Thứ Năm, 23 tháng 1, 2025

Một số chính sách lớn nhằm nâng cao hiệu quả ứng phó, giải quyết các vấn đề phi truyền thống, an ninh mạng ở Việt Nam hiện nay.

 Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, trong đó có hiểm họa an ninh mạng, đã và đang thách thức trực tiếp sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, từng quốc gia và toàn nhân loại. Ứng phó, giải quyết có hiệu quả những vấn đề của an ninh phi truyền thống, trọng tâm là an ninh mạng, đang đòi hỏi trách nhiệm của từng quốc gia, dân tộc và sự chung tay, hợp tác rộng rãi của cộng đồng quốc tế, trong đó có Việt Nam. Để đối phó với các nguy cơ, các mối đe dọa của an ninh phi truyền thống, trọng tâm là an ninh mạng, cần có các chính sách, giải pháp đồng bộ, toàn diện, tiếp cận đa chiều. 

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và trong môi trường truyền thông số hiện nay, vấn đề an ninh phi truyền thống (ANPTT) đặc biệt diễn ra tập trung trên môi trường mạng, do đó vấn đề an ninh mạng (ANM) và quản trị mạng càng trở nên phức tạp, có nguy cơ tác động lớn đến an ninh quốc gia. Đối mặt với những mối đe dọa này, các quốc gia không thể đơn phương giải quyết, mà cần có sự hợp tác, tham gia của nhiều đối tác khác nhau. Ngay từ sớm, vấn đề ANPTT được Đảng ta xác định và thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 17-12-1998, của Bộ Chính trị khóa VIII, về “Chiến lược an ninh quốc gia”, đã cảnh báo và chỉ ra các yếu tố thách thức đối với an ninh quốc gia, trong đó có vấn đề ANPTT. Tiếp đó, vấn đề ANPTT tiếp tục được đề cập, nêu rõ trong nội dung các văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định nhận thức, quan điểm nhất quán về nội dung, thách thức của ANPTT đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đại hội nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp(1).

Với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, ANM ngày càng trở thành vấn đề trọng yếu trong các mối đe dọa phi truyền thống. Do đó, để bảo đảm ANPTT trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, cần có nhiều chính sách, giải pháp đồng bộ, toàn diện. Trong số các chính sách đó, các chính sách lớn, trọng tâm cần xây dựng, thực hiện là chính sách phát triển khoa học và công nghệ, hạ tầng công nghệ thông tin; chính sách phát triển con người, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng, đa phương, sáng tạo và linh hoạt nhằm ngăn chặn, loại bỏ các nguy cơ, hiểm họa ANPTT. Cụ thể: 

Một là, để đối phó với các thách thức ANPTT, trọng tâm là ANM phải đặc biệt chú ý phát triển khoa học và công nghệ, hạ tầng công nghệ thông tin. Trong thời đại ngày nay, trước các thách thức ngày càng cao, thủ đoạn ngày càng tinh vi, kỹ thuật ngày càng hiện đại của các thế lực thù địch trên không gian mạng (KGM), cần đổi mới, hoàn thiện các chính sách để phát triển khoa học và công nghệ, hạ tầng công nghệ thông tin, coi đây là một trong những chính sách quan trọng hàng đầu để ứng phó, giải quyết các nguy cơ, các mối đe dọa ANPTT, trọng tâm là ANM trong tình hình mới. 

Trong các giai đoạn cách mạng, các chính sách về phát triển khoa học và công nghệ được Đảng ta quan tâm, hoạch định phù hợp để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước, bao gồm: Cách mạng khoa học - kỹ thuật phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà (giai đoạn 1959 - 1975); xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng (giai đoạn 1975 - 1985); phát huy đổi mới, sáng tạo và ứng dụng các thành tựu khoa học và kỹ thuật, đưa lại hiệu quả thiết thực cho thời kỳ phát triển mới của đất nước (giai đoạn 1985 - 1992); nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tiêu chuẩn hóa, sở hữu công nghiệp và bảo vệ môi trường (giai đoạn 1992 - 2002); tổ chức phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, điều phối và thúc đẩy các hoạt động khoa học và công nghệ đóng góp tích cực cho phát triển nền kinh tế đất nước và hội nhập quốc tế (từ năm 2002 đến nay).

Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức”(2). Đại hội XII chỉ ra định hướng phát triển khoa học và công nghệ của nước ta, đó là: “phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức”(3). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “... đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”(4).

Điều 62 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”(5). Thể chế hóa những quan điểm, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, những chính sách về phát triển khoa học và công nghệ được nêu cụ thể tại Điều 6 Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013. Đồng thời, để khẳng định chính sách quan tâm đầu tư, phát triển về hạ tầng công nghệ thông tin, Nhà nước ban hành Luật Công nghệ thông tin năm 2006 góp phần tạo hành lang pháp lý cơ bản để điều chỉnh các hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tri thức, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tiếp đó, Luật Công nghệ thông tin năm 2023 quy định về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, các biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Như vậy, vấn đề ANPTT, mà trọng tâm là ANM đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và coi đây là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức. 

Trong thời gian tới, cần tiếp tục quan tâm phát triển khoa học và công nghệ, coi khoa học và công nghệ là quốc sách, là động lực quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với vấn đề ANPTT, trọng tâm là ANM, việc phát triển khoa học và công nghệ, hạ tầng công nghệ thông tin cần được chú trọng nhiều hơn, thường xuyên hơn, ưu tiên đổi mới, phát triển mạnh mẽ hơn. Chính sách phát triển khoa học và công nghệ, hạ tầng công nghệ thông tin, phát huy “sức mạnh mềm quốc gia” sẽ là chính sách có tầm quan trọng hàng đầu, bảo đảm về giải pháp kỹ thuật để Việt Nam đối phó hiệu quả với các thách thức của ANPTT, ANM, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, chú trọng chính sách đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ANM.

Về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Cần sớm hoàn thiện công tác quy hoạch, đổi mới, sắp xếp, quản lý chặt chẽ hệ thống các trường đào tạo nguồn nhân lực ANM trở thành trung tâm đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp nguồn nhân lực ANM chất lượng cao, góp phần cung cấp nguồn nhân lực ANM chất lượng cao cho nhu cầu sử dụng thường xuyên, lâu dài của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Hệ thống này cần được đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, thực tiễn hóa, từng bước mở rộng quy mô và gắn liền nâng cao chất lượng đào tạo. Để triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách này, trước hết, cần (i) đổi mới tư duy về đào tạo ANM. Để chuẩn bị nguồn nhân lực ANM cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trên KGM trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc đào tạo ANM phải đổi mới tư duy, triết lý giáo dục về ANM một cách phù hợp, theo hướng hiện đại hóa. Ngành giáo dục và đào tạo cần chỉ đạo mạnh mẽ các học viện, nhà trường trong toàn quốc tăng cường đổi mới công tác giáo dục - đào tạo, trước hết là tư duy giáo dục. Các cơ sở đào tạo về ANM cần chuyển đổi sang mô hình giáo dục hiện đại, từ đào tạo cử nhân sang đào tạo kỹ sư ANM sẵn sàng cống hiến, năng động, sáng tạo, thích ứng với nhiều hình thức, quy mô, cường độ, cấp độ của chiến tranh mạng, trong những không gian và thời gian chuyển biến hết sức mau lẹ. Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ANM cần được tiến hành theo mô hình tiên tiến nhất, hiện đại nhất, năng động và sáng tạo nhất. (ii) Quy hoạch, sắp xếp, đổi mới quản lý hệ thống các trường đào tạo về ANM tại Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Hệ thống các trường đào tạo về ANM đang bộc lộ sự phân tán, khép kín và còn khá cồng kềnh, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Vì vậy, đòi hỏi phải tổ chức, đổi mới, sắp xếp, quy hoạch theo hướng: gọn, mạnh, hợp lý, từng bước đạt chuẩn quốc tế. Trên cơ sở hệ thống các trường hiện có, căn cứ vào yêu cầu tổ chức, biên chế của nhân lực ANM tại các đơn vị, cơ quan, cần tập trung chấn chỉnh tổ chức hệ thống các trường đào tạo về ANM ổn định về nhiệm vụ, ngành nghề, lưu lượng đào tạo, bậc học, trình độ đào tạo; bảo đảm vững chắc khả năng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ANM. Quy hoạch hệ thống các trường đào tạo về ANM cần chú trọng cân đối về vị trí địa lý, phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ tác chiến KGM, kết hợp chặt chẽ đào tạo nguồn nhân lực ANM với đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... (iii) Hoàn thiện cơ chế quản lý giáo dục trong các cơ sở đào tạo về ANM phù hợp với thực tiễn. Hiện nay, cơ chế phân cấp, quản lý trong hệ thống các trường đào tạo về ANM đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, tạo ra những rào cản trong quá trình phát triển nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Do đó, để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ANM có khả năng thích ứng và sáng tạo cao trong thực hiện nhiệm vụ thì cần đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phân cấp trong hệ thống các trường đào tạo về ANM. Tiến hành rà soát lại các quy định hiện hành về phân cấp quản lý giáo dục, xây dựng mô hình phân cấp quản lý phù hợp, tiên tiến, hiện đại và tránh sự chồng chéo. Xây dựng cơ chế quản lý đặc thù theo hướng quản lý chất lượng của quá trình đào tạo, chất lượng sản phẩm đầu ra đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia trên KGM. Đổi mới, phân cấp quản lý phải hướng tới việc quản lý chặt chẽ, nhưng thông thoáng, nhanh, gọn, phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Tuy nhiên, số lượng phải được quản lý chặt chẽ, hợp lý theo chủ trương chung, chất lượng phải bảo đảm yêu cầu khắt khe của hoạt động ANM.

Về nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong hệ thống các cơ sở tham gia đào tạo ANM. Đây là nút thắt trong giải quyết mâu thuẫn giữa khả năng cung cấp có hạn và yêu cầu ngày càng lớn về nguồn nhân lực ANM chất lượng cao ở nước ta. Các trường là nơi cung cấp chủ yếu nguồn nhân lực ANM chất lượng cao cho công cuộc bảo đảm ANPTT trên KGM. Do đó, để hệ thống các trường đào tạo về ANM đảm đương được nhiệm vụ chủ chốt trong phát triển nguồn nhân lực ANM chất lượng cao, cần tập trung: (i) Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho hệ thống các trường đào tạo ANM. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng tại các trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ xây dựng cơ bản, trang thiết bị dạy học, thiết kế phòng học chuyên dùng, đến đầu tư nghiên cứu khoa học gắn với giáo dục, đào tạo, đầu tư xây dựng chương trình, nội dung, giáo trình, giáo khoa, tài liệu tham khảo. Thực tế hiện nay cho thấy, cơ sở vật chất và nguồn học liệu của các trường vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, có mặt lạc hậu. Việc quy hoạch, xây dựng các trường theo chuẩn hiện đại, có khả năng hội nhập, liên thông đang là vấn đề cấp bách đặt ra. Trong đó, khâu đột phá là chương trình, nội dung đào tạo cần được thiết kế theo hướng tiên tiến, xây dựng các trung tâm mô phỏng hiện đại phục vụ các giờ thực hành, sử dụng công nghệ thông tin một cách sâu rộng, đạt hiệu quả cao. (ii) Đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, hội nhập và hợp tác cao. Mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo là nhân tố quyết định việc hình thành phẩm chất, nhân cách, đạo đức, kỹ năng nghiệp vụ của nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Chương trình, nội dung đào tạo ANM hiện đại phải được đổi mới theo tỷ lệ thích hợp, tích hợp cao giữa kiến thức cơ bản, kiến thức ANM chuyên sâu. Qua đó, giúp người học tiếp thu tốt quá trình chuyển giao công nghệ, đồng thời bảo đảm khả năng ứng dụng, cải tiến và tiến tới thiết kế, sáng tạo công nghệ mới phục vụ cho hoạt động ANM. (iii) Xây dựng đội ngũ giảng viên đóng vai trò là lực lượng chủ chốt trong phát triển nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Đây là một trong những chính sách có ý nghĩa cơ sở nền tảng trong nhóm chính sách về đào tạo nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Quan tâm phát triển lực lượng này chính là thực hiện mục tiêu kép trong phát triển nguồn nhân lực ANM chất lượng cao đáp ứng yêu cầu bảo đảm ANPTT, ANM.

Về cơ chế, chính sách nhằm thu hút, sử dụng, đãi ngộ để phát triển nguồn nhân lực ANM chất lượng cao(i) Cần đổi mới việc tuyển chọn, bố trí, sắp xếp nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Thực hiện tuyển chọn nhân lực một cách dân chủ, công khai, hợp lý, khách quan, chính xác để có được những người tài vào làm việc trong lĩnh vực ANM. Việc tuyển chọn phải theo quan điểm “lưu thông chất xám” để có sự cạnh tranh lành mạnh. Nguồn nhân lực ANM chất lượng cao phải được bố trí sắp xếp hợp lý trên cơ sở đáp ứng được yêu cầu, phẩm chất, năng lực. (ii) Xây dựng chính sách tiền lương ưu đãi đặc biệt, đồng thời bảo đảm việc nâng cao thu nhập cho nguồn nhân lực ANM chất lượng cao phải được tính toán khoa học trên cơ sở lượng hóa kết quả cống hiến, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Có thể thực hiện chính sách tiền lương ưu đãi đối với nguồn nhân lực ANM chất lượng cao theo hướng cơ bản sau: i) Thống nhất nhận thức thu nhập vượt trội của nguồn nhân lực ANM chất lượng cao là hoàn toàn xứng đáng do chính sự đóng góp và lao động của họ mà có. Điều này không những thúc đẩy sự cống hiến của nguồn nhân lực ANM chất lượng cao, mà còn tạo động lực đối với những lao động cùng ngành, nghề nỗ lực phấn đấu vươn lên. ii) Xây dựng chế độ tiền lương theo hướng trả đúng giá trị sức lao động trong môi trường đặc biệt, bởi tiền lương vừa thể hiện kết quả của lao động đặc biệt, vừa thể hiện sự ưu đãi lớn đối với nguồn nhân lực ANM chất lượng cao.

Ba là, đổi mới chính sách sử dụng, xây dựng môi trường làm việc tốt nhất để nguồn nhân lực ANM chất lượng cao yên tâm cống hiến. Trước hết, cần xây dựng môi trường làm việc để kích thích tính tích cực sáng tạo và khả năng cống hiến của nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Cần chú ý đến những nhu cầu chính đáng của nguồn nhân lực ANM chất lượng cao, như: môi trường làm việc, nhu cầu học tập, khẳng định bản thân và nhu cầu được tôn trọng ý kiến và những ý tưởng mang tính đột phá. Bên cạnh đó, xây dựng và hoàn thiện chính sách đãi ngộ có tính chất đột phá đối với nguồn nhân lực ANM chất lượng cao. Trong đó gồm ưu đãi về nhà ở, việc làm, đào tạo và bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, hợp tác giao lưu quốc tế… Hoàn thiện và thực hiện chính sách sử dụng lâu dài đối với nhân tài trong lĩnh vực ANM, các cán bộ khoa học, chuyên gia đầu ngành ANM.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm bảo đảm các vấn đề ANPTT, mà trọng tâm là ANM. Các thách thức ANPTT, trọng tâm là ANM thường mang tính xuyên quốc gia ở cả chủ thể thực hiện, phạm vi ảnh hưởng, cũng như không gian diễn ra sự việc. Vì vậy, vấn đề hợp tác quốc tế nhằm bảo đảm các vấn đề ANPTT, trọng tâm là ANM đặt ra như một yêu cầu tất yếu. Hiện nay ở Việt Nam, các sự cố, sự việc liên quan đến tình hình an ninh trên KGM diễn ra vô cùng phức tạp. Các thế lực thù địch, tội phạm mạng liên tục gia tăng hoạt động tấn công mạng nhằm thu thập thông tin, bí mật nhà nước, bí mật nội bộ, chiếm quyền điều khiển, phá hoại hệ thống mạng thông tin; sử dụng internet, nhất là các phương tiện truyền thông xã hội với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi nhằm gây chia rẽ nội bộ, xâm phạm lợi ích, ANQG. 

Những năm qua, quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế, diễn ra với quy mô, tốc độ và phạm vi ngày càng mở rộng đã mở ra nhiều cơ hội, tiềm năng, song cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ANPTT, nhất là ANM, gây ảnh hưởng không chỉ đến sự phát triển kinh tế mà còn đối với vấn đề chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Những thách thức này đòi hỏi Việt Nam cần có chính sách phù hợp nhằm ứng phó, nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm ANPTT, trọng tâm là ANM. Do đó, cần chú ý thực hiện hiệu quả một số chính sách sau: (i) Đẩy mạnh bảo đảm ANM và bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên KGM. Hiện nay, bảo vệ chủ quyền quốc gia không chỉ là việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, vùng đất, vùng biển, vùng trời,... mà còn là chủ quyền trên KGM. Thực hiện được các nhiệm vụ này đòi hỏi phải chuẩn bị nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, năng lực kỹ thuật, nguồn nhân lực đủ khả năng bảo đảm vấn đề ANM, ứng phó hiệu quả đối với các cuộc tấn công mạng, tội phạm mạng và bảo đảm chủ quyền quốc gia trên KGM. Việc xây dựng chính sách trong lĩnh vực ANM cần tính đến các yếu tố bảo đảm ANM, bảo đảm chủ quyền quốc gia trên KGM, tham gia hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KGM nhưng tránh bị lôi kéo vào vấn đề cạnh tranh giữa các nước. (ii) Tăng cường hợp tác, theo dõi và thúc đẩy vấn đề ANM ở cấp độ khu vực. Do trình độ phát triển của công nghệ, kỹ thuật ở mỗi nước khác nhau, nên nhận thức, quan điểm của các quốc gia về vấn đề ANM ở mức độ khu vực cũng như toàn cầu còn nhiều quan điểm khác nhau. Chính vì vậy, thay vì tham gia các vấn đề ANM ở cấp độ toàn cầu, một số nước tập trung vào các cơ chế, diễn đàn thiết thực hơn, hiệu quả hơn ở cấp độ khu vực. Cần xác định mức độ Việt Nam tham gia một cách phù hợp trong khuôn khổ này. (iii) Tích cực đẩy mạnh hợp tác quốc tế về ANPTT, trọng tâm là ANM. Hợp tác quốc tế, khu vực trong ANPTT, trọng tâm là ANM thời gian tới cần được triển khai trên ba phương diện: 1) Cơ chế, chính sách, pháp luật về ANPTT, ANM; 2) Nghiên cứu khoa học và đào tạo về ANPTT, ANM; 3) Quản trị, thực thi ANPTT, ANM. Trong ba hoạt động đó, cần tập trung vào việc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức giữa các cơ quan nghiên cứu khoa học và đào tạo về ANPTT, ANM, góp phần nâng cao hiệu quả chính sách, pháp luật của các bên liên quan về các hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ, thách thức ANPTT, ANM. Đối với đào tạo ANPTT, ANM, cần hình thành cơ chế hợp tác, nghiên cứu và trao đổi học thuật, chuyển giao tri thức, đào tạo nguồn nhân lực về quản trị ANPTT, ANM giữa cơ sở đào tạo của Việt Nam và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trong khu vực và trên thế giới…

Đây là những chính sách trọng tâm nằm trong hệ thống chính sách quốc gia tổng thể, bao gồm các chính sách về kinh tế, xã hội; các chính sách về phát triển văn hóa, con người, khoa học và công nghệ; các chính sách về quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Khi thực hiện các chính sách lớn, trọng tâm này, cần đặt trong việc thực hiện tổng thể, toàn diện các chính sách quốc gia về ứng phó, giải quyết các vấn đề ANPTT, ANM nhằm bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét