Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2022

Phản bác quan điểm “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế”

 

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Vậy mà gần đây lại xuất hiện quan điểm cho rằng “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế”.

Phản biện hay phản bội?

Từ lúc chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng, lợi dụng việc góp ý văn kiện, một số người đã “phản biện” quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ nên tập trung lãnh đạo chính trị, không nên lãnh đạo kinh tế”; “Đảng chỉ nên tự khuôn mình trong phạm vi “chính trị”, còn kinh tế là địa hạt của giới kinh doanh”...

Hai năm gần đây, do ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam chững lại, một số người lại đổ lỗi cho “Đảng Cộng sản Việt Nam không biết lãnh đạo kinh tế”, họ lại tiếp tục “phản biện” trên các mạng xã hội, trả lời báo chí nước ngoài rằng: “Đảng không nên “lấn sân” của Quốc hội, Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế” và “khuyến nghị”: “Trong lĩnh vực kinh tế, đã có Quốc hội ban hành pháp luật và giám sát tối cao, đã có Chính phủ quản lý điều hành, không cần Đảng lãnh đạo”... Đó là những quan điểm sai lầm, lợi dụng phản biện để phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân.

Thực tiễn đã khẳng định kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, quy định và chế ước lẫn nhau. Trên thế giới hiện nay, không có đảng phái chính trị nào không gắn kết với kinh tế. Lênin đã từng chỉ ra rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại.


Các đảng lớn của các nước tư bản phát triển đều đưa ra đường lối chính trị, dẫn dắt sự phát triển xã hội theo lý tưởng, mục tiêu đã lựa chọn. Trong đường lối chính trị đó đều có đường lối phát triển kinh tế.
Kinh tế quyết định chính trị, chính trị phản ánh kinh tế, nhưng chính trị không thụ động trước kinh tế, mà có vai trò tác động trở lại với kinh tế hoặc tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu là chính trị đúng đắn, sáng suốt; hoặc tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế và xã hội, nếu là chính trị sai lầm.  

Thực tiễn tại Việt Nam trong thế kỷ qua cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Cũng có lúc Đảng ta có sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo kinh tế, nhưng trong suốt 92 năm qua, chưa bao giờ Đảng ta xem nhẹ, buông lỏng vấn đề lãnh đạo kinh tế.

Nhờ chú trọng lãnh đạo kinh tế, bảo đảm sự đúng đắn và nhất quán về quan điểm chính trị trong lãnh đạo kinh tế mà Đảng ta đã nhanh chóng sửa chữa được khuyết điểm, giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế quan trọng, nhất là hơn 35 năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. 

Khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường

Để “chứng minh” rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam không nên lãnh đạo kinh tế”, một số người xuyên tạc đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta, họ cho rằng “không có nền kinh tế nào là nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”; “KTTT, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; ghép định hướng XHCN vào KTTT là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn”...

Có lẽ những người nói trên đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu bản chất của cơ chế thị trường và những khuyết tật của KTTT. Nguồn gốc và bản chất của KTTT là kinh tế hàng hóa; các phạm trù giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ, các quy luật cạnh tranh, quy luật cung-cầu, quy luật giá trị của kinh tế hàng hóa cũng là các phạm trù và quy luật của KTTT.

Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản (CNTB), được CNTB nắm lấy, sử dụng để phát triển thành KTTT tư bản chủ nghĩa. Trải qua thời gian, KTTT tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều biến đổi. Thời kỳ đầu khi mới ra đời, KTTT tư bản chủ nghĩa là KTTT tự do cạnh tranh, chưa có sự can thiệp của nhà nước.

Sự điều tiết của “bàn tay vô hình” của thị trường đã đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, nảy sinh ra nhiều khuyết tật của cơ chế thị trường, đòi hỏi phải có bàn tay quản lý của nhà nước.

Ngày nay, nền KTTT hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình” của thị trường, vừa có điều tiết bằng “bàn tay hữu hình” của nhà nước; trong đó, điều tiết của thị trường là cơ sở, nền tảng và điều tiết của nhà nước trên cơ sở tôn trọng điều tiết của thị trường (công cụ quản lý, điều tiết kinh tế của nhà nước là luật pháp, chính sách và các nguồn lực kinh tế của nhà nước).

Thực tế cho thấy, KTTT có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới không phải hoàn toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung, định hướng can thiệp của nhà nước.

Có mô hình KTTT tự do ở những nước mức độ can thiệp của nhà nước vào kinh tế thấp; nhà nước chỉ bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, tự do kinh doanh, bảo đảm trật tự, ổn định xã hội, còn để phạm vi điều tiết của thị trường lớn, điều tiết mọi hoạt động kinh tế.

Có mô hình KTTT xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để tạo cơ hội như nhau cho mọi người tham gia phát triển và hưởng thành quả phát triển, chống lại độc quyền, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội (như ở Đức).

Có mô hình KTTT phúc lợi xã hội, nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để điều tiết thu nhập, phát triển các dịch vụ xã hội công, bảo đảm phúc lợi cho người dân, đặc biệt là những người cần được trợ giúp là trẻ em, người già, người thất nghiệp... (như ở các nước Bắc Âu). Có mô hình KTTT nhà nước phát triển, nhà nước không chỉ tạo thể chế, môi trường cho các chủ thể kinh tế hoạt động, mà còn có chiến lược, chính sách và sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà nước để định hướng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế (như ở Nhật Bản, Hàn Quốc)...

Phát triển KTTT định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm hạn chế những khuyết tật của KTTT. Định hướng XHCN của nền KTTT được bảo đảm bởi vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững; gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế; thể hiện ở quan hệ phân phối để mọi người đều được hưởng thành quả phát triển đất nước.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là mô hình KTTT định hướng XHCN. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã được hiến định trong Hiến pháp, văn bản pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp cũng hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng không làm thay các cơ quan Nhà nước. Đảng lãnh đạo kinh tế bằng cách tạo ra bảo đảm chính trị cho hoạt động kinh tế, xác định phương hướng chính trị cho hoạt động kinh tế đúng đắn và lành mạnh .

Chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ thực chất của nhân dân là định hướng mục tiêu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng chủ trương “phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm”. Lãnh đạo kinh tế của Đảng đã trở thành mắt xích chủ yếu, quan trọng, thiết thực và quyết định nhất trong toàn bộ đường lối lãnh đạo, trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã vượt qua bao gian nan, thử thách, được cả thế giới ngưỡng mộ, đặc biệt là trong thời kỳ phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Ngân hàng Standard Chartered mới đây đã đưa ra dự báo, nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022, với tốc độ tăng trưởng 6,7%, tăng trưởng năm 2023 là 7% và Việt Nam tiếp tục có triển vọng tích cực trong trung hạn.

Trong bản Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 2, Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh khởi đầu năm 2022, nền kinh tế Việt Nam có nhiều tín hiệu tích cực. Fitch Ratings là một trong những tổ chức có cái nhìn lạc quan nhất về kinh tế Việt Nam với dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,9% trong năm nay và 6,5% vào năm 2023.

Báo chí quốc tế trong thời gian gần đây đã có nhiều bài đánh giá tích cực triển vọng kinh tế Việt Nam nhờ chính sách ứng phó linh hoạt với Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh tế đang ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ. Chuyên trang tư vấn đầu tư ở châu Á Vietnam Briefing của công ty Dezan Shira nhận định, các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mới mà Việt Nam tham gia sẽ đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khi Việt Nam mở cửa biên giới, tăng tốc phục hồi.

Các FTA không chỉ giúp phát triển kinh tế, mạng lưới sản xuất, mà còn góp phần nâng cao các tiêu chuẩn lao động. Tờ Reuters cũng có bài viết khẳng định: Nhờ các chính sách linh hoạt của Chính phủ Việt Nam, các hoạt động kinh doanh đã được khôi phục, đặc biệt là từ quý IV năm trước, nhờ đó, ngành dệt may Việt Nam đã hạn chế đáng kể sự gián đoạn chuỗi cung ứng, kỳ vọng tăng mạnh xuất khẩu trong năm nay.

Thực tiễn đã trả lời rõ ràng cho câu hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam có nên lãnh đạo kinh tế hay không. Thực tiễn cũng đã khẳng định những luận điệu tuyên truyền “Đảng không nên lãnh đạo kinh tế" là xuyên tạc, kích động. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ quan điểm sai trái này.

Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là “ngọc càng mài càng sáng”

 

Việc giữ gìn và phát huy truyền thống quân đội, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn cần thiết, nó như “ngọc càng mài càng sáng”.

Một trong những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, chỉ ra rất rõ đó là: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác để tham ô, nhận hối lộ hoặc để người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác của mình trục lợi; cố ý làm trái các quy chế, quy định, dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, tiêu cực...”.

Từ sự “vạch mặt chỉ tên” chủ nghĩa cá nhân đó, càng cho thấy, việc giữ gìn và phát huy truyền thống quân đội, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn cần thiết, nó như “ngọc càng mài càng sáng”.

1. Một đồng chí cán bộ lãnh đạo vốn trưởng thành từ người chiến sĩ cầm súng trên chiến trường rồi chuyển ngành, phát triển thành cán bộ cấp cao. Ông đã trải qua tất cả thăng trầm của sự nghiệp và cuộc sống cho đến lúc về hưu. Vậy nhưng mỗi khi nói điều gì đó về mình, ông luôn nhận rằng: “Tôi là người lính chiến”.

Đọc kỹ lý lịch của ông tôi biết, những năm tháng là người chiến sĩ cầm súng trên chiến trường của ông không dài, thậm chí rất ngắn so với quãng thời gian ông đã chuyển ngành cho đến lúc về hưu. Vì sao ông vẫn luôn hoài niệm, tự hào với những năm tháng trong quân ngũ? Điều gì làm nên giá trị đó?

Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là “ngọc càng mài càng sáng”
 Huấn luyện khẩu đội cối tại Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3, Quân khu 1. Ảnh: MINH TRƯỜNG/qdnd.vn

Không khó lý giải, đó là phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, một nét đẹp độc đáo trong văn hóa Việt Nam và lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Khi còn sống, Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cho rằng, Bộ đội Cụ Hồ là một danh hiệu vinh dự mà nhân dân trao tặng.

Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là một giá trị văn hóa, là những giá trị cao quý nhất, đẹp đẽ nhất của Quân đội ta được hun đúc qua nhiều thế hệ, trở thành bản chất, truyền thống của quân đội. Bộ đội Cụ Hồ là sự kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc và đây là thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị.

Trong khi đề cập rất sâu kỹ những giá trị tốt đẹp của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, Nghị quyết 847 của Quân ủy Trung ương cũng chỉ rõ: “Còn một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức chưa sâu sắc, trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ chưa cao; thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, băn khoăn dao động trước diễn biến phức tạp của tình hình...; trong đó có cả cán bộ cao cấp, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm kỷ luật, pháp luật, quy định về những điều đảng viên không được làm, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, quân đội, làm ảnh hưởng đến truyền thống, uy tín của quân đội, phẩm chất và hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ.

2. Nhận định của Quân ủy Trung ương thể hiện trong Nghị quyết 847 là thẳng thắn, khách quan. Thời gian qua, hàng loạt cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những cán bộ giữ các cương vị quan trọng của Đảng, Nhà nước có vi phạm kỷ luật, pháp luật bị xử lý.

Trong quân đội, số cán bộ, chiến sĩ bị kỷ luật rất đáng suy nghĩ, trong đó có cả các đồng chí là cán bộ cấp cao. Qua nhiều vụ án, tìm hiểu về lai lịch chính trị của các cá nhân vướng vào vòng lao lý, mỗi chúng ta không khỏi xót xa, tiếc nuối.

Nhiều người trong số đó đã từng vào sinh ra tử trên chiến trường, cận kề giữa cái sống và cái chết. Có những người từng sẵn sàng nhường mạng sống cho đồng đội. Họ không bị gục ngã bởi bom đạn, không bị khuất phục bởi sức mạnh của kẻ thù, vậy mà giữa thời bình, họ đã gục ngã bởi “những viên đạn bọc đường”. 

Cơ chế thị trường, sự tác động của ngoại lai... khiến một số người không còn giữ được những phẩm chất của anh Bộ đội Cụ Hồ ngày nào. Chủ nghĩa cá nhân đã lấn át, đã ăn sâu vào họ. Các Mác vĩ đại có một câu kinh điển: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội".

Bản chất con người không phải trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, đồng thời biến đổi chính bản thân mình. Mọi thay đổi của mỗi con người thường bắt đầu từ những hành vi, thói quen, nhưng nếu là thói quen xấu, lại tự mình không nhận ra, không được người khác góp ý, phê bình sẽ dần dần tạo thành tính cách.

Khi có chức vụ, có địa vị, có tiền bạc, con người ta dễ dẫn đến tư tưởng hưởng thụ, thỏa mãn, coi thường. Đôi khi, một số người có được chức vụ, tiền bạc một cách dễ dàng, ít phải đổ mồ hôi, công sức dẫn đến tư tưởng tự mãn, quan liêu, độc đoán, gia trưởng. Và chính họ đã sa vào chủ nghĩa cá nhân mà không nhận ra. Chủ nghĩa cá nhân vừa là nguyên nhân vừa là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Những cá nhân sai phạm sẽ bị pháp luật xử lý. Luật pháp là công bằng. Thượng tôn pháp luật là lẽ sinh tồn của quốc gia. Luật pháp Việt Nam không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào làm phương hại đến lợi ích của nhân dân, của đất nước.

Không ai được phép đứng trên pháp luật, đứng ngoài Hiến pháp. Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm chính là bảo vệ hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp của Nhà nước và nhân dân, để giữ vững ổn định và phát triển của toàn xã hội. Nhưng rồi, sau mỗi vụ việc đều để lại bao điều trăn trở, giá như... Trách người vi phạm là lẽ thường, nhưng tổ chức đã ở đâu khiến cho các cá nhân đó lún sâu vào vi phạm? Vì sao các nguyên tắc, quy định của tổ chức, của Đảng lại bị xem nhẹ, bị bỏ qua trong các vụ việc đó?

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Điều đó cho thấy, quá trình tu dưỡng, rèn luyện của mỗi con người phải là quá trình thường xuyên, liên tục, nó như việc “rửa mặt” hằng ngày. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, nêu rõ: “Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”.

Trong điều kiện hiện nay, việc gìn giữ và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là vô cùng cần thiết, nó vẫn còn nguyên tính thời sự, như Nghị quyết 847 đã đề cập. Phẩm chất, giá trị Bộ đội Cụ Hồ không phải là cái bất biến mà nó đòi hỏi cần luôn gìn giữ và phát huy cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.

Điều này cũng bác bỏ quan điểm của một số người còn băn khoăn, chần chừ khi cho rằng, phẩm chất, văn hóa Bộ đội Cụ Hồ chỉ được thể hiện sâu sắc trong thời chiến, còn thời bình đã có phần phai nhạt. Cách suy nghĩ này là không thuyết phục. Cái đã trở thành văn hóa thì nó đã trở thành bản chất, thành cái thường xuyên ở trong mỗi con người.

Phẩm chất, văn hóa Bộ đội Cụ Hồ không đi ra ngoài quy luật đó. Tuy vậy, nó đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi con người nhận thức đúng về nó. Mỗi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên hay quần chúng đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức người quân nhân cách mạng.

Giáo dục, rèn luyện, gìn giữ và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ đi liền với chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm vừa cấp bách, vừa thường xuyên, là trách nhiệm của mọi người để xứng đáng với truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng mà lớp lớp cha ông đã vun đắp. 

MUỐN ĐƯỢC TRUNG LẬP THÌ VIỆC ĐẦU TIÊN LÀ BẢN THÂN PHẢI MẠNH

 Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng để trở thành một quốc gia trung lập thì chỉ cần có một nền ngoại giao khôn khéo là được, thế nhưng ít người lại biết rằng:

- Ottoman trước thế chiến 1 cũng từng muốn trở thành một nước trung lập, thế nhưng những bất ổn và xung đột lợi ích quốc gia đã thôi thúc họ tham gia thế chiến, và thế rồi đế quốc vĩ đại ấy cũng bị sụp đổ luôn khi thua trận

- Trước thế chiến 2 thì Bỉ cũng là một nước trung lập nhưng do nền quân sự yếu kém nên họ đã bị Đức nghiền nát và sau đó Bỉ đã tham gia phe đồng minh để chống Đức

- Thái Lan cũng từng là quốc gia trung lập trong thời kì mà cả châu á bị nô dịch bởi thực dân phương tây, và cái giá của việc trung lập đó chính là Thái Lan phải cắt 40% diện tích lãnh thổ khi ấy để tránh việc bị Anh hoặc Pháp chiếm đóng, chưa kể suốt hàng trăm năm Thái Lan vẫn phải đóng đủ loại thuế phí vô lí cho cả Anh và Pháp

Vậy để trung lập mà vẫn toàn vẹn lãnh thổ và có tiếng nói quốc tế thì phải làm thế nào ?

Câu trả lời xác đáng nhất cho việc này đó phải chính bản thân quốc gia trung lập đó phải mạnh, nếu trung lập bằng ngoại giao thì thời bình vẫn ổn nhưng đến khi chiến tranh nổ ra thực sự thì những hiệp ước, những lời hứa hẹn đó chỉ như lời nói gió bay, và để minh chứng cho câu trả lời trên thì có lẽ Thuỵ Sĩ và Việt Nam chính là câu trả lời thoả đáng nhất

Thuỵ sĩ nổi tiếng là quốc gia hoà bình và trung lập thế nhưng ít ai biết rằng quân đội Thuỵ Sĩ luôn là một quân đội cực kì thiện chiến từ xưa đến nay, thậm chí Hitler từng có ý định xâm lược Thuỵ Sĩ thế nhưng sau khi được các tướng lĩnh dưới trướng phân tích và đánh giá thì ông đã từ bỏ ngay ý định đó, Thuỵ Sĩ có hệ thống phòng thủ tên lửa full 100% quốc gia và họ còn có đủ hầm trú ẩn cho công dân nếu xảy ra chiến tranh hạt nhân, Thuỵ Sĩ đến nay vẫn còn duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự cho cả nam lẫn nữ nên chỉ cần tổng động viên là gần như cả nước Thuỵ Sĩ có thể full giáp để chiến đấu, các hệ thống đừơng cao tốc ở Thuỵ Sĩ có thể biến thành đường băng để máy bay chiến đấu đáp xuống, ngoài ra nền khoa học quân sự của Thuỵ Sĩ cũng cực kì tiên tiến, những ai đam mê đồ quân sự chắc cũng không lạ gì với những món hàng hot như dao Thuỵ Sĩ, nón cối Thuỵ Sĩ hay súng trường Thuỵ Sĩ

Việt Nam để được vị thế thế trung lập như hiện nay đã phải đánh đổi bằng máu của biết bao thế hệ, 3/5 hội đồng bảo an LHQ đều bị Việt Nam đánh bại nên trong mắt các nước lớn thì Việt Nam chưa bao giờ là một đối thủ dễ bị bắt nạt cả, Liên Xô sụp đổ nhưng Việt Nam vẫn quyết không ngả về bất kì quốc gia nào, Trung Quốc phát triển như vũ bão nhưng Việt Nam vẫn không phụ thuộc hay xu nịnh, Việt Nam dám thẳng mặt bênh vực Cuba và chỉ trích Mỹ vì vấn đề cấm vận mà không một chút sợ hãi, thế nhưng Việt Nam vẫn làm ăn, hợp tác với những cựu thù như Mỹ, Trung Quốc, Pháp mà không phải thù hằn cực đoan như Iran hay Triều Tiên. Chính một Việt Nam nhu cương đúng lúc ấy đã tạo nên cái uy tín khiến cho nước khác phải vừa nể, vừa sợ nhưng không thể ghét Việt Nam được.
(HB)
----------
PT-TG (Nguồn: Báo QĐND)

 

Dấu ấn ngoại giao Việt Nam năm 2021: Tiên phong, chủ động, tích cực, sáng tạo vì sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc

Năm 2021 là năm đầu tiên tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường. Thực hiện đường lối đối ngoại do Đại hội XIII của Đảng hoạch định, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam đã được triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả và đạt kết quả toàn diện với nhiều dấu ấn nổi bật, đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của đất nước.

Thế giới tiếp tục chuyển động nhanh, sâu sắc và phức tạp

Đúng như nhận định của Đảng ta tại Đại hội XIII, tình hình quốc tế trong năm 2021 tiếp tục biến động rất sâu sắc. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song gặp nhiều trở ngại, khó khăn. Toàn cầu hóa, liên kết quốc tế dù gặp thách thức vẫn tiếp tục tiến triển, nhất là liên kết số. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn biến phức tạp, quyết liệt hơn, nhất là ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cách thức tập hợp lực lượng trên thế giới và trong khu vực diễn ra hết sức linh hoạt.

Bên cạnh các thách thức an ninh truyền thống (xung đột vũ trang, sắc tộc, tranh chấp lãnh thổ...), khoảng cách phát triển, bất bình đẳng và bất ổn chính trị - xã hội đang gia tăng ở nhiều nước. Các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là biến đổi khí hậu và dịch bệnh nổi lên gay gắt hơn. Đặc biệt là đại dịch COVID-19, với sự xuất hiện của các biến chủng mới tiếp tục tác động tiêu cực đến sự phát triển của các quốc gia và quan hệ quốc tế, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề về chính trị, đối ngoại, kinh tế, y tế, môi trường, khoa học - công nghệ và văn hóa - xã hội. Nhiều quốc gia trong năm 2021 đã đẩy mạnh chiến dịch tiêm chủng, chuyển sang “trạng thái bình thường mới” và chủ động thích ứng với đại dịch COVID-19.

Kinh tế thế giới từng bước phục hồi, nhưng không đồng đều và chưa vững chắc. Xu hướng tái cơ cấu kinh tế thế giới, nhất là chuyển đổi số, tăng trưởng xanh và dịch chuyển chuỗi cung ứng tiếp tục được đẩy mạnh dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Công nghiệp 4.0) và đại dịch COVID-19 cũng như yêu cầu cấp bách về phát triển bền vững, bao trùm.

Tình hình quốc tế năm 2021 đặt ra những thuận lợi, thời cơ đan xen với khó khăn, thách thức, cũng như những yêu cầu phức tạp hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi công tác đối ngoại và ngoại giao phải dự báo đúng tình hình, chủ động, tích cực, sáng tạo, phát huy vai trò tiên phong trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài góp phần phục vụ phát triển đất nước và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam.

Dấu ấn ngoại giao Việt Nam năm 2021

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định rõ tư tưởng chỉ đạo đối ngoại là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; nguyên tắc đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại là tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam.

Bám sát đường lối đối ngoại của Đảng và dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, đúng đắn của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, ngành ngoại giao phối hợp chặt chẽ với đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân và các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các nhiệm vụ trọng yếu của đối ngoại, đóng góp quan trọng vào thành tựu đối ngoại nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.

Thứ nhất, tiếp tục củng cố vững chắc cục diện đối ngoại và môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước. Khắc phục những khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19, ngành ngoại giao đã tham mưu, chủ động, tích cực, kết hợp sáng tạo hình thức trực tiếp và trực tuyến để thúc đẩy đồng bộ quan hệ với nhiều đối tác đi vào chiều sâu, nhất là với các nước láng giềng, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống. Các hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII đã tạo xung lực thúc đẩy tăng cường tin cậy chính trị, đan xen lợi ích, và phát triển quan hệ với nhiều đối tác, góp phần quan trọng củng cố thế đối ngoại vững chắc, thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình quốc tế biến động phức tạp, khó lường.

Cùng với quốc phòng - an ninh và các bộ, ban, ngành liên quan, ngành ngoại giao tiếp tục thúc đẩy đối thoại, đàm phán với các nước liên quan nhằm giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ; tiếp tục củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hợp tác và phát triển, vừa bảo đảm phòng, chống dịch COVID-19, vừa duy trì, thúc đẩy giao lưu kinh tế - xã hội; xử lý đúng đắn và kịp thời các vấn đề nảy sinh trên biển, kiên trì thúc đẩy đối thoại, hợp tác giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Thứ hai, ngoại giao kinh tế, nhất là ngoại giao y tế và ngoại giao vắc-xin, đã đóng góp quan trọng vào thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và phòng, chống đại dịch COVID-19. Sự vận động chính trị - ngoại giao ở nhiều cấp, nhiều kênh đã góp phần quan trọng vào duy trì, thúc đẩy hợp tác kinh tế, mở rộng thị trường và chuỗi cung ứng. Ngành ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành, địa phương và doanh nghiệp tháo gỡ nhiều rào cản, thúc đẩy nhiều dự án hợp tác trọng điểm với các đối tác quan trọng, tranh thủ các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết để đẩy mạnh xuất khẩu nhiều hàng hóa chủ lực (như nông sản, dệt may, da giày, điện tử...), đồng thời nỗ lực khai thác nhiều thị trường tiềm năng, qua đó góp phần thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất, nhập khẩu vượt mốc kỷ lục 600 tỷ USD. Ngoại giao y tế và ngoại giao vắc-xin là một trong những điểm sáng trong thành tựu đối ngoại năm 2021, đóng góp rất quan trọng vào thực hiện thành công chiến lược vắc-xin, tạo cơ sở tiên quyết để nước ta từng bước chuyển sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19, đồng thời đẩy mạnh phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn khi đợt dịch COVID-19 lần thứ tư ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của nước ta, quán triệt chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe nhân dân là trên hết, ngành ngoại giao cùng các bộ, ban, ngành liên quan đã tiên phong đẩy mạnh sâu rộng, quyết liệt ngoại giao y tế và ngoại giao vắc-xin. Vận động vắc-xin và hợp tác phòng, chống  dịch bệnh COVID-19 là một nội dung trọng tâm, xuyên suốt của các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương, nhất là đối ngoại cấp cao và của các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài. Nhờ đó, Việt Nam nhận được sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của cộng đồng quốc tế về vắc-xin, thuốc điều trị COVID-19 và vật phẩm y tế. Tính đến đầu tháng 5-2021, nước ta mới có vài trăm nghìn liều vắc-xin, thì đến hết năm 2021, Việt Nam trở thành một trong sáu quốc gia có độ bao phủ vắc-xin cao nhất thế giới. Bên cạnh đó, trên cơ sở nắm chắc tình hình và tổng hợp xu thế, kinh nghiệm quốc tế, ngành ngoại giao đã chủ động tham mưu để Đảng và Nhà nước đề ra quyết sách về chuyển hướng chiến lược sang thích ứng an toàn với đại dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, tiếp tục củng cố vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Trong hai năm đảm nhận và hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, Việt Nam đã đóng góp thực chất, thiết thực vào công việc chung của Hội đồng Bảo an, truyền tải thông điệp mạnh mẽ về một Việt Nam độc lập, tự chủ, đổi mới, yêu chuộng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, tin cậy, chân thành, cân bằng trong ứng xử, đóng góp tích cực và có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ trên thế giới(1).

Trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chúng ta tiếp tục phát huy các kết quả năm Chủ tịch ASEAN 2020, đóng góp tích cực vào củng cố đoàn kết, đồng thuận, vai trò trung tâm và nâng cao vị thế của ASEAN, trong đó đã thực hiện tốt vai trò cầu nối, thúc đẩy hợp tác giữa ASEAN và Liên hợp quốc khi Việt Nam là Chủ tịch ASEAN 2020 và Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (tháng 4-2021).

Lần đầu tiên, Việt Nam đưa ra cam kết mạnh mẽ về trung hòa khí thải vào năm 2050(2) tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP 26), khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về phát triển xanh, bền vững, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong các vấn đề toàn cầu, tạo cơ hội thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững hơn. 

Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục tham gia tích cực tại nhiều cơ chế, diễn đàn, hội nghị đa phương quan trọng trên các kênh đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, ngoại giao nghị viện và đối ngoại nhân dân, như Hội thảo lý luận các chính đảng mác-xít trên thế giới, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công, Hội nghị Tương lai châu Á, Hội nghị các Chủ tịch Quốc hội trên thế giới,... Với vị thế và uy tín ngày càng cao, Việt Nam được quốc tế tín nhiệm bầu vào nhiều tổ chức đa phương quan trọng, như Hội đồng Chấp hành của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Hội đồng Khai thác bưu chính của Liên minh Bưu chính thế giới (UPU), Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC),...

Một điều rất có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay là bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã nhận được sự quan tâm, đánh giá cao của nhiều chính đảng, chính giới và học giả quốc tế, thúc đẩy cộng đồng quốc tế tiếp tục chia sẻ và ủng hộ lý tưởng, mục tiêu và sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta, đồng thời góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Đảng và đất nước ta trên trường quốc tế.

Công tác thông tin đối ngoại, ngoại giao văn hóa, công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân được triển khai mạnh mẽ, hiệu quả. Chủ trương, chính sách về ngoại giao văn hóa và công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được hoàn thiện, nổi bật là Kết luận số 12-KL/TW, ngày 12-8-2021, của Bộ Chính trị, “Về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”, và Quyết định số 2013/QĐ-TTg, ngày 30-11-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030”. Trong năm qua, chúng ta đưa khoảng 120.000 công dân từ hơn 60 quốc gia, vùng lãnh thổ về nước an toàn, đồng thời tăng cường bảo hộ ngư dân, tàu cá, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân ta ở nước ngoài.

Thứ tư, Hội nghị đối ngoại toàn quốc là một dấu ấn đặc biệt của đối ngoại nước ta trong năm 2021, bởi lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, một hội nghị toàn quốc về công tác đối ngoại được tổ chức dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trên cơ sở đánh giá toàn diện thành tựu đối ngoại trong hơn 35 năm đổi mới, rút ra bài học kinh nghiệm, nhận diện những xu hướng, vấn đề lớn đang diễn ra trên thế giới, Hội nghị đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, thống nhất ý chí và hành động trong toàn hệ thống chính trị, từ đó tạo nên khí thế mới và xung lực mới cho hoạt động đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Ngay sau Hội nghị đối ngoại toàn quốc, ngành ngoại giao tổ chức Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 và Hội nghị Ngoại vụ lần thứ 20 để quán triệt tinh thần, kết luận tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc; trên cơ sở đó, thảo luận, thông qua chương trình hành động với phương hướng, nhiệm vụ cụ thể, thiết thực của ngành ngoại giao trong giai đoạn 3 - 5 năm tới và tầm nhìn đến năm 2030 nhằm góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đại hội XIII.

Những nỗ lực và kết quả nói trên của ngoại giao Việt Nam trong năm 2021 đóng góp quan trọng vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới, như Đại hội XIII của Đảng khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Có được những kết quả quan trọng này là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự điều hành chủ động, quyết liệt, hiệu quả của Nhà nước; sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa ngành ngoại giao và các ngành, các cấp; sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, đoàn kết, ủng hộ của toàn dân; sự ủng hộ và hợp tác của các đối tác, bạn bè quốc tế,...

Thành tựu đối ngoại và ngoại giao trong năm qua góp phần khẳng định tính đặc sắc và độc đáo của đường lối đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, dựa trên nền tảng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc dân tộc “cây tre Việt Nam”, như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khái quát rất sâu sắc tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc; đồng thời, tiếp tục làm phong phú và sâu sắc hơn các bài học quý báu về đối ngoại trong công cuộc đổi mới. Đó là bài học về xử lý đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và nghĩa vụ, trách nhiệm quốc tế; bài học về kiên định nguyên tắc, nhưng linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bài học về tăng cường tình đoàn kết, sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân để triển khai đường lối đối ngoại ngày càng đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả; bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước; bài học về kết hợp nhuần nhuyễn giữa thế và lực, giữa đa phương và song phương, giữa toàn cầu và khu vực, giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; bài học về ngoại giao tâm công thủy chung, chân thành, tin cậy, có lý, có tình trong xử lý các vấn đề đối ngoại; bài học về tăng cường xây dựng tổ chức và cán bộ đối ngoại ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ,...

Xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới

Phát huy thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau hơn 35 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đồng lòng, quyết tâm cao nhất thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; trước mắt, quyết tâm đẩy mạnh phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tranh thủ tối đa thế và lực mới để tạo sức bật vươn lên sau đại dịch COVID-19. Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, mục tiêu đối ngoại là tiếp tục củng cố vững chắc cục diện đối ngoại thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phương hướng đối ngoại  triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo Hội nghị đối ngoại toàn quốc, ngành ngoại giao cùng các lực lượng đối ngoại tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế và uy tín đất nước; trong đó, giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm, nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.

Là lực lượng xung kích chủ lực trên mặt trận đối ngoại, ngành ngoại giao quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII và các chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, các kết luận, chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc để thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới nhằm xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc.

Một là, triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế đất nước. Kiên định độc lập, tự chủ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, khôn khéo, mưu lược, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trong mối tương quan chặt chẽ với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển đất nước. Củng cố vững chắc đường biên giới hòa bình, hợp tác và phát triển, thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới lãnh thổ bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương tương xứng với thế và lực mới của đất nước. Tiếp tục phát triển toàn diện quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng. Chủ động, tích cực đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng khác và bạn bè truyền thống. Phát huy kết quả năm Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, tiếp tục chủ động tăng cường vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác Tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác có tầm chiến lược khác, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Hai là, triển khai toàn diện và gắn kết chặt chẽ các trụ cột, binh chủng ngoại giao, phấn đấu đưa đối ngoại và ngoại giao thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước. Nỗ lực xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Tranh thủ tối đa các quan hệ đối ngoại, các yếu tố quốc tế thuận lợi, các cam kết, thỏa thuận hợp tác quốc tế nhằm huy động, kết hợp hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước phục vụ các khâu đột phá chiến lược, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế như khoa học - công nghệ, môi trường, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh,... Trước mắt, tiếp tục đẩy mạnh mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư, công nghệ phục vụ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong và sau đại dịch COVID-19; triển khai toàn diện và mạnh mẽ Chiến lược Ngoại giao văn hóa, công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân; tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, nhất là ứng dụng mạnh mẽ nền tảng số.

Ba là, không ngừng đổi mới, sáng tạo trong đối ngoại và ngoại giao. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kế thừa, đổi mới và phát triển; trong đó, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, truyền thống ngoại giao dân tộc; đồng thời, liên tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức, chủ trương, sách lược ngoại giao phù hợp với tình hình mới. Bên cạnh các lĩnh vực truyền thống, tích cực tìm cách làm mới, hướng đi mới, lĩnh vực mới đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, như ngoại giao công nghệ, ngoại giao số, ngoại giao môi trường, ngoại giao y tế, ngoại giao năng lượng,...

Bốn là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, nhất là các vấn đề tác động trực tiếp, lâu dài đến an ninh và phát triển của đất nước. Tiếp tục thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc và dự báo đúng tình hình để kịp thời có đối sách, giải pháp phù hợp trong công tác đối ngoại.

Năm là, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa ngoại giao với đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân, quốc phòng, an ninh và các cấp, các ngành. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật cho hoạt động đối ngoại và ngoại giao. Đổi mới, kiện toàn các cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp giữa các cấp, các ngành trong triển khai hoạt động đối ngoại. Kiện toàn tổ chức, bộ máy ngành ngoại giao tinh gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả. Đẩy mạnh hiện đại hóa, chuyển đổi số ngành ngoại giao.

Sáu là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, bản lĩnh và trí tuệ, hiện đại, chuyên nghiệp về phong cách, phương pháp làm việc, có tinh thần đổi mới, sáng tạo. Tiếp tục đặc biệt coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ, trong đó đổi mới tuyển dụng, bố trí, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ ngoại giao, nhất là với cán bộ cấp chiến lược, lãnh đạo, quản lý; từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia có trình độ đạt tầm khu vực và quốc tế trong các lĩnh vực trọng yếu của đối ngoại và ngoại giao.

Phát huy truyền thống vẻ vang và thành tựu hơn 35 năm đổi mới, toàn ngành ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc - trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” để tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, độc lập, hòa bình, hùng cường./.

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA ( Ngày 28 tháng 02)

 
      “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước ”

       Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích ở bài Nói chuyện trong buổi bế mạc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, ngày 28 tháng 2 năm 1957. Đầu năm 1957, miền Bắc hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 2 năm, công tác văn nghệ cũng đã có bước phát triển mới và thành tựu mới, đến dự với Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 Bác đã phát biểu: “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”.

       Lời dạy trên của của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ khẳng định tầm quan trọng của tự phê bình, phê bình, của đấu tranh đối với đoàn kết, thống nhất trong mỗi tổ chức mà còn nhắc nhở mỗi tổ chức, mỗi người nói chung, đội ngũ cán bộ, nghệ sĩ nói riêng phải luôn đề cao ý thức phê bình, ý thức đấu tranh để xây dựng, củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong mỗi cơ quan, đơn vị, ngành mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc đấu tranh, phê bình và tự phê bình chính là quy luật, động lực của sự phát triển. Đấu tranh, phê bình phải thật thà, trung thực, không lợi dụng phê bình để trù dập lẫn nhau. Đấu tranh, phê bình để đi đến thống nhất, đoàn kết hơn, cùng nhau phát triển, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

       Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để vững bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lời dạy “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước” vẫn giữ nguyên giá trị, không những là tư tưởng chỉ đạo mà còn là yêu cầu đòi hỏi các tổ chức đảng, đoàn thể cách mạng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình, phải tích cực đấu tranh, tự phê bình và phê bình phải có tình thân ái, phải đúng người, đúng việc, phải thật thà trung thực để đi đến đoàn kết và phát triển ngày càng tốt hơn.

       Trong quân đội, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần quán triệt và thực hiện nghiêm lời dạy của Bác; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; chấp hành nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình để đi đến đoàn kết, thống nhất trong từng đơn vị chính là hiện thực hóa lời dạy của Bác; tránh lợi dụng đấu tranh, phê bình và tự phê bình để chia rẽ đoàn kết nội bộ, trù dập lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến uy tín, nhân phẩm của đồng chí, đồng đội./.
---------------
PT-TG. st


"VỊ TƯỚNG ĐI DÉP CAO SU, KÉO PHÁO TIÊU DIỆT ĐỊCH"

 Tạp chí Time của Mỹ từng viết Đại tướng Võ Nguyên Giáp là “Napoleon đỏ”, nổi lên thành nhà lãnh đạo của quân đội du kích nghèo, chân đi dép cao su và miệt mài kéo pháo qua núi để bao vây, tiêu diệt địch.
Trong khoảng ba thập kỷ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lãnh đạo quân đội chống lại những kẻ xâm lược; đặc biệt, chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm 1954 đã chấm dứt ách thực dân của Pháp ở khu vực Đông Dương.
"Với hàng triệu người Việt Nam, đây không chỉ là chiến thắng trên mặt trận quân sự. Tướng Giáp trở thành huyền thoại của người Việt Nam", tờ Washington Post của Mỹ viết.
Tên tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn với nhiều chiến thắng lịch sử quan trong như Chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950, Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Nói về chiến thuật quân sự, tờ Washington Post viết: "Đại tướng đã chiến đấu với tất cả chiến thuật chiến tranh như tấn công du kích, gián điệp, chiến đấu trên chiến trường... Đại tướng cũng như cộng đồng người Việt cùng nỗ lực hết mình cho cuộc cách mạng. Phụ nữ, nông dân vận chuyển vũ khí, cung cấp đạn dược cho chiến sĩ du kích, trẻ em làm nhiệm vụ thông tin liên lạc".
"Mọi công dân là người lính. Tất cả các thôn, bản là pháo đài và toàn bộ đất nước là một chiến trường rộng lớn. Ở đó, đối phương bị bao vây, tấn công và bị đánh bại", Washington Post dẫn lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Là bậc thầy quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp chỉ đạo mở đường mòn Hồ Chí Minh, vận chuyển vũ khí từ miền Bắc vào hỗ trợ cho miền Nam chiến đấu.
Hãng thông tấn AP cũng dành hết lời ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là "vị tướng huyền thoại của dân tộc Việt Nam", cho rằng chiến dịch Điện Biên Phủ là "chiến thắng không tưởng", trận chiến kinh điển mà đến nay vẫn được dạy tại các trường quân sự. Chiến thắng này không chỉ đem lại độc lập cho Việt Nam mà còn đẩy nhanh quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương và quốc tế.
"Đại tướng Võ Nguyên Giáp là bộ óc quân sự của Việt Nam và là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20" , Reuters viết.
"Đại tướng Võ Nguyên Giáp là huyền thoại sống ở Việt Nam. Ông được công nhận là một trong các nhà quân sự tài giỏi nhất và nhà chiến lược về chiến tranh nhân dân", đạo diễn người Pháp Daniel Roussel, nguyên là phóng viên thường trú tại Việt Nam những năm 1980, đã viết như vậy.
Tướng Peter MacDonald, nhà nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự người Anh, đánh giá: "Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn nhất mọi thời đại. Với 30 năm làm Tổng Tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có".

NHÌN TỪ CHIẾN SỰ NGA - UKRAINA

 Những lời "đường mật" cung cấp vũ khí, đạn dược trước đây của Mỹ và NATO vô tình đã đẩy đất nước và nhân dân Ukraina vào biển lửa, khói súng.
Từ câu chuyện của Gruzia và Ukraina hiện tại dù không muốn chúng ta cũng phải thừa nhận các liên minh quân sự đã lỗi thời, đi ngược lại chính lợi ích của các quốc gia và dân tộc.
Cũng chính từ đây chúng ta thấy được chính sách ngoại giao tự chủ, độc lập, cứng rắn, cương nhu phù hợp là điều rất cần thiết đối với mỗi quốc gia.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta. Bên cạnh các cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ giang sơn, độc lập, chủ quyền của đất nước, ông cha ta đã luôn luôn chú trọng hoạt động đối ngoại, tạo dựng nên những truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và hoạt động đối ngoại Việt Nam: Đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn; Lấy chí nhân mà thay cường bạo!"; "Dập tắt muôn đời lửa chiến tranh; Mở nền muôn thủa thái bình!" ("Bình Ngô đại cáo"-Nguyễn Trãi). Dùng đối ngoại để phòng ngừa, ngăn chặn chiến tranh hoặc để sớm kết thúc chiến tranh trong vị thế có lợi nhất; đối ngoại phải luôn luôn phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đối nội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những tư tưởng, triết lý vượt thời đại của cha ông ta, mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị.
Thật may mắn, khi Việt Nam đã và đang theo đuổi chủ trương ngoại giao khôn khéo này "Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Điều này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp trong bối cảnh các nước đang tăng cường hợp tác song phương, đa phương và hội nhập để mang về lợi ích cho đất nước và dân tộc./.

XỨNG ĐÁNG VỚI LÒNG TIN YÊU CỦA NHÂN DÂN

Nhân kỷ niệm 67 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam, sáng 27/2, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gặp mặt Đoàn đại biểu cán bộ y tế tiêu biểu toàn quốc và có bài phát biểu quan trọng.

TRÂN TRỌNG VÀ TRI ÂN NHỮNG CHIẾN SĨ ÁO TRẮNG!

Tối 27/2, tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự và có bài phát biểu trong Chương trình kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/2022 với chủ đề "Chiến sĩ áo trắng". Sau đây là toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính.