Hệ thống pháp luật hoàn thiện là một trong số các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong nỗ lực chung để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ngày càng đạt nhiều thành tựu. Xét trên phương diện chung, hệ thống pháp luật đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu đã được nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận.
Cụ thể, Luật cơ bản - Hiến pháp năm 2013 đã được ban hành, bên cạnh những quy định có tính kế thừa, có nhiều quy định mới mang tính đột phá, cần thiết, là cơ sở để hoàn thiện thể chế tạo động lực phát triển đất nước nhanh, bền vững. Các văn bản luật, pháp lệnh được kịp thời ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế(3). Giai đoạn 2005 - 2007, Quốc hội ban hành 63 luật, pháp lệnh; Khóa XII - nhiệm kỳ 2007 - 2011, Quốc hội ban hành 82 luật, pháp lệnh; Khóa XIII - nhiệm kỳ 2011 - 2016, tính hết kỳ họp thứ 10 vào tháng 11-2015, Quốc hội ban hành 110 luật, pháp lệnh(4); Khóa XIV, tính đến đầu Kỳ họp thứ 11, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 72 luật, 2 pháp lệnh; Khóa XV, tính đến tháng 6-2024, có 43 văn bản luật và 3 pháp lệnh đã được ban hành.
Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện. Tính từ ngày 1-7-2016 đến ngày 31-12-2023, Chính phủ đã ban hành 983 nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 353 quyết định; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; các bộ, ngành ban hành 37 thông tư liên tịch(5).
Cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nguồn bổ trợ là án lệ cũng được chú ý phát triển để bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động của các chủ thể pháp luật, bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền. Tính đến tháng 5-2024, đã có 72 án lệ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quyết định công bố.
Hệ thống pháp luật được xây dựng, hoàn thiện theo quy trình thủ tục ngày càng phù hợp, hiện đại, bảo đảm thể chế hóa đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng. Nội dung pháp luật về cơ bản đảm bảo tính bao trùm, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như trong các lĩnh vực của đời sống xã hội(6). Những kết quả, xếp hạng qua một số chỉ số đánh giá có liên quan cũng cho thấy rõ điều này. Theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) 2024, đối với nhóm chỉ số đầu vào, chỉ số về thể chế kể từ năm 2022 của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể so với các năm thuộc giai đoạn 2017 - 2021. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng 83/132 quốc gia, nền kinh tế; thứ hạng này lần lượt ở các năm tiếp theo như sau: năm 2022, xếp hạng 51; năm 2023, xếp hạng 54; năm 2024, xếp hạng 58(7).
Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể là:
- Về tính toàn diện: Xét một cách tổng thể, hệ thống pháp luật toàn diện đòi hỏi sự đầy đủ các quy định pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống cần có pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, từ quy định của Hiến pháp năm 2013, một số quyền cơ bản đã hiến định vẫn chưa kịp thời ban hành được các văn bản luật nhằm cụ thể hóa. Một mặt, đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các chủ thể nhằm quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản luật, việc chậm, nợ văn bản vẫn chưa khắc phục được một cách triệt để. Một số quy định pháp luật bị lạc hậu so với yêu cầu thực tiễn vẫn chưa được kịp thời sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, thực tiễn xã hội diễn ra hết sức sinh động, các quan hệ xã hội biến đổi nhanh chóng, nhu cầu về pháp luật đối với một số lĩnh vực mới là cấp thiết, song vẫn chưa có hệ thống thể chế đầy đủ (đơn cử như hệ thống thể chế cho mô hình khu thương mại tự do FTZ). Bên cạnh đó, vẫn có sự chênh lệch trong các lĩnh vực khác nhau khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, số lượng văn bản luật ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung khá nhiều, song so với nhu cầu thực tiễn vẫn chưa đủ. Điều này dẫn đến việc có nhiều khuyến nghị dành cho Việt Nam khi thực hiện Báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát trước Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc, trong đó, có nhiều khuyến nghị hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật(8).
- Về tính đồng bộ: Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự thống nhất, không mâu thuẫn chồng chéo, văn bản có giá trị pháp lý thấp không trái văn bản có giá trị pháp lý cao hơn và tất cả các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp. Đối với vấn đề này, vẫn còn các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo làm cho việc thực hiện không dễ dàng. Kể từ khi có Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật và Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012, công tác pháp điển hóa, hợp nhất văn bản được triển khai có kết quả đã góp phần khắc phục được hạn chế, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ cho hệ thống pháp luật; song, so với nhu cầu thực tiễn, vẫn cần nhiều nỗ lực hơn nữa.
- Về tính phù hợp, hiệu lực, thực tiễn, khả thi: Đối với yêu cầu này, các quy định pháp luật cần có sự phù hợp với trình độ, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa; bảo đảm sự thuận lợi, đạt mục tiêu trong thực thi; có nguồn lực bảo đảm hiệu lực; khi thực thi, phải tạo được động lực phát triển nhanh, bền vững. Hệ thống pháp luật hiện nay còn có các quy định, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước và chưa bắt kịp thời cơ, vượt qua thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những biến chuyển nhanh chóng của các quan hệ xã hội hiện nay, xuất hiện nhiều phương thức, mô hình sản xuất, kinh doanh, thanh toán mới trong lĩnh vực kinh tế, như kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, tiền điện tử… đòi hỏi pháp luật phải hoàn thiện hơn nữa để có quản lý hiện đại hơn, phù hợp hơn, khơi dậy khát vọng, khơi thông nguồn lực, bảo đảm an toàn cho các bên tham gia quan hệ pháp luật. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan những lĩnh vực này có độ ổn định chưa cao, có những văn bản nhanh chóng bị sửa đổi, bổ sung hoặc phải xem xét thời gian hiệu lực. Còn có những văn bản chưa kịp thời phát huy được hiệu lực do các điều kiện bảo đảm hiệu lực, các nguồn lực nhằm tổ chức thực hiện chưa được đầy đủ. Một số quy định chưa thể hiện được vai trò kiến tạo phát triển, chưa thực sự khơi thông được nguồn lực, còn cản trở việc thực thi(9).
- Về tính công khai, minh bạch: Đây là yêu cầu nhằm bảo đảm khả năng tiếp cận nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ của các chủ thể pháp luật đối với các văn bản quy phạm pháp luật, từ khi đang ở dạng dự thảo, lấy ý kiến góp ý, cho đến khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, thực hiện truyền thông chính sách. Hiện nay, việc thu hút người dân, đối tượng chính sách, các nhà khoa học… tham gia ý kiến đối với các dự thảo văn bản thông qua đăng tải trên các cổng thông tin điện tử của cơ quan soạn thảo và Chính phủ, thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm... đã được các cơ quan chú trọng thực hiện nhưng khả năng thu hút chưa như mong đợi. Việc xử lý thông tin góp ý và giải trình tiếp thu ý kiến đóng góp chưa dựa được trên lợi thế công nghệ thông minh và có những văn bản chưa thực hiện đầy đủ. Khi các văn bản đã được ban hành, vẫn chưa khắc phục hoàn toàn được thực trạng có những quy định được hiểu thiếu thống nhất, được áp dụng khác nhau.
- Về tính đảng, mặc dù một vấn đề mang tính nguyên tắc đã được khẳng định, là chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật; song, thời gian qua, một số chủ trương, chính sách, thậm chí là chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng kết quả không khả thi(10).
Như vậy, thể chế vẫn là vấn đề mà Đảng ta xác định là một trong ba “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay (gồm thể chế, hạ tầng và nhân lực); trong đó, thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Theo đánh giá của (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) năm 2023 và năm 2024, chỉ số Chất lượng các quy định pháp luật chưa phản ánh rõ xu hướng cải thiện, năm 2021 Việt Nam xếp hạng 93/132 quốc gia, nền kinh tế, năm 2022 xếp hạng 83/132, năm 2023 giảm xuống vị trí 94/132, năm 2024 xếp hạng 95/133 quốc gia, nền kinh tế. Việt Nam cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải thiện thể chế, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật. Trong đó, có thể kể đến một số nguyên nhân như: 1- Về phương diện lý luận, chưa nhận thức thống nhất, đầy đủ về yêu cầu, tiêu chuẩn của pháp luật Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam để hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá pháp luật và dựa vào đó xây dựng pháp luật đạt tiêu chuẩn. Trong tư duy xây dựng pháp luật vẫn còn có hiện tượng đặt vị thế của cơ quan công quyền, người quản lý cao hơn trong mối tương quan với đối tượng quản lý; tư duy kiến tạo phát triển chưa thực sự rõ nét. 2- Về phương diện thực tiễn, quy trình lập pháp, lập quy vẫn còn một số bất cập, rườm rà, khó xác định trách nhiệm trong trường hợp chất lượng dự thảo không cao. Chất lượng cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật chưa đồng đều, một số còn hạn chế. Mặc dù đã xác định đầu tư cho thể chế là đầu tư cho phát triển, nhưng sự đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật về cơ bản chưa tương xứng với vai trò đột phá chiến lược của thể chế. Có những trường hợp chưa gắn kết chặt chẽ việc thể chế hóa chủ trương của Đảng vào hoạch định chính sách với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn. Hơn nữa, bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp, nhanh chóng, nhiều trường hợp nằm ngoài khả năng dự báo. Đây cũng là thách thức cho hoạt động xây dựng pháp luật. Ngoài ra, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, trước yêu cầu của chuyển đổi số và nhu cầu mong đợi của người dân ngày càng cao, nhiều quy định pháp luật nhanh chóng bị lạc hậu, xuất hiện nhiều khoảng trống pháp lý, một số quy định pháp luật vì vậy đã cản trở hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét