NHẬN THỨC RÕ QUYỀN LỰC VÀ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CƠ CHẾ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN
LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ”TRONG THỜI KỲ MỚI
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(năm 1986), Đảng ta khẳng định: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản
lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Cơ chế này phản ánh
và giải quyết các mối quan hệ cốt lõi của xã hội Việt Nam. Vì vậy, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải
quyết tốt các mối quan hệ lớn:...; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ.”[1].
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước
và xã hội. Quyền lực của Đảng là quyền lực chính trị, là quyền lực của một
tổ chức chính trị “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc”, là “Đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”
(Điều 4, Hiến pháp năm 2013). Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai
cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà
nước, để thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước, hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý
chí của lực lượng xã hội mà mình đại diện.
Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ các yếu tố
khách quan và năng lực chủ quan, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn là lực
lượng lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt, trong hệ thống chính trị Việt Nam
hiện nay, chỉ có một đảng chính trị, nên Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có vai trò
lãnh đạo, vừa có vai trò cầm quyền. Đảng một lúc phải thực thi hai loại quyền
lực, quyền lực chính trị (lãnh đạo) và quyền lực nhà nước (cầm quyền).
Quyền lực lãnh đạo, có thể không chính
thức, chỉ được thừa nhận bởi nhân dân, như trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền; cũng có thể chính thức, được chế định trong Hiến pháp. Nhưng dù
chính thức hay không chính thức, đặc trưng của quyền lực lãnh đạo được thực thi
bằng sự ảnh hưởng, sự hấp dẫn và tính tiên phong, gương mẫu của người lãnh đạo,
nó không có bộ máy cưỡng chế để áp đặt ý chí của người lãnh đạo. Đảng lãnh đạo
bằng tính tiên phong, bằng sự hấp dẫn của lý tưởng và giá trị mà Đảng theo
đuổi, thể hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, bằng sự vận động,
thuyết phục quần chúng nhân dân qua những tấm gương chiến đấu hy sinh của đảng
viên. Đảng phải thể hiện “là đạo đức, là văn minh”, là “không có mục đích nào
khác, ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân”.
Kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng được
chế định bởi Hiến pháp và bằng các phương thức khác nhau. Cụ thể như sau:
Một là, giới hạn quyền lực của Đảng, được chế định trong
Hiến pháp năm 2013 (Điều 4), bởi hai nội dung: Thứ nhất, Đảng Cộng
sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Thứ hai, “Các
tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nội dung này đặt Đảng bình đẳng trước pháp luật
như mọi đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Đảng được làm những gì mà
pháp luật không cấm, nhưng không thể vượt qua được khung khổ pháp luật quốc
gia. Nội dung Điều 4 Hiến pháp năm 2013 còn quy định thêm, “Đảng chịu sự giám
sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình”.
Hai là, nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng
theo các tiêu chí cụ thể được ghi trong Cương lĩnh và trong
Điều 4, Hiến pháp 2013.
Ba là, Đảng thực hiện cơ chế “tự kiểm soát” bằng các hình
thức sinh hoạt đảng, như tự phê bình và phê bình, kỷ luật đảng, hoạt động kiểm
tra - giám sát của các tổ chức đảng từ chi bộ đến Trung ương theo Điều lệ Đảng.
Bốn là, kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn thực hiện
bởi việc đánh giá hiệu quả lãnh đạo theo vai trò lãnh đạo được chế định bởi
Hiến pháp. Đánh giá hiệu quả lãnh đạo của Đảng dựa trên ba tiêu chí cơ bản: 1-
Mức độ thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra; 2- Niềm tin của nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng; 3- Những giá trị tiến bộ mà Đảng mang đến cho nhân
dân, cho đất nước, cho dân tộc.
Như vậy, chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng là nhân dân. Công cụ kiểm soát mạnh mẽ nhất hiện nay là chế định của Hiến pháp. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, rõ ràng về các chế định của Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng; về giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khung khổ pháp luật, về giám sát nội bộ Đảng... nhờ đó mà việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” sẽ đạt hiệu quả thiết thực trong thời kỳ mới./.
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72 - 73
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét