải qua nhiều kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, người dân đã ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình nên đã tích cực thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua lá phiếu bầu, tích cực tham gia vào cuộc bầu cử từ giai đoạn giới thiệu người ứng cử, tham gia các Hội nghị cử tri để đóng góp ý kiến, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người ứng cử đến giai đoạn bỏ phiếu bầu để ngày bầu cử đã thực sự trở thành ngày hội, một dịp sinh hoạt chính trị của đồng bào, nhân dân cả nước. Những vấn đề chưa phù hợp trong quy chế, quy định bầu cử đã tiếp tục được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho quyền lực của người dân được thực hiện tốt hơn trên thực tế.

Bên cạnh đó, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình bầu cử là một tất yếu nhằm lựa chọn được những người tiêu biểu, xứng đáng nhất, có đủ các tiêu chuẩn theo quy định, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng; có năng lực, có điều kiện thực thi nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Đồng thời bảo đảm cơ cấu và chất lượng, không vì cơ cấu mà giảm chất lượng. Đó là là cơ sở pháp lý giúp cho việc hình thành các cơ quan nhà nước trong nhiệm kỳ mới, bảo đảm tính liên thông, thống nhất với kết quả đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá công tác bầu cử, các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã xuyên tạc bản chất vấn đề, đưa ra những luận điệu sai trái, khi cho rằng bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đều là sự sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự. Những luận điệu xuyên tạc này của chúng nhằm hướng lái dư luận, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để hiện thực hóa mục đích "cài cắm mầm mống dân chủ" vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp với mưu đồ biến nghị trường thành diễn đàn để các đối tượng thực hiện hoạt động chống phá, hình thành lực lượng đối lập trong Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và thực hiện "chiến lược diễn biến hòa bình" làm nước ta tự suy yếu từ bên trong. 

Trong lịch sử, có thể thấy chiêu bài "đòi ghế" trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp của các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị không phải là vấn đề mới. Từ năm 1946, trong lần Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, sau khi không phá hoại được Tổng tuyển cử, Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội đã đòi 70 ghế trong Quốc hội.

Mặc dù, một trong năm phương thức lãnh đạo của Đảng là thông qua công tác cán bộ và vai trò tiên phong gương mẫu của người đảng viên. Đối với những cơ quan dân cử, các cấp ủy đảng cần trực tiếp xem xét, tập thể quyết định việc lựa chọn, đánh giá, giới thiệu những cán bộ giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội. 

Trên thực tế, sau khi chỉ thị của Bộ Chính trị được ban hành, hội nghị toàn quốc triển khai công tác bầu cử được tổ chức để kịp thời quán triệt, xây dựng kế hoạch triển khai công tác bầu cử. Hội đồng Bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội... ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử từ Trung ương đến địa phương. Các cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ quốc, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở địa phương cũng tiến hành khẩn trương, nghiêm túc các công việc chuẩn bị bầu cử và lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử ở các cấp. Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập theo đúng quy trình và triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ theo quy định. Việc chuẩn bị nhân sự ứng cử đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì và tổ chức các hội nghị hiệp thương, hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi công tác, nơi cư trú đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thông qua công tác cán bộ nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Đảng sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự. Bởi vì, Đảng chỉ định hướng cơ cấu, số lượng nhân sự và xây dựng bộ tiêu chuẩn đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Bên cạnh đó, yếu tố quyết định trong việc lựa chọn người đại diện cho tiếng nói của mình thuộc về nhân dân, ngay từ khâu chuẩn bị nhân sự thông qua việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác và nơi cư trú và trực tiếp thông qua những lá phiếu cử tri trong quá trình bầu cử.

Quốc hội Việt Nam là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, có chức năng lập pháp, quyết định những chủ trương, chính sách quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước; Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Do đó, thực hiện thành công cuộc bầu cử sẽ thiết thực góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. 

Những luận điệu của các thế lực thù địch, phản động cho rằng: "Việc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân chỉ là nghĩa vụ chứ không phải là quyền lợi, dân chủ, đều là sự sắp đặt nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự"... là hoàn toàn xuyên tạc, sai sự thật, nhằm xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam trước thềm bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026./.

Cảnh giác không nên quá dựa vào vaccine Covid-19

    Hiện nay tình hình dịch bệnh Covid-19 trên thế giới và trong khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp. Mặc dù đã được tiêm vaccine Covid-19 nhưng số lượng còn ít. Theo Bộ Y tế, hiện nay mới có tổng cộng 425.638 người đã được tiêm vaccine Covid-19. Theo Trung tâm Đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam, thế giới ghi nhận khoảng 150 triệu ca Covid-19, trong đó hơn 3,1 triệu người đã tử vong. Đứng thứ nhất về số ca mắc là Mỹ, sau đó là Ấn Độ và Brazil.
    Ấn Độ đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất từ trước tới nay do đại dịch Covid-19 gây ra, số ca mắc mới được ghi nhận ở mức cao kỷ lục và số ca tử vong vượt mốc 200.000. Các chuyên gia lo ngại số ca mắc thực tế ở nước này có thể cao gấp 30 lần con số báo cáo, lên hơn nửa tỷ người. Trong 24 giờ qua, khu vực Đông Nam Á có 5 quốc gia ghi nhận các ca tử vong vì Covid-19 trong đó Indonesia nhiều nhất với 168 ca, Philippines ghi nhận 63 ca, Malaysia thêm 13 ca, Thái Lan thêm 15 ca và Campuchia ghi nhận 3 ca.
    Tại Việt Nam, khoảng một tháng qua cả nước không ghi nhận ca nhiễm mới trong cộng đồng, song số ca nhiễm nhập cảnh tăng hàng ngày, có hôm hơn 25 ca. Kể từ ngày 27/1 bùng phát đợt dịch liên quan Hải Dương, Quảng Ninh đến nay, tổng ca nhiễm cộng đồng duy trì 911.
    Bộ Y tế cảnh báo nguy cơ lây nhiễm từ bên ngoài vào nước ta rất cao nếu không kiểm soát chặt đường biên giới, đặc biệt với Campuchia. Ngành y tế đang lập bệnh viện dã chiến tại cửa khẩu Hà Tiên và thành phố Cần Thơ, kiểm soát chặt biên giới, ngăn chặn dịch xâm nhập. Người dân được khuyến cáo thực hiện nghiêm quy tắc 5K. 

Quân đội “trung lập về chính trị” - sự đòi hỏi phi lý, không thể chấp nhận .

Đòi hỏi quân đội “trung lập về chính trị” là thủ đoạn nham hiểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng Việt Nam. Mục tiêu xuyên suốt của họ là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, trước hết là vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, làm cho Quân đội mất phương hướng và lý tưởng chiến đấu. Quân đội nhân dân cùng với Công an nhân dân là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh chiến đấu của Quân đội, trước hết bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng. Do vậy, nếu làm suy yếu Quân đội, tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sẽ làm cho Đảng ta mất chỗ dựa vững chắc, tin cậy và điều đó cũng có nghĩa mở đường cho việc chuyển hóa Việt Nam theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng đây là âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch. Bằng nhiều giọng điệu khác nhau, họ rêu rao quan điểm: Quân đội cần phải “trung lập về chính trị”, Quân đội “không cần sự lãnh đạo của đảng phái nào cả”, Quân đội “không cần trung thành với Đảng Cộng sản”, v.v. Để nhấn mạnh thêm “ý nghĩa” các quan điểm đó, họ bịa đặt rằng: “do phải trung thành với Đảng Cộng sản, nên Quân đội chỉ lo chống “Diễn biến hòa bình”, mà lơ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”? Họ “khuyên” hãy “học tập cách thức xây dựng quân đội của các nước tư bản”, v.v. Đó là những luận điệu sai trái! Nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta, ai cũng biết: suốt 71 năm qua, mỗi bước trưởng thành của Quân đội đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân. Trong cuộc chiến đấu trước đây, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Quân đội ta cùng với toàn dân đã lập nên những chiến công hiển hách, đánh bại các đội quân xâm lược nhà nghề, có tiềm lực bậc nhất thế giới. Dù là chiến sĩ Vệ quốc quân ở chiến khu Việt Bắc, Anh bộ đội mặt trận Bình - Trị - Thiên khói lửa, hay người lính ở bưng biền Đồng Tháp, họ đều có điểm chung là một lòng theo tiếng gọi của Đảng, cầm súng chiến đấu vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, mà dân tộc, quê hương, bà con họ hàng và bản thân gia đình họ thoát khỏi cảnh mất nước, lầm than, vươn lên tự quyết định lấy tương lai tươi sáng của mình. Giờ đây, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta - con em của đồng bào các dân tộc trong cả nước - vẫn ngày đêm vững chắc tay súng, cùng toàn dân giữ vững chủ quyền, biển đảo, vùng trời và môi trường hòa bình, ổn định, xây dựng đời sống ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta cũng tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; luôn gắn bó mật thiết với Đảng, Nhà nước và nhân dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao phó. Yêu cầu Quân đội “trung lập về chính trị”, thực chất là hòng xóa bỏ bản chất cách mạng, xóa bỏ tất cả những gì tốt đẹp nhất của Quân đội nhân dân được xây đắp trong suốt mấy mươi năm qua, hơn thế, còn đẩy Quân đội đối lập với Đảng và nhân dân; vô hiệu hóa vai trò “Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Để thực hiện mưu đồ đó, họ tập trung công kích vào những vấn đề cơ bản nhất tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta, đó là: phủ nhận đường lối lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; phá hoại sức mạnh đoàn kết giữa Đảng, Quân đội và nhân dân. Họ ra sức xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh; bôi nhọ, nói xấu và đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội. Đồng thời, dựng chuyện, bóp méo một số sự kiện để vu khống, bôi nhọ Đảng và Nhà nước trong quá trình lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước. Dù biết, không gì có thể phá hoại được sức mạnh đoàn kết dân tộc, cũng như không gì có thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, nhưng đối với họ, chí ít thì cũng gây ra sự hoài nghi đối với Đảng trong một bộ phận cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, từ đó tạo sự lơ là, thiếu cảnh giác, để dễ bề lung lạc bản chất cách mạng của Quân đội ta, v.v. Những thủ đoạn đó là vô cùng nguy hiểm, cần hết sức cảnh giác; những đòi hỏi của họ là hết sức phi lý, không thể chấp nhận, cần bác bỏ! Trước hết, cần khẳng định rằng, trên thế giới không có và không thể có một quân đội nào “trung lập về chính trị” hay “đứng ngoài chính trị”. Lịch sử nhân loại chứng minh rằng, mọi quốc gia và ở mọi thời điểm, sự xuất hiện của quân đội luôn gắn liền với chính trị, sự ra đời của nhà nước và chiến tranh. Về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, nhà nước và do nhà nước, giai cấp đó thành lập, nuôi dưỡng, sử dụng để tiến hành đấu tranh vũ trang, thực hiện mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó. Quân đội các nước tư bản mang bản chất của giai cấp tư sản, được nhà nước tư sản tổ chức, nuôi dưỡng và bảo vệ chính thể và quyền lợi của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ tư hữu, luật pháp và trật tự của xã hội tư bản. Quân đội vô sản là quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản sáng lập, tổ chức, giáo dục, rèn luyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Quân đội chiến đấu vì độc lập, chủ quyền quốc gia - dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân và vì đoàn kết quốc tế. Để nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội, Đảng Cộng sản hết sức coi trọng xây dựng Quân đội về chính trị. Kinh nghiệm xây dựng Quân đội ở các nước xã hội chủ nghĩa chỉ ra rằng, việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm Quân đội vững mạnh, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Ở đâu và nơi nào xem nhẹ nhân tố chính trị hoặc nhân nhượng, thỏa hiệp, thậm chí từ bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Quân đội, thì ở đó Quân đội mất mục tiêu, lý tưởng, phương hướng chiến đấu, đất nước rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản,… như thế giới đã từng chứng kiến ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây. Thứ hai, cần làm rõ sự khác nhau giữa đòi hỏi quân đội phải “trung lập về chính trị” của các “nhà dân chủ” Việt Nam với đòi hỏi quân đội phải “trung lập” trong bầu cử ở một số nơi trên thế giới. Để tăng thêm sức nặng của đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam phải “trung lập về chính trị”, các “nhà dân chủ” thường dẫn giải về sự “trung lập” của quân đội các nước tư bản trong các cuộc vận động bầu cử. Họ phân tích nhiều điều, dẫn ra nhiều thí dụ để nói về ý nghĩa của việc thực hiện đòi hỏi đó, nhưng lại lẩn tránh làm rõ sự khác nhau giữa chúng, v.v. Thực tế thì ở một số nước tư bản thực hiện chế độ đa đảng, cuộc đấu tranh giữa các đảng phái tư sản để giành quyền kiểm soát cơ quan quyền lực nhà nước diễn ra hết sức quyết liệt và phức tạp. Trong cuộc đấu tranh đó, quan điểm: “quân đội chỉ tuân theo pháp luật” hay “quân đội phải trung lập”, được các bên cổ súy, nhằm bảo đảm cho đảng phái mình chiến thắng trong bầu cử. Về bản chất, đấy không phải là quan điểm đòi quân đội “phi chính trị hóa”, hay quân đội “trung lập về chính trị” để nhằm mục đích chuyển hóa chế độ chính trị của đất nước như đòi hỏi của các “nhà dân chủ” Việt Nam. Đó chỉ là những đòi hỏi: quân đội “đứng ngoài cuộc” trong quá trình tranh giành quyền lực giữa các đảng phái của giai cấp tư sản, chứ không hề đụng đến chế độ chính trị - xã hội của đất nước họ, v.v. Thực tế cho thấy, ở các nước tư bản, quân đội không những không “trung lập về chính trị”, mà còn là công cụ đắc lực để thực hiện tham vọng chính trị của giai cấp cầm quyền. Chẳng phải ở Mỹ và phương Tây, quân đội luôn là lực lượng để bảo vệ thể chế chính trị đất nước; đồng thời, là công cụ hữu hiệu để can thiệp quân sự, lật đổ chính quyền những quốc gia không thân thiện với họ đó sao? Từ năm 1990, Mỹ và liên quân đã tiến hành can thiệp vào đời sống chính trị của nhiều nước độc lập có chủ quyền, kể cả tiến hành chiến tranh ở các nước, như: Nam Tư, Áp-ga-ni-xtan, I-rắc, Li-bi trước đây, hay ở Xy-ri hiện nay. Các “nhà dân chủ” thường “quên” những vấn đề cốt lõi, tày đình này, để đưa ra những khái niệm mập mờ, nhằm phục vụ cho mưu đồ xấu của họ. Thật là sự đòi hỏi phi lý không thể chấp nhận! Thứ ba, yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới, đòi hỏi phải tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị; trong đó, phải: “chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái”, như Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng XII đã nêu. Để thực hiện tốt điều đó, cần tập trung nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng, đường lối đổi mới đất nước; chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, cũng như yêu cầu đối với Quân đội trong thời kỳ mới. Đồng thời, tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, nhất là trên các phương tiện truyền thông, nhằm vạch trần bản chất phản động, phản khoa học và tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, luận điệu đòi Quân đội “trung lập về chính trị”. Hơn ai hết, trong cuộc đấu tranh gay go và phức tạp này, chúng ta phải ghi nhớ lời dạy của V.I. Lê-nin: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động,…”1. Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, cũng tức là làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đòi “phi chính trị hóa” Quân đội ta, chúng ta cần tiếp tục coi trọng nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị; tập trung xây dựng các tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh để lãnh đạo đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng ý chí quyết tâm, rèn luyện và trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng cho mọi quân nhân, tạo sự “miễn dịch” và tăng cường sức “đề kháng” để ngăn chặn mọi sự xâm nhập và phá hoại của các luận điệu thù địch, nhất là luận điệu: quân đội “trung lập về chính trị”. Đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân; có đủ sức mạnh hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Dòng chảy chính hướng về cội nguồn

Niềm tự hào, tự tôn dân tộc Việt luôn được bà con phát huy thông qua các hoạt động gắn kết, xây dựng cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, hòa nhập tốt với nước sở tại. Hoạt động quảng bá và giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế thông qua các lễ hội văn hóa Việt Nam ở nước ngoài đã trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt cộng đồng của bà con... Bất chấp những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, suy diễn lệch lạc về đất nước của các thế lực thù địch, tình cảm hướng về quê hương bản quán với lòng yêu nước nồng nàn và mong muốn được đóng góp xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, luôn luôn là dòng chảy chính trong cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài... Mỗi dịp Tết cổ truyền, kiều bào trên khắp thế giới dù bận rộn tới đâu cũng thu xếp về nước đón năm mới, đoàn tụ bên gia đình, trong bầu không khí ấm áp của Tết quê hương. Đã thành hiện tượng quen thuộc, từ nhiều năm nay, cứ mỗi dịp gần Tết cổ truyền, các chuyến bay quốc tế tới Việt Nam hầu hết đều kín chỗ, các sân bay trong nước đông nghẹt người vì số lượng kiều bào trở về tăng đột biến... Bà con ta dù sống xa quê hương nhưng vẫn luôn giữ gìn truyền thống và bản sắc văn hóa tốt đẹp của ông cha, dù đi đâu, ở đâu, đến ngày Tết vẫn luôn tìm cách trở về đoàn tụ bên gia đình, người thân. Bởi sự thực là Tết Việt ở trời Tây dù cũng đủ đầy nhưng vẫn “nhớ lắm Tết quê hương” vì thiếu đi “phần hồn dân tộc và sự ấm áp của gia đình”. Đạo lý “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “lá lành đùm lá rách” luôn được bà con người Việt ở nước ngoài gìn giữ thể hiện bằng những phong trào quyên góp rộng khắp gửi về nước ủng hộ các gia đình chính sách, các hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin, đồng bào bị thiên tai... Bà Trần Thị Chang, kiều bào tại Ma-lai-xi-a về đón Tết Bính Thân ở quê hương, chia sẻ rằng: “Ở Ma-lai-xi-a, chúng tôi thường tổ chức cho cộng đồng đón Tết cổ quyền, Tết Trung thu, dạy con em tiếng Việt, phát động các phong trào ủng hộ trong nước, tham gia hoạt động bảo vệ chủ quyền đất nước... Dù ở đâu, chúng tôi luôn ý thức cần phải giữ gìn bản sắc của người Việt Nam”. Niềm tự hào, tự tôn dân tộc Việt luôn được bà con phát huy thông qua các hoạt động gắn kết, xây dựng cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, hòa nhập tốt với nước sở tại. Hoạt động quảng bá và giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế thông qua các lễ hội văn hóa Việt Nam ở nước ngoài đã trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt cộng đồng của bà con. Được biết có một nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài và trong nước đã tập hợp lại thành lập Nhóm vận động tổ chức Ngày Việt Nam trên toàn cầu nhằm gắn kết sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, giới thiệu tâm hồn Việt với bạn bè quốc tế và quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam một cách hệ thống, đồng bộ, toàn diện và thường niên với thế giới. Chị Nguyễn Thị Bích Yến, kiều bào tại Áo, người đưa ra sáng kiến tổ chức Ngày Việt Nam trên toàn cầu, chia sẻ: “Niềm tự hào dân tộc, tự hào quê hương đổi mới luôn thôi thúc tôi phải làm gì đó để xứng đáng là người Việt Nam. Trước mắt, tôi và các cộng sự sẽ thúc đẩy chiến lược phối hợp tổ chức Ngày Việt Nam và Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương trên toàn cầu”. Và trên tất cả, trong bầu huyết quản của mỗi người con đất Việt xa quê hương luôn nóng bỏng tình yêu quê hương, đất nước. Nếu không vậy, sao có những nhà khoa học, trí thức kiều bào sẵn sàng từ bỏ mức lương đáng mơ ước để trở về quê hương làm việc với đồng lương khiêm tốn hơn nhiều. Số lượng trí thức, nhà khoa học và doanh nhân kiều bào trở về nước làm việc và đầu tư ngày càng đông. Với sự chung tay góp sức của kiều bào, Việt Nam đang triển khai dự án xây dựng Nhà máy sản xuất Chip đầu tiên. Theo ông Bùi Ngọc Châu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Việt kiều tại Thụy Sĩ, hiện nay, một số trí thức Việt Nam tại Thụy Sĩ đang hợp tác với Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh để đào tạo chuyên viên và cố vấn cho những dự án công nghệ hóa đất nước như thiết kế và sản xuất vi mạch. Có những người dù một thời lầm lỗi có những suy nghĩ và hành động lệch lạc đối với quê hương, nhưng cuối cùng cũng đã vượt qua được rào cản định kiến, quay trở về và làm những việc có ích cho quê hương. Chưa bao giờ phong trào ủng hộ biển, đảo quê hương mạnh mẽ và lan tỏa rộng khắp như thời gian qua trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay, các trí thức Việt Nam ở các nước đang tìm cách liên lạc và kết nối với nhau để khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông trước thế giới và làm những công việc góp phần vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Nổi lên trong số đó là Nhóm Biển Đông tại Pháp, được coi là cầu nối chuyển tải các thông tin, kiến thức về Biển Đông đến cộng đồng người Việt Nam tại Pháp, người Pháp và đến toàn thế giới. Điều có ý nghĩa quan trọng là các hoạt động vì chủ quyền biển, đảo quê hương như của Nhóm Biển Đông nhận được sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng vì đã xoáy đúng vào tinh thần yêu nước, hướng về Tổ quốc của đông đảo người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Ngay tại địa bàn Mỹ, nơi có tình hình cộng đồng tương đối phức tạp, các hoạt động vì chủ quyền biển, đảo quê hương đã khơi gợi sự đồng lòng hướng về quê hương của kiều bào, từng bước xóa dần khoảng cách giữa cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ với đất nước. Đó là chia sẻ của chị Võ Thị Thanh Tuyền, Giám đốc điều hành của Hội Doanh nhân Việt Nam tại Mỹ. Có mặt trong đoàn kiều bào tiêu biểu về dự Chương trình Xuân Quê hương năm 2016 do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức vừa qua, anh Trần Bằng, kiều bào Pháp, trưởng Nhóm Biển Đông đã cho thấy bầu nhiệt huyết của một người con luôn đau đáu về biển, đảo quê hương. Điều anh trăn trở là phải làm sao kết nối và đoàn kết cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cùng đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ biển, đảo quê hương. Anh là người từng có chuyến đi thực tế tại Trường Sa và tổ chức một cuộc triển lãm ảnh sau chuyến đi này gây ấn tượng cho người xem. Dù đôi lúc bà con vẫn băn khoăn về những bất cập ở trong nước, nhưng trên hết, họ vẫn có niềm tin vững chắc vào triển vọng tốt đẹp của quê hương. Doanh nhân Vũ Quốc Trung, Việt kiều Áo, Phó chủ tịch Hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Áo cho hay, bên cạnh những trăn trở về vấn đề giao thông mà anh cho là khó thích nghi ở Việt Nam, đã ngỡ ngàng đến không thể nhận ra khi đi trên con đường làng mình vì được bê tông hóa và thay đổi rất nhiều. Anh bày tỏ niềm tự hào Việt Nam không hề thua kém nước nào ở khu vực Đông Nam Á. An tâm và tin tưởng vào thể chế chính trị ở Việt Nam, cùng những thay đổi trong ban lãnh đạo đất nước vừa qua, anh Trung tin tưởng Việt Nam sẽ trở thành một nước ngang tầm châu Á trong một tương lai không xa. Cùng chung những cảm nhận hạnh phúc về quê hương đổi mới, ông Phạm Văn Đức, Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Ăng-gô-la chia sẻ ấn tượng về sự đổi thay kỳ diệu của đất nước trong quá trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là những thay đổi đi lên về thu nhập quốc dân, đời sống người dân, công tác xóa đói giảm nghèo... Tới thăm tỉnh Lào Cai, một trong những tỉnh miền núi đạt tốc độ phát triển nhanh chóng những năm gần đây, với tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 9% trong những năm trước nay xuống còn hơn 2%, đúng dịp Đại hội lần thứ XII của Đảng vừa kết thúc thành công, ông Đức bày tỏ niềm vui: “Đại hội đã đáp ứng được kỳ vọng của đông đảo người dân cả nước tiếp tục đưa đất nước đổi mới mọi mặt, làm cho cuộc sống của nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, đất nước phát triển mạnh mẽ hơn. Cộng đồng người Việt Nam tại Ăng-gô-la kỳ vọng và tin tưởng ban lãnh đạo mới sẽ dẫn dắt đất nước phát triển đi lên trong giai đoạn tới”. Tuy nhiên, bất chấp thực tế phát triển đi lên của đất nước, vẫn còn một số ít những ý kiến nhìn nhận sai lầm, có thể do thiếu thông tin hoặc cố tình xuyên tạc thực tế khách quan do vẫn mang tâm thế hằn học, định kiến. Trong số họ có nhiều người vì xa quê hương lâu năm vì một số lý do nên còn e ngại chưa dám trở về, dẫn đến thiếu thông tin về tình hình thực tế đất nước. Chị Võ Thị Thanh Tuyền cho biết nhiều bà con ở Mỹ, nhất là những người cao tuổi, cũng rất muốn trở về thăm quê hương nhưng còn tâm lý e ngại. Thậm chí, có một số trường hợp Hội của chị Tuyền đã phải đứng ra cam đoan rằng, họ sẽ được an toàn khi trở về Việt Nam. Nhưng đáng trách hơn là những người cùng mang dòng máu đỏ, da vàng, sống ở trong nước biết rõ tình hình, vẫn đang tâm đưa ra những phát ngôn bị bóp méo làm xấu hình ảnh đất nước. Như trường hợp một nữ nhà văn nọ xin tị nạn chính trị tại Đức đã có những phát biểu tùy tiện trên BBC về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Mấy năm gần đây, nữ nhà văn này còn đưa ra những phát ngôn xuyên tạc sự thật phê phán lãnh đạo và Nhà nước Việt Nam, phủ nhận trắng trợn các thành tựu phát triển được cả thế giới ghi nhận... Đáng lên án hơn là chính họ đang bị các thế lực thù địch, các tổ chức và cá nhân thiếu thiện chí lợi dụng để tiếp tục bịa đặt, vu khống Việt Nam. Chia sẻ về vấn đề này, ông Hồ Ngọc Thắng, người Việt Nam sống và làm việc đã nhiều năm tại Đức, khẳng định: “Tôi có đủ điều kiện và cơ hội để biết rằng, đại đa số người Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về quê hương và bằng nhiều cách khác nhau đã và đang tích cực góp một phần của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Theo ông Hồ Ngọc Thắng, chỉ còn một bộ phận rất nhỏ vẫn còn tư tưởng hay hành động chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra có một vài cá nhân, ra nước ngoài trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, hiện nay đã bán rẻ lương tâm và trở thành bồi bút của các thế lực thù địch như Bùi Tín, Dương Thu Hương... Ở trong nước, gần đây, một số cá nhân đã đội lốt “đấu tranh dân chủ”, hoạt động vì “nhân quyền, tự do tôn giáo, dân oan” để chống phá Việt Nam. Ông Hồ Ngọc Thắng bức xúc cho biết: “Là một người khi vừa tròn 18 tuổi, 1972 đã vượt Trường Sơn vào chiến đấu ở tuyến đầu tại chiến trường Quảng Trị và trở về sau khi nước nhà thống nhất, tôi đặc biệt bức xúc trước thực tế, một số người trong những năm tháng chiến tranh đã không tham gia chiến đấu, chỉ ăn học ở Hà Nội hay ở nước ngoài, ngày nay đang tìm mọi cách để xuyên tạc sự thật, cố tình gây ấn tượng xấu về Việt Nam trước thế giới. Tôi và đại đa số người dân Việt Nam trong và ngoài nước lên án những việc làm của họ vì họ đã đi ngược lại lợi ích quốc gia và phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Chắc chắn họ sẽ thất bại vì người dân Việt Nam đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước”. Là người con sống xa quê hương mang tình cảm đong đầy với Đất Mẹ và niềm tin vững vàng với Tổ quốc, ông Hồ Ngọc Thắng kiên quyết phản đối các luận điệu sai trái cùng những biểu hiện cố tình đi ngược lại với lợi ích chung của dân tộc bằng những bài viết có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, được đăng trên một số tờ báo uy tín trong nước. Có thể khẳng định rằng, hiện nay, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài rất ít bị tác động bởi lối tuyên truyền suy diễn lệch lạc về đất nước và hơn bao giờ hết, dòng chảy chính vẫn là hướng về quê hương bản quán với lòng yêu nước nồng nàn. Với chủ trương thông suốt “người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam” cùng các chính sách cởi mở đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước, sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc đã được phát huy ngày càng hiệu quả, tận dụng tốt hơn tiềm lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, gắn kết tình cảm với quê hương của bà con. Không thể phủ nhận, sau gần 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Trong quá trình phát triển đó, không thể tránh khỏi những bất cập, tồn tại cần phải khắc phục nên chưa thể đáp ứng được hết những trông đợi. Nhưng nếu dựa vào đó để phủ nhận các thành tựu phát triển, bịa đặt, xuyên tạc về tình hình đất nước là hành động đáng bị lên án mạnh mẽ. Và những người cũng mang dòng máu đỏ, da vàng lại đang làm những việc đi ngược lợi ích của dân tộc mình, thiết nghĩ, rất nên tự vấn lương tâm và hãy tự thấy xấu hổ trước những người con đất Việt dù ở phương trời nào vẫn đang từng ngày đóng góp tài trí, sức lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đã không làm được gì cho quê hương, tốt nhất hãy giữ yên lặng và chấm dứt ngay những hành động trái đạo lý truyền thống ấy./

Chủ động nhận diện, đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến” .

Làm thế nào để sớm phát hiện và ngăn chặn mầm mống của “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”? Đây là việc không hề đơn giản, là quá trình đấu tranh lâu dài, kiên trì, bền bỉ, đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, sau khi Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng thành công tốt đẹp và chuẩn bị bầu cử hội đồng nhân dân các cấp khóa 2016-2021, bầu cử Quốc hội khóa XIV, các đối tượng thù địch, phản động đang tìm mọi cách chống phá, làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, gây hoài nghi trong dân chúng… Trong chuyến kiểm tra thực hiện Chỉ thị 34-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa” tại một số đơn vị ở phía Bắc, Thủ trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị hỏi một sĩ quan trẻ: Đồng chí hiểu thế nào là “tự diễn biến?”. Đồng chí sĩ quan trẻ trả lời: “Với cán bộ, đảng viên và quân nhân, đó là quá trình đấu tranh giữa các mặt tích cực và tiêu cực, trong đó, yếu tố tiêu cực dần dần tăng lên, yếu tố tích cực phai nhạt dần. Đây là quá trình biến đổi từ bên trong chủ thể, đến một thời điểm nhất định, sự biến đổi này sẽ chuyển sang hành động của chủ thể…”. Đồng chí sĩ quan trẻ trả lời khá rõ ràng, rành mạch, nhưng khi hỏi đến những biểu hiện cụ thể của “tự diễn biến” đang diễn ra hằng ngày, thì đồng chí đó chưa trả lời được một cách đầy đủ. Đúng là để nhận biết, điểm mặt, chỉ tên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không phải dễ, bởi nó diễn ra âm ỉ, thầm lặng, lâu dài, từ bên trong; diễn biến hết sức phức tạp, khó nhận biết. Khi nhận biết rõ ràng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì nhiều khi đã quá muộn. Thời gian diễn ra quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" dài hay ngắn phụ thuộc vào từng con người, từng tổ chức, phụ thuộc vào độ vững vàng về chính trị của từng cán bộ đảng viên và độ "liêm" về đạo đức, lối sống của họ; nó như “căn bệnh”, phụ thuộc vào sức đề kháng của người bệnh. Theo các chuyên gia nghiên cứu thì ở giai đoạn ban đầu của “tự diễn biến”, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những biểu hiện này nếu không được kiểm soát bằng giáo dục, kiểm điểm phê bình để tự phê bình thì đối tượng bắt đầu chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu chống đối, những lý luận phản động. Kết quả là một số đối tượng bắt đầu có các hoạt động câu kết với các phần tử thù địch từ bên ngoài để tiếp tay cho chúng "thực tiễn hóa" hoạt động "diễn biến hòa bình" và "chuyển hóa nội bộ". Giai đoạn cao nhất của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” là đối tượng hoàn toàn bộc lộ tư tưởng phản động, chống đối, thể hiện rõ tư tưởng chính trị phản động, sẵn sàng đối đầu với pháp luật và hệ thống chính trị. Chúng chủ động tìm đến những phần tử đang "tự diễn biến" để tập hợp lực lượng, hình thành nhân lõi tổ chức ban đầu. Một số kẻ tự tìm đến các cơ quan đặc biệt nước ngoài để câu kết (có quốc gia xem đó là những "gián điệp tự nguyện"). Một ví dụ cụ thể: Cách đây chưa lâu, tại Cát Bà, Hải Phòng, Nguyễn Văn Đài và Tôn Phi (những chuyên gia về internet) đã tổ chức “Khóa huấn luyện an toàn kỹ thuật số” cho đại diện của các nhóm “XHDS” trong nước. Khóa huấn luyện này còn lồng ghép các nội dung: Về cách thức củng cố lực lượng, tạo sự gắn kết giữa các “nhóm dân chủ” trong cả nước; xúc tiến thành lập tổ chức “Công đoàn độc lập” và “Nhóm làng nghề độc lập”, làm đối trọng với tổ chức công đoàn Nhà nước và Hội Nông dân Việt Nam. Đối với các đối tượng đã chuyển hóa đến mức độ chống đối rõ ràng, thậm chí công khai, công tác đấu tranh cần phải có các biện pháp phù hợp tương ứng, trong đó, đấu tranh làm tan rã tổ chức, chuyển hóa tư tưởng phản động là nhiệm vụ rất quan trọng. Một số trường hợp phải kiên quyết xử lý bằng pháp luật để thể hiện tính nghiêm minh, đồng thời cảnh báo ngăn chặn, cảnh tỉnh những trường hợp tương tự. Căn nguyên sâu xa của hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chính là tư duy sai lầm, ngộ nhận trái thành phải, sai thành đúng, ác thành thiện, hại dân, hại nước thành “ích nước, lợi dân”. Các hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thể hiện sự tự suy thoái, tự tan rã, sự chuyển biến từ tốt thành xấu, từ yêu nước thành phản động…Tuy nhiên, “những người trong cuộc”, có hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì lại nghĩ khác, thậm chí ngộ nhận chân lý, lẽ phải thuộc về họ, “chính họ mới là những người yêu nước chân chính, yêu nước thực sự”. Họ thường đặt các giá trị tinh thần, các lý tưởng (sai lầm, cuồng tín, nhưng họ ngộ nhận là chân lý, là lẽ phải, là đang chiến đấu bảo về lợi ích quốc gia, dân tộc) lên trên lợi ích cá nhân, cục bộ. Họ thường tự cho mình là người có đạo đức và luôn hăng hái bảo vệ sự cuồng tín đó. Họ chỉ “đầu hàng” khi chúng ta thuyết phục được họ rằng, tư duy của họ là sai lầm, lòng yêu nước của họ là ngộ nhận. Qua đó cho thấy rõ hơn tính chất cam go của cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Làm thế nào để sớm phát hiện và ngăn chặn mầm mống của “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”? Đây là việc không hề đơn giản, là quá trình đấu tranh lâu dài, kiên trì, bền bỉ, đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, sau khi Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng thành công tốt đẹp và chuẩn bị bầu cử hội đồng nhân dân các cấp khóa 2016-2021, bầu cử Quốc hội khóa XIV, các đối tượng thù địch, phản động đang tìm mọi cách chống phá, làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, gây hoài nghi trong dân chúng… Cán bộ, chiến sĩ quân đội là một trong các lực lượng đi tiên phong trong đấu tranh ngăn chặn mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do vậy, việc đầu tiên là phải ngăn chặn kịp thời mọi biểu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong các cơ quan, đơn vị. Cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tập trung bồi dưỡng mục tiêu lý tưởng chiến đấu, xây dựng niềm tin và bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; phát huy vai trò của tổ chức đảng và mọi cán bộ đảng viên; phối hợp chặt chẽ các tổ chức, các lực lượng trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Tăng cường công tác quản lý chính trị nội bộ; chủ động phòng ngừa, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội, đồng thời tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”…

Củng cố niềm tin của nhân dân từ hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng .

Những năm qua, trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động thường khai thác, lợi dụng một số vụ án tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở Việt Nam để xuyên tạc, chống phá công cuộc Đổi mới và sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Cùng với đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả PCTN, chúng ta cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm đó... Thủ đoạn phổ biến của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là tuyệt đối hóa phần đánh giá hạn chế trong các báo cáo, kết luận của Đảng và Nhà nước ta về tham nhũng và PCTN; hoặc lấy vi phạm của một số cán bộ, đảng viên, một số vụ việc, vụ án trọng điểm đang được chỉ đạo, xử lý để “phóng đại” thành tình hình chung. Họ tách rời tham nhũng với công tác PCTN để “khoét sâu nội bộ”, đổ lỗi do năng lực lãnh đạo của người đứng đầu, viện cớ “vì duy nhất Đảng Cộng sản cầm quyền”, nên sai lầm về đường lối và tất yếu để xảy ra tham nhũng, hòng hạ thấp uy tín của Đảng ta, chia rẽ, gây mất đoàn kết trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo cao cấp; làm giảm sút lòng tin của xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và bộ máy chính quyền các cấp; chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cùng với đó, họ còn tuyên truyền, tung hô: “Phải thực hiện đa nguyên, đa đảng” và “chỉ có từ bỏ chủ nghĩa xã hội thì Việt Nam mới hết tham nhũng…”. Các thế lực thù địch, phản động cũng triệt để tận dụng internet để đăng tải các bài viết kèm thông tin, số liệu đã được “xào xáo”, một số hình ảnh cắt ghép lộ liễu, trắng trợn; đưa các phim phóng sự, phỏng vấn, bình luận với sự suy diễn, áp đặt chủ quan, xuyên tạc… hòng tác động đa chiều vào dư luận xã hội, làm dấy lên những băn khoăn, lo lắng, nghi hoặc của nhân dân. Họ kết hợp lợi dụng một số bức xúc ở một vài nhóm dân cư để âm mưu kích động, tạo thành các “điểm nóng”, nhằm gây rối về an ninh chính trị từ cơ sở… Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kể cả ở nước nghèo và nước giàu, quốc gia phát triển, đang phát triển, hoặc kém phát triển; không phân biệt do một đảng hay do đa đảng đối lập lãnh đạo. Trên thế giới, tham nhũng đã có từ xa xưa và hiện vẫn đang là vấn nạn nghiêm trọng tại nhiều quốc gia. Năm 2015, trong bảng xếp hạng tham nhũng toàn cầu do Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) công bố cho thấy, có khoảng 2/3 các nước trên thế giới có số điểm dưới 50 về PCTN. Thông điệp của Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-mun (Ban Ki Moon) nhân Ngày quốc tế PCTN (9-12-2015) có nêu: Quan điểm toàn cầu về tham nhũng đã thay đổi đáng kể. Trước đây tham nhũng, hối lộ và các dòng tài chính bất hợp pháp thường được coi là một phần của chi phí kinh doanh, nhưng nay tham nhũng được hiểu một cách rộng rãi, đúng là một loại tội phạm và có tính chất phá hoại… Tham nhũng tác động tiêu cực đến sự phát triển, làm trầm trọng thêm vấn đề bạo lực và sự bất ổn, lo lắng của người dân... Ở Việt Nam, các hiện tượng tham ô tài sản, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn… đã được Đảng ta nhận diện, nghiêm túc tự phê bình và thẳng thắn chỉ ra ngay từ thời kỳ xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ sau năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng coi tham nhũng, quan liêu, lãng phí là giặc nội xâm, kẻ thù của nhân dân. Trong các văn kiện của Đảng đều nói đến tệ nạn này, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Tháng 1-1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã cảnh báo: “Nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội là một trong bốn nguy cơ trước mắt của đất nước”. Theo đánh giá tại Hội nghị Trung ương 5, khóa XI của Đảng: “Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành… gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước…”. Không dừng lại ở nhận diện, Đảng và Nhà nước ta luôn coi đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời xác định PCTN là một trong những đối sách phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nhiều văn bản như: Chỉ thị số 64-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI và Chỉ thị số 15-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VII “Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng”…; Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí”; Chỉ thị số 50-CT/TWcủa Bộ Chính trị khóa XI “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”…; cùng với đó Luật PCTN (bổ sung, sửa đổi năm 2007 và năm 2012) có hiệu lực từ ngày 1-6-2006, đồng bộ với nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành, hoặc có liên quan nhằm cụ thể hóa việc triển khai Chiến lược quốc gia về PCTN đến năm 2020… Qua đó, cho thấy PCTN ở nước ta được triển khai một cách quyết liệt, toàn diện. Việc chỉ đạo công tác phát hiện và xử lý tham nhũng đã có chất lượng, hiệu quả hơn; hợp tác quốc tế trong PCTN tích cực, chủ động hơn… Đặc biệt, Quy định tổ chức bộ máy và mô hình Ban Chỉ đạo (BCĐ) Trung ương về PCTN (gọi tắt là BCĐ) trực thuộc Bộ Chính trị đã thể hiện rõ quan điểm Đảng trực tiếp lãnh đạo để tăng cường khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác PCTN. Trong 3 năm (2013 - 2015), BCĐ đã tổ chức 9 phiên giao ban tình hình, thành lập 25 đoàn kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác PCTN tại 15 đảng ủy, ban cán sự đảng bộ, ngành Trung ương và 29 ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy. Qua kiểm tra, giám sát, nhiều khó khăn, vướng mắc đã được tháo gỡ; đề xuất, kiến nghị đưa 126 vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận quan tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo; đến nay nhiều vụ án, vụ việc được chỉ đạo, xử lý dứt điểm. Trong đó, riêng các vụ án thuộc diện BCĐ Trung ương theo dõi, chỉ đạo, trong 2 năm 2014 và 2015 đã xét xử sơ thẩm 14 vụ với 149 bị cáo; toàn bộ 8 vụ án trọng điểm, BCĐ yêu cầu xét xử trước Đại hội XII của Đảng đã hoàn thành đúng tiến độ… Năm 2016, BCĐ đã và đang triển khai 6 nhóm nhiệm vụ công tác trọng tâm; trong đó, đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, công khai kết quả về PCTN; chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng tập trung cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng về PCTN được nêu trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng; chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 7-12-2015 của Bộ Chính trị; tăng cường kiểm tra chuyên đề công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng… Thực tế trên cho thấy, Đảng ta luôn coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh mạnh mẽ PCTN, xử lý nghiêm minh hành vi và tội phạm tham nhũng, không có “vùng cấm” trong PCTN. Đảng ta và tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng luôn thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Nếu để tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng, kéo dài, Đảng sẽ tự suy yếu, “thế trận lòng dân” sẽ suy giảm, dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ và chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định: “Đẩy mạnh đấu tranh PCTN, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết PCTN, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí”. Chủ trương đó thêm một lần nữa khẳng định, Đảng ta và Nhà nước ta đã và đang ngày càng đề cao quyết tâm chính trị, không ngừng đổi mới, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao hiệu quả PCTN. Tuy nhiên, tham nhũng vẫn đang là vấn nạn phức tạp; bên cạnh đó, do tác động mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế lên những giá trị đạo đức, quan niệm sống, nhân cách con người… làm cho tham nhũng vẫn còn “đất” để bám rễ, tồn tại. Đây tiếp tục là nguy cơ, thách thức, đòi hỏi cả hệ thống chính trị và toàn xã hội phải quyết liệt, nỗ lực và hiệu quả hơn nữa trong PCTN. Bên cạnh đó, chúng ta cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tình hình tham nhũng và công tác PCTN ở nước ta để thực hiện âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng và công cuộc Đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của nhân dân ta./.

Phản bác quan điểm cho rằng: "Việt Nam lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sai lầm lịch sử”

 

Có quan điểm cho rằng: "Việt Nam lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sai lầm lịch sử; nhà nước nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu, nước mạnh". Đây là quan điểm phản động được các thế lực thù địch tuyên truyền rộng rãi, nhằm chống lại chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gây cản trở sự phát triển bền vững của đất nước, nhất là trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động về chính trị, kinh tế, văn hóa hiện nay.

Trước hết cần khẳng định dứt khoát về sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, lựa chọn chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự lựa chọn sáng suốt, nhất quán của Nhân dân Việt Nam.

Cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930-1975 giành được thắng lợi vẻ vang, chứng tỏ chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin và ngay từ đầu đã xác định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mới là tổ chức có thể tập hợp và đoàn kết được lực lượng của toàn dân với lực lượng công – nông là nòng cốt; tranh thủ được sức mạnh của thời đại mà trước hết là của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, là đội quân chủ lực hùng mạnh làm cho dân tộc ta được độc lập, Nhân dân ta được tự do, đất nước ta được hòa bình, thống nhất.

Từ sau năm 1975, trong bối cảnh bị bao vây, phong tỏa, cấm vận ngặt nghèo nhưng với khát vọng độc lập tự do cho dân tộc, Đảng ta đã kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống Nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, như phát biểu khẳng định của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực và vị thế như ngày nay”

Như vậy, lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, lựa chọn chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân chẳng những không phải là sai lầm lịch sử, mà còn là một sự lựa chọn đúng đắn dựa vào căn cứ khoa học – lý luận vững chắc và xu hướng phát triển khách quan của lịch sử.

MAI NĂM MỚI

Nhiệt huyết cần đi đôi với tỉnh táo .

Trong lúc Đảng, Nhà nước và chính quyền các địa phương đang nỗ lực cao độ để xử lý khắc phục sự cố môi trường nghiêm trọng ở các tỉnh ven biển miền Trung, những ngày qua, một số đối tượng xấu lại cố tình lôi kéo người dân, tìm cách “lái” sự việc sang hướng gắn với động cơ chính trị, từ đó mà kích động các cuộc tụ tập, tuần hành. Những chuyện “bất thường” Liên tiếp các ngày nghỉ cuối tuần gần đây, các đối tượng xấu “phát động” những chương trình được gọi là “xuống đường vì môi trường”, “chọn cá không chọn thép”. Trên nhiều trang mạng xã hội, những người này tung ra những chương trình đầy lời dụ dẫn ma mị, lừa phỉnh người dân, hô hào một cuộc “tổng biểu tình”, “xuống đường bảo vệ môi trường biển Việt Nam, bảo vệ sự sống cho chính chúng ta và gia đình”… Những âm mưu, luận điệu ấy không dừng ở chuyện môi trường mà còn dần “bẻ lái” sang nhằm vào cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021 cùng một số sự kiện khác. Họ hô hào, kích động tuần hành gắn với phản đối, tẩy chay bầu cử. Đây đó, còn có cả những “khuyến nghị” đòi môi trường sạch, “bầu cử minh bạch” bằng các tâm thư gửi ra nước ngoài, thỉnh cầu các nguyên thủ, nghị sĩ nước ngoài… Việt Nam là một quốc gia biển, mỗi ngày có hơn 2 triệu người dân làm ăn trên biển. Trước sự cố môi trường nghiêm trọng lần đầu xảy ra, lẽ đương nhiên những người dân yêu nước, yêu lao động, yêu môi trường phải bày tỏ sự lo lắng, bất an. Sự bức xúc, nghi ngờ, thái độ phản ứng gay gắt trước dấu hiệu sai phạm trong xả thải công nghiệp cũng là chính đáng. Thế nên, không phải không có những người suy nghĩ giản đơn rằng việc tuần hành, xuống đường vì môi trường là điều nên làm. Song nếu nhìn rộng hơn, nghĩ sâu hơn thì những gì mới diễn ra không đơn giản như vậy. Trước hết hãy xem những người kêu gọi xuống đường nói gì, làm gì? Nếu vì môi trường thực sự thì tại sao phải đưa ra những khẩu hiệu như: “Cá cần nước sạch, dân cần minh bạch”, “dân cần chính quyền sạch”, “Hãy hành động trước khi mất nước”...Trắng trợn hơn, họ đổ lỗi câu chuyện môi trường là do thể chế, do sự lãnh đạo của Đảng; bịa đặt chính quyền “im lặng” trước hiểm họa, bao che lợi ích nước ngoài. Câu chuyện cá chết đã được lái sang vấn đề chính trị một cách đầy thâm hiểm mà mục đích không có gì khác là nhằm gây hoang mang, chia rẽ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Những cuộc tụ tập dưới khẩu hiệu “vì môi trường” đã bị nhuốm màu bởi những mưu đồ đen tối. Hãy cảnh giác Nhân đây, cũng phải nhắc lại sự việc mới là Công an tỉnh Hà Tĩnh và Công an tỉnh Quảng Bình đã phát hiện, đấu tranh, khai thác 2 đối tượng có hành vi thu thập thông tin, hình ảnh để tán phát trên internet nhằm kích động người dân tuần hành. Trong đó, đối tượng Trương Minh Tam, trú tại huyện Đông Anh, TP Hà Nội khai nhận, đã tham gia phong trào "Con đường Việt Nam", thường thu thập thông tin các vụ việc "nhạy cảm" về chính trị để tán phát trên facebook "Con đường Việt Nam". Thực hiện chỉ đạo của số kẻ cầm đầu phong trào "Con đường Việt Nam", chiều 26-4-2016, Trương Minh Tam vào khu công nghiệp Formosa, Hà Tĩnh quay phim, chụp hình, phỏng vấn làm phóng sự, tán phát lên các trang mạng xấu để kích động người dân tụ tập, tuần hành. Tam còn khai thường xuyên được "Con đường Việt Nam" hỗ trợ, trả lương để hoạt động. Ngoài Tam, đối tượng Chu Mạnh Sơn trú ở Yên Thành, Nghệ An khi bị tạm giữ cũng khai nhận, Sơn được nhiều cá nhân, tổ chức phản động trong ngoài nước liên hệ, trong đó tổ chức phản động "Việt Tân" tại Mỹ lôi kéo; là thành viên nhóm "Việt Tân tương trợ" trên mạng xã hội facebook. Ngày 30-4-2016, Chu Mạnh Sơn cùng một số đối tượng đón xe khách vào Quảng Bình thu thập thông tin, hình ảnh quần chúng nhân dân tụ tập gửi cho các đối tượng để tán phát trên các trang mạng phản động nhằm xuyên tạc, gây kích động. Đây không phải là lần đầu tiên âm mưu, thủ đoạn kích động tuần hành, tụ tập để chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch bị phát hiện. Một báo cáo của cơ quan an ninh (Bộ Công an) cho biết: Từ năm 2005 đến nay, một số tổ chức NGO có liên quan trực tiếp tới dân chủ và “hoạt động lật đổ” như Quỹ Dân chủ quốc gia (NED), Viện Dân chủ quốc gia (IRI), Trung tâm đoàn kết lao động quốc tế Mỹ (ACILS), Viện quốc tế Đảng cộng hòa… đã vào Việt Nam nhằm “dựng lên các nhóm chính trị, tổ chức dân sự, các phong trào nhằm tạo dựng lực lượng chính trị trước các cuộc bầu cử, chuẩn bị cho việc xuống đường, biểu tình, tổng đình công… gây sức ép với Đảng và Chính phủ, tiến tới thay đổi chế độ XHCN ở Việt Nam”. Theo cơ quan chức năng, tổ chức phản động Việt Tân và các tổ chức phản động khác từng đưa lực lượng từ Việt Nam sang Thái Lan, Ma-lai-xi-a huấn luyện về phương thức lật đổ theo kiểu “cách mạng màu”, “đấu tranh bất bạo động”. Ngay tại TP Hồ Chí Minh, chúng từng mở 4 khóa huấn luyện cho hàng chục trí thức, sinh viên, hình thành các nhóm và chi bộ “Việt Tân” từ trước năm 2012. Trong đó, Hội dân oan chuyên móc nối, lôi kéo những người khiếu kiện, phát triển lực lượng ở các khu công nghiệp lớn. Các thế lực phản động cũng đã tổ chức nhiều đợt thu thập chữ ký vào thỉnh nguyện thư với qui mô lớn gửi chính quyền Mỹ. Từ sau Đại hội XI của Đảng, cơ quan công an đã thu được nhiều bằng chứng xác thực về âm mưu của Việt Tân và các tổ chức phản động lợi dụng các cuộc biểu tình “phản đối Trung Quốc” để tập dượt “cách mạng sắc màu” ở Việt Nam. Thực tế đó cho thấy mỗi người dân cần cảnh giác, không nên chủ quan, vô hình trung tiếp tay cho những âm mưu đen tối ấy. Những bài học chưa cũ Nhân việc các trang mạng đang liên tục kích động “tổng biểu tình vì môi trường”, thiết nghĩ cần nhắc lại những gì đã diễn ra vào tháng 5-2014, sau sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta. Thời điểm đó, lợi dụng sự bức xúc, lòng yêu nước của đồng bào cả nước, các tổ chức phản động đã lôi kéo người dân tụ tập, gây ra các cuộc tuần hành ở nhiều tỉnh, thành. Không dừng ở lại đó, dưới sự kích động của chúng, các cuộc tuần hành dần chuyển sang quá khích, đập phá tài sản, máy móc của các doanh nghiệp, thậm chí xảy ra nạn trộm cắp, hôi của. Đã xảy ra chết người, bị thương nhiều người, hàng trăm doanh nghiệp bị ảnh hưởng, hoạt động của một số doanh nghiệp bị gián đoạn, hàng nghìn lao động Việt Nam bị mất việc làm. Số tiền bồi thường thiệt hại cho các doanh nghiệp rất lớn, chỉ riêng hãng bảo hiểm PVI đã phải chi trả đến hàng triệu USD. Sự việc còn ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường đầu tư, làm giảm dòng vốn FDI vào Việt Nam. Phải bằng nỗ lực, sự chủ động, tích cực của Đảng, Nhà nước ta trong việc tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các doanh nghiệp thiệt hại, tình hình mới ổn định trở lại. Các nhà đầu tư, các cơ quan ngoại giao và đại diện nhiều nước, vùng lãnh thổ: Hoa Kỳ, Singapore, Đài Loan… đã đánh giá cao cách xử lý tích cực, hiệu quả của Việt Nam. Sự việc còn để lại nhiều bài học cay đắng đối với không ít người do chủ quan, đơn giản hoặc mù quáng nghe lời kẻ xấu kích động mà “nhúng chàm”. Như ở quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh, 10 thanh niên trẻ, tuổi từ 17 đến 29 khi bị kích động đã gây rối, đập phá tài sản tại KCX Linh Trung II; thậm chí dùng gạch, đá, bom xăng ném và dùng xe mô-tô đâm các chiến sĩ công an đang làm nhiệm vụ bị thương. Các đối tượng này đã bị xử phạt tù giam. Hay như tại Hà Tĩnh, sáng ngày 13-5-2014, các đối tượng Bùi Ngọc Cường (là công nhân nhà máy xử lý nước sạch thuộc Dự án Formosa, Khu kinh tế Vũng Áng) đã bàn bạc với Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Thương và Bùi Ngọc Oanh đi tuần hành. Các đối tượng này đã in băng rôn, khẩu hiệu, dùng loa kích động đám đông tham gia tụ tập, gây rối trên công trường Formosa. Mặc dù các lực lượng chức năng như Công an, Biên phòng đã giải thích, ngăn cản và yêu cầu giải tán, nhưng các đối tượng vẫn không chấp hành, tiếp tục gây mất trật tự trị an, làm ách tắc giao thông trong nhiều giờ liền tại khu vực nói trên và còn có hành vi chống người thi hành công vụ. Sự việc đã khiến 3 công nhân nước ngoài thiệt mạng, hàng chục công nhân khác bị thương; nhiều vụ hôi của, trộm cắp xảy ra và nhiều công trình, nhà cửa, tài sản khác bị phá hủy. Sau đó, các đối tượng đã bị tòa án tuyên phạt 2 tội Gây rối trật tự công cộng và Chống người thi hành công vụ theo điều 245 và điều 275 Bộ luật hình sự. Nhiều đối tượng đã phải trải qua những ngày đầy ăn năn, hối hận trong nhà giam. Đó là những câu chuyện đau lòng không thể lãng quên. Trước những âm mưu, thủ đoạn lôi kéo người dân tụ tập, tuần hành hiện nay, chúng ta cần phải tỉnh táo, cảnh giác, đề cao trách nhiệm công dân, không tham gia, ủng hộ những lời kêu gọi, tiếp tay cho kẻ xấu, làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để kẻ xấu lợi dụng làm phức tạp tình hình nhằm phá hoại cuộc bầu cử hoặc gây ra các sự cố gây rối, phá hoại như cách đây 2 năm. Tin rằng, kết quả các cuộc điều tra, xác minh sự cố môi trường hiện đang được triển khai khẩn trương sẽ sớm được công bố cùng những giải pháp khắc phục triệt để, xử lý nghiêm minh. Điều quan trọng lúc này là sự chung tay của cả cộng đồng, cùng chính quyền tháo gỡ khó khăn, giúp ngư dân ổn định sản xuất; đồng thuận để giữ ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và cuộc sống bình yên của mỗi người dân Việt Nam. Thay cho lời kết, chúng tôi xin được trích một đoạn trong bài viết của nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan, được viết ngay sau khi xảy ra những vụ tuần hành, tụ tập gây rối vào tháng 5-2014: “Sức mạnh dân tộc bị suy yếu chỉ có lợi cho những người muốn thấy một nước Việt Nam yếu và chia rẽ. Đó là chưa kể một số kẻ mưu toan "đục nước béo cò", lợi dụng nhiệt huyết của các tầng lớp nhân dân để phục vụ cho những tính toán riêng của họ. Nói tóm lại, tình hình càng phức tạp chúng ta càng cần phải vận dụng nhuần nhuyễn những truyền thống, những bài học lớn đã thu lượm được trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày Nhà nước Việt Nam mới ra đời đến nay. Dũng khí cần song hành với mưu lược, nhiệt huyết cần đi đôi với sự tỉnh táo, có trái tim nóng chưa đủ, mà cần có cái đầu lạnh”.

Sự lãnh đạo của Đảng-nhân tố quyết định bảo đảm dân chủ ở Việt Nam .

Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, cho nên, nó chỉ có thể được thực hiện bằng con đường thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn bộ xã hội thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản. Chỉ có giai cấp vô sản và Đảng tiên phong của mình, với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại quần chúng nhân dân lao động mới có khả năng thiết lập được nền chuyên chính vô sản, vừa bảo đảm dân chủ và lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng lao động, vừa triệt tiêu mọi khả năng phục hồi chế độ bóc lột và nô dịch... Trước thềm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, các thế lực thù địch, phản động tìm trăm phương nghìn kế, với nhiều chiêu trò thâm hiểm để phá hoại cuộc bầu cử. Họ tận dụng triệt để các trang mạng xã hội, các diễn đàn để đả kích, bôi nhọ, phủ định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam-nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Việc xây dựng nền dân chủ ở nước ta nói chung, bầu cử nói riêng-một quyền cơ bản của công dân, một hình thức sinh hoạt dân chủ sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, trở thành hướng tiến công, phá hoại chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động. Cả lý luận và thực tiễn đã khẳng định, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ có thể được xây dựng, thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện, triệt để dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của một chính đảng duy nhất-Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng mác-xít lê-nin-nít chân chính. Dân chủ là một giá trị xã hội, là khát vọng của nhân loại. Trình độ dân chủ phát triển cùng với tiến bộ xã hội là một tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội. Dân chủ theo nghĩa chính trị-xã hội là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận và thực hiện nguyên tắc bình đẳng và tự do của mọi công dân trong xã hội. Thuật ngữ dân chủ được dùng để chỉ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của một loại tổ chức xã hội cụ thể, trong đó xác định và thực hiện quyền bình đẳng tham gia của mọi thành viên. Vì thế, dân chủ trở thành một nguyên tắc trong các mối quan hệ xã hội, là mục tiêu, là một động lực của sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ (1); “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn, cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ của dân”(2). Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ thực chất là chế độ ủy quyền của nhân dân vào Nhà nước và Nhà nước là cơ quan quyền lực của dân, thực thi sự ủy quyền của dân. Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, cho nên, nó chỉ có thể được thực hiện bằng con đường thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn bộ xã hội thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản. Chỉ có giai cấp vô sản và Đảng tiên phong của mình, với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại quần chúng nhân dân lao động mới có khả năng thiết lập được nền chuyên chính vô sản, vừa bảo đảm dân chủ và lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng lao động, vừa triệt tiêu mọi khả năng phục hồi chế độ bóc lột và nô dịch. Việc Đảng Cộng sản ở các nước vươn lên khẳng định vị trí đảng cầm quyền duy nhất sau khi đã giành được chính quyền là một quy luật gắn với tiến trình đấu tranh vì nền dân chủ. Một đảng cầm quyền như vậy sẽ luôn luôn thống nhất từ trong bản chất, mục tiêu, phương thức của một nền dân chủ vì quyền lực và lợi ích của đa số người lao động. Sự cầm quyền (tức vai trò lãnh đạo của Đảng) và quyền lực của đông đảo nhân dân gắn bó hữu cơ, khăng khít với nhau. Xã hội dân chủ hay không dân chủ, không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc áp dụng hay không áp dụng chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Chế độ một đảng hay nhiều đảng, không phải là dấu hiệu, càng không phải là bản chất của dân chủ hay không dân chủ. Không phải cứ đa đảng là dân chủ, còn một đảng thì không dân chủ. Điều cốt yếu là ở chỗ, đảng cầm quyền đó có thực sự cách mạng, có thực sự vì lợi ích của nhân dân hay không. Dân chủ phụ thuộc một cách quyết định vào lý tưởng và bản chất chính trị của đảng cầm quyền. Tính chất và trình độ dân chủ của một nước, một xã hội được quyết định chủ yếu bởi tính chất của nền dân chủ, bản chất của đảng cầm quyền và ở việc phát huy quyền làm chủ của đại đa số nhân dân, thực hiện lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân. Nếu một đảng cầm quyền, dù “mang danh cộng sản”, nhưng thoái hóa biến chất, xa rời quần chúng, xa rời nhân dân, không có bộ máy và phương thức hoạt động bảo đảm được dân chủ; không có cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực; nếu đảng đó không có khả năng xây dựng được một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân…, thì chắc chắn không thể bảo đảm được dân chủ. Mặt khác, cần thấy rằng, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động là bản chất, quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của Nhà nước Việt Nam XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo-một “Đảng cách mạng; ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(3). Đảng Cộng sản Việt Nam không hề áp đặt vai trò độc quyền lãnh đạo của mình. Để được nhân dân thừa nhận là người lãnh đạo, Đảng đã phải trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, đầy thử thách, hy sinh với biết bao người con ưu tú của Đảng và dân tộc đã ngã xuống. Thực tế đến nay, chưa có lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó không phải là ý chí chủ quan về chính trị, mà là một tất yếu khách quan của lịch sử. Mọi mưu toan hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là trái với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam có trách nhiệm xây dựng và chuẩn bị cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trong đó có nhân sự cán bộ để giới thiệu bầu làm đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp theo đúng Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Vì rằng, việc giới thiệu ứng cử viên là đảng viên của đảng mình ra tranh cử là một trong những chức năng cơ bản của các đảng chính trị. Theo đó, cơ chế “Đảng cử dân bầu” là hoàn toàn phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được xây dựng với thể chế chính trị nhất nguyên chính trị, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện vai trò chủ thể lịch sử của mình khi được Đảng Cộng sản lãnh đạo và trong hệ thống chính trị không có các đảng phái đối lập, đại diện cho những lợi ích khác nhau. Do vậy, chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản dựa trên nền tảng học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo đảm không gì thay thế được cho thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một “chế độ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Mọi mưu toan thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, hay hướng vào con đường xã hội-dân chủ, chỉ là sự mất phương hướng chính trị-giai cấp, mơ hồ bản chất giai cấp của chế độ xã hội chủ nghĩa và tự mình từ bỏ chủ nghĩa xã hội.

Khởi tố kẻ sát hại bé trai 11 tuổi

Nam ĐịnhChiều 28/4, cơ quan cảnh sát điều tra khởi tố, bắt tạm giam Nguyễn Văn Quân (43 tuổi, trú xã Yên Cường, huyện Ý Yên) vì sát hại cháu bé 11 tuổi. Quân bị khởi tố với hai tội danh Giết người và Cướp tài sản. Khai với công an, Quân nói biết anh Quang hàng xóm có khoản tiền lớn do mới thanh toán công trình xây dựng nên trưa 24/4 đã lẻn vào nhà ăn trộm. Tìm thấy két sắt của gia chủ để trên tầng 2, nghi can đã phá khóa, lấy đi 16 triệu đồng tiền chẵn và để lại khoảng một triệu đồng tiền lẻ. Hành vi của Quân bị bé trai 11 tuổi, con chủ nhà, phát hiện. Để bịt đầu mối, Quân bóp cổ nạn nhân, đưa xác vào nhà tắm, dựng hiện trường giả. Nạn nhân sau đó được chị gái phát hiện trong tư thế úp mặt trong chậu nước. Sau khi gây án, Quân về nhà thay quần áo, cất 10 triệu đồng tại phòng ngủ, số tiền còn lại mang đi chơi. Đến cuối giờ chiều cùng ngày, Quân bị bắt. Theo nhà chức trách, Quân bị câm điếc, đang hưởng chế độ chất độc da cam, nghiện lô đề, cờ bạc và thường qua nhà anh Quang chơi. Trước ngày con trai bị sát hại, con chó giữ nhà bị câu mất, anh Quang đã mang phần lớn số tiền gửi ngân hàng, chỉ để lại ít tiền chi tiêu gia đình.

 

KHÔNG THẾ LỰC NÀO CÓ THỂ NGĂN CẢN KHÁT VỌNG VƯƠN LÊN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 

Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn, mục tiêu phấn đấu đưa nước ta phát triển trong 5 năm, 10 năm, 25 năm nhân dịp các mốc son lịch sử của dân tộc và Đảng ta. Mục tiêu ấy không chỉ khích lệ, động viên, thúc giục toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) mà còn chủ động tạo ra thế và lực ngày càng ổn định, vững vàng để đưa đất nước bứt phá, phát triển cùng thời đại.

Nhưng các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại xuyên tạc việc Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra tầm nhìn, khát vọng phát triển đất nước như vậy là viễn cảnh hão huyền, viển vông.

1. Một lối suy diễn quy chụp, vô lương

Tìm đủ chiêu trò để bôi nhọ, xuyên tạc nhằm chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là âm mưu, thủ đoạn không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị. Việc Đảng ta tổ chức Đại hội XIII thành công rất tốt đẹp trên mọi phương diện, được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao, khiến những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị càng thêm cay cú. Họ không chỉ phủ nhận nền tảng tư tưởng, xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng mà còn cố tình đánh lạc hướng dư luận bằng những cái nhìn thiển cận, hẹp hòi và suy diễn ác ý về những điểm mới được xác định trong nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Họ cho rằng, các quan điểm và giải pháp mà Đại hội XIII của Đảng đưa ra trùng lắp, chống chéo, cái nọ cản trở cái kia nên khó có thể thực hiện được. Họ rêu rao việc Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu “Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp” chỉ là những chiếc bánh vẽ ghi trong văn kiện Đảng”; còn việc “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là mục tiêu tuyên truyền “vẽ voi trên giấy” của tuyên giáo Cộng sản Việt Nam sau Đại hội XIII”, là thái độ mị dân của những người cộng sản “chỉ nói hay mà không làm”... 

`Từ cái nhìn sặc mùi phản động đó, họ đã bộc lộ rõ tim đen của những kẻ chống phá quyết liệt đối với Đảng và chế độ ta: “Còn chuyên chế cộng sản lãnh đạo thì người Việt Nam không có quyền tự do, dân chủ, hạnh phúc và cũng không có khát vọng phát triển thịnh vượng, hùng cường”!

 2. Cơ sở khoa học để từng bước hiện thực hóa khát vọng chính đáng, nhân văn

Việc Đảng ta đưa ra tầm nhìn, mục tiêu phấn đấu từng bước đưa nước ta phát triển trong 5 năm, 10 năm, 25 năm nhân dịp các mốc son lịch sử của dân tộc, không chỉ khích lệ, động viên, thúc giục toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH mà còn chủ động tạo ra thế và lực ngày càng ổn định, vững vàng để đưa đất nước bứt phá, phát triển cùng với xu thế phát triển của thời đại.

Sau nhiều năm giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, đặc biệt năm 2020 trong điều kiện đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu, phần lớn các nước trên thế giới có mức tăng trưởng âm thì nước ta vẫn giữ được mục tiêu kép là vừa kiểm soát tốt dịch bệnh, vừa giữ mức tăng trưởng dương. Năm 2020 quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343 tỷ USD, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt 3.521USD, đứng thứ sáu ASEAN.

Theo TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, để nằm trong nhóm các nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025, theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (WB) thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam phải ở mức 4.046-12.535USD/người/năm. Khi đó, quy mô GDP năm 2025 của Việt Nam cần đạt từ 410 tỷ USD (mức cận dưới) đến 1.260 tỷ USD (mức cận trên). Nếu tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 ở mức 6,7-6,8% (tương đương với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020) thì đến năm 2027 Việt Nam sẽ vào nhóm nước thu nhập trung bình cao.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chỉ tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5-7%/năm; GDP bình quân đầu người khoảng 4.700-5000USD. Như vậy, đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mục tiêu phấn đấu “là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp” là có cơ sở. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, mục tiêu phấn đấu “là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” cũng có căn cứ hiện thực, vì mục tiêu này dựa trên các kịch bản tăng trưởng kinh tế phù hợp với nguồn lực, khả năng hiện tại và triển vọng phát triển của đất nước.

Dưới góc nhìn của chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Minh Phong cho rằng, định hướng tầm nhìn và khát vọng phát triển cho Việt Nam dựa trên nguyên tắc lấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, phản ánh quy luật phát triển ở Việt Nam và khai thác có hiệu quả những thành tựu phát triển của thế giới, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ của nhân loại về phát triển toàn diện con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, phù hợp với triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam và bản chất nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội; đồng thời phù hợp với những chuẩn mực quốc tế về quản trị tốt, phục vụ phát triển và có khả năng xử lý, ứng phó linh hoạt với những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.

Tầm nhìn, khát vọng phát triển của Việt Nam không phải dựa trên ý chí chủ quan, không phải là tâm lý “con hát mẹ khen hay” như một số luận điệu rêu rao mà điều này được giới truyền thông quốc tế nhận định là có cơ sở. Báo The Washington Times (phiên bản báo in) của Mỹ ngày 9-4 vừa qua đăng bài viết đánh giá Việt Nam đã thành công trong việc kiện toàn các chức danh lãnh đạo chủ chốt nhà nước; đồng thời nhận định Việt Nam có một quá trình phát triển kinh tế đáng kinh ngạc khi vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong hai thập kỷ qua. Mặt khác, Việt Nam đã có được sự ổn định về mặt chính trị, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức thu nhập của người dân trong những năm tới.

Mới đây, nhiều hãng truyền thông uy tín tại Romania, như: Hãng thông tấn quốc gia Agerpres, Romaniatv.net, Republicatv.ro, Proarges.ro, Digi24.ro,... cũng nhận định, vào đầu nhiệm kỳ Chính phủ 2016-2021, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 14 trên thế giới về dân số, quy mô nền kinh tế đứng thứ 48, nhưng đến nay, xếp hạng của Việt Nam đã tăng 11 bậc, đứng thứ 37 thế giới. Dù con đường phát triển còn nhiều khó khăn, thử thách nhưng có cơ sở để tin tưởng Việt Nam từ ngưỡng thu nhập trung bình sẽ gia nhập nhóm nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Mỗi con người có khát vọng đã là điều đáng quý. Càng quý trọng hơn khi mỗi tổ chức, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia dân tộc đều có khát vọng cao cả để hy vọng làm được những điều tốt đẹp, góp phần làm thay đổi cuộc sống, xã hội theo chiều hướng tích cực, văn minh, tiến bộ; qua đó đóng góp vào sự phát triển chung của nhân loại.

Do đó, ngăn cản khát vọng vươn lên của một dân tộc không chỉ là thái độ phản lại những giá trị tiến bộ của nhân loại mà còn là hành vi chà đạp lên ước nguyện chính đáng của gần 100 triệu người Việt đang chung tay góp sức, nỗ lực đồng lòng xây dựng đất nước ngày càng phát triển giàu mạnh, văn minh. Những luận điệu sai trái đó nhất định sẽ bị phủ nhận hoàn toàn bởi niềm tin, ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, như lời khẳng định của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc: Khát vọng về một nước Việt Nam hùng cường 2045 “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như ước nguyện của Bác Hồ và tinh thần Đại hội Đảng XIII đề ra, là mục tiêu cao cả mà chúng ta hôm nay và những thế hệ tiếp theo phải nỗ lực phấn đấu để giành được. Cha ông ta đã làm nên những trang sử hào hùng, được viết bằng mồ hôi và xương máu của biết bao thế hệ. Chúng ta có niềm tin mãnh liệt rằng: Tiếp nối truyền thống hào hùng sẽ có nhiều chương sử mới viết tiếp những kỳ tích tiến lên giàu mạnh, hùng cường của đất nước ta và dân tộc ta”