Thứ Ba, 7 tháng 5, 2019

Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng trong

Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Đã 65 năm trôi qua nhưng âm hưởng, ý nghĩa và bài học lịch sử của chiến thắng ấy vẫn còn vang vọng mãi, là động lực và tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta trong những ngày đầu độc lập gặp muôn vàn khó khăn, thử thách trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài”-thực dân Pháp dã tâm quay trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, tập trung diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 12-1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần độc lập, tự do, quyết chiến, quyết thắng, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhất tề đứng lên thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, từng bước đánh bại các chiến lược quân sự của bè lũ thực dân, giành được những thắng lợi quan trọng, nổi bật là trên các mặt trận Việt Bắc 1947, Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đề ra kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1953-1954, quyết tâm giữ vững thế chủ động, đánh địch cả chính diện và sau lưng, với phương châm tác chiến “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, “đánh chắc thắng” để đánh bại kế hoạch Navarre của địch. Với tinh thần cả nước ra trận, quân và dân ta đã liên tục tiến công, giáng cho địch nhiều thất bại nặng nề, buộc chúng rơi vào thế bị động đối phó trên khắp các chiến trường. Trước nguy cơ kế hoạch Navarre bị phá sản, thực dân Pháp gấp rút điều động lực lượng nhảy dù, chiếm Điện Biên Phủ, tăng cường lực lượng, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương-“một pháo đài không thể công phá”, nhằm tạo bàn đạp chiến lược khống chế khu vực Tây Bắc, Thượng Lào và thu hút, “nghiền nát” chủ lực của ta.
Nắm chắc tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch, đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, “tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực thiện chiến của ta lên Mặt trận Điện Biên Phủ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo, đây là chiến dịch có ý nghĩa quân sự, chính trị, ngoại giao rất quan trọng; phải đánh thắng; chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo, quyết tâm chiến lược đó, quân và dân ta đã khẩn trương chuẩn bị tốt mọi mặt và bước vào trận quyết chiến chiến lược bằng khát vọng độc lập dân tộc cháy bỏng cùng ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ.
Trước thực tiễn chiến trường và quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” ngay trước giờ mở màn chiến dịch. Đây là một quyết định sáng suốt, thể hiện tài thao lược quân sự, phù hợp với thực tế diễn biến chiến dịch và chính là một trong những yếu tố mang tính quyết định đến thắng lợi cuối cùng. Trải qua “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!”, ngày 7-5-1954, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho Quân đội nhân dân Việt Nam đã hiên ngang tung bay trên nóc hầm De Castries, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đây là một trong những đỉnh cao chói lọi, kỳ tích vẻ vang trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, của ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam; thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân trên thế giới và của lương tri thời đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Geneva, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam; đồng thời là một sự kiện quan trọng báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; chiến thắng của đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, của ý chí quyết chiến, quyết thắng, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”; của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; đồng thời, là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu thủy chung, son sắt của quân, dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Chiến thắng Điện Biên Phủ vừa mang ý nghĩa lịch sử to lớn, vừa mang tầm thời đại sâu sắc, làm sáng ngời chân lý: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nếu có một Đảng Mác-xít chân chính lãnh đạo, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, thì nhất định đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, dù kẻ thù đó mạnh hơn nhiều lần. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là dấu mốc bằng vàng. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định bị thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”. Chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi, là niềm tự hào dân tộc. Tinh thần của chiến thắng vĩ đại này đã được quân và dân ta tiếp nối, phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lập nên những chiến công hiển hách, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, xu thế chủ đạo của thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển nhưng vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, bảo hộ và các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… gia tăng. Khoa học công nghệ phát triển nhanh và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng xuất hiện những thách thức mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thế và lực của đất nước ta không ngừng được nâng lên; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế; năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa cao; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu vẫn còn hiện hữu. Phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng nhiệm vụ đặt ra còn rất nặng nề. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và đứng trước không ít khó khăn, thách thức cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc; ý chí quyết chiến, quyết thắng và khát vọng hòa bình của nhân dân ta, thể hiện sâu sắc, đậm nét trong các cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh, theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh, bền vững hơn trong những năm tiếp theo; trong đó cần tập trung thực hiện tốt những định hướng chủ yếu sau:
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng. Đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định, khó dự báo; cơ hội và thách thức, đối tượng và đối tác đan xen; trong khi đó các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh chống phá cách mạng nước ta thông qua “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, đòi hỏi chúng ta càng phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ của Đảng; lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong quá trình thực hiện, phải kiên định các mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, lấy bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối thượng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội. Kiên quyết bảo vệ đường lối, quan điểm, nền tảng tư tưởng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, toàn xã hội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Hai là, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; khơi dậy khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam. Đây là một yêu cầu vừa cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với cách mạng Việt Nam; là nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tập trung kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, bồi đắp niềm tin, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Lịch sử đã chứng minh, sự đoàn kết và kỷ luật là cội nguồn sức mạnh của Đảng và là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi vậy, chúng ta cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, từng tổ chức Đảng và từng đảng viên phải chủ động ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Qua đó, tập hợp lực lượng, tạo xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc cần phải gắn kết chặt chẽ với sức mạnh thời đại. Chúng ta phải tập trung quán triệt, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng với phương châm: Độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hướng tới đẩy mạnh, nâng tầm đối ngoại đa phương và song phương; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, tận dụng các nguồn lực và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta phải có ý chí, niềm tin, khát vọng vươn lên, xây dựng đất nước Việt Nam thịnh vượng. Biến quyết tâm thành hành động, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tập trung xây dựng Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước liêm chính, kiến tạo, hành động và phục vụ, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và quá trình hội nhập quốc tế. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo mọi thuận lợi để người dân và doanh nghiệp không ngừng đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Phát triển toàn diện, hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, xây dựng con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, nhất là đối với người có công, đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, căn cứ cách mạng, vùng bị thiên tai. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với đổi mới phương thức quản lý, hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi, công khai, minh bạch, phù hợp thực tiễn đất nước và thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Ba là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại, tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nền tảng chính trị-tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân Việt Nam được phát huy lên tầm cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng theo hướng mạnh toàn diện, ổn định lâu dài, ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, biên giới, biển, đảo. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Các cấp, ngành, địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở; tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; phòng ngừa, xử lý hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Từ kết quả, kinh nghiệm đã đạt được qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X), cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng; tăng cường công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc và các chiến lược về quốc phòng, an ninh. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế và đối ngoại về quốc phòng; tranh thủ cơ hội từ hội nhập để tiếp tục nâng cao năng lực quốc phòng, an ninh; tăng cường tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; xử lý hiệu quả những vấn đề quan trọng như an ninh biên giới, biển đảo, an ninh mạng, giải quyết hậu quả chiến tranh… góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối chính trị, quân sự của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, trước hết là vững mạnh về chính trị, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, có cơ cấu, thành phần hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng, bảo đảm thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân. Trong đó, đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Xây dựng Đảng bộ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các tổ chức đảng trực thuộc thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng và lực lượng; tổ chức, sắp xếp biên chế quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, phù hợp với điều kiện tác chiến mới.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nhất là đối với người có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh. Các đơn vị lực lượng vũ trang phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động nắm, dự báo chính xác tình hình; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ, cả về chiến lược và xử lý các trường hợp cụ thể. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Phong trào Thi đua Quyết thắng trong toàn quân; tăng cường kỷ luật quân đội, giữ vững sự đoàn kết, thương yêu, gắn bó giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân-dân; kiên quyết đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch.
Trải qua gần 75 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thể hiện rõ bản chất, truyền thống của một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội ta cũng luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao tinh thần mưu trí, dũng cảm, quyết chiến, quyết thắng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ, là quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn quan tâm, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng vững mạnh về mọi mặt, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Quân đội nhân dân không chỉ hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, mà còn thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, thiết thực góp phần xây dựng đất nước, nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta giữ được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ được môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước, là nhờ có công lao và sự đóng góp, hy sinh to lớn của các lực lượng vũ trang nhân dân, của những cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm canh giữ, bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của người dân.
Chúng ta mãi mãi khắc ghi công ơn to lớn của Bác Hồ kính yêu, của các vị tiền bối, lão thành đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chúng ta luôn ghi nhớ, tri ân các vị tướng lĩnh, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và quân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, đóng góp máu xương, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ và các chiến công vĩ đại khác trong các cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước.

Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý chí quyết chiến, quyết thắng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta chung sức, đồng lòng, gắn kết sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./. 

ĐẤU TRANH CHỐNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG TÔN GIÁO THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

ĐTM 004/2019
Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, tế nhị và rất phức tạp, có quan hệ ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đến sự ổn định về chính trị của mỗi quốc gia, khu vực và cả quốc tế. Giải quyết vấn đề tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng trong lãnh đạo quá trình xây dựng đất nước của Đảng cầm quyền.
I. NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay có 38 tổ chức, hệ pháI tôn giáo thuộc 13 tôn giáo, với 24 triệu tín đồ( chiếm 27% dân số cả nước), 83.000 chức sắc, 25.000 chức việc, 46 trường đào tạo chức sắc tôn giáo, gần 28.000 cơ sở thờ tự. Nước ta hiện có 6 tôn giáo lớn đã được Nhà nước cấp đăng ký hoạt động và công nhận tư cách pháp  nhân. Số lượng tín đồ của 6 tôn giáo lớn: Phật giáo hơn 13 triệu người; Thiên chúa giáo gần 7 triệu; Cao Đài trên 1 triệu người; Phật giáo Hòa hảo 1.392.067 người; Tin Lành 932.326 người; Hồi giáo 77.275 người. Đa số tín đò các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là nông dân  trú trên địa bàn cả nước. Một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo cư trs ở các địa bàn chiến lược Tây Bắc 100.000; Tây Nguyên 400.000; Tây Nam Bộ 1,3 triệu.
Trong quá khứ và hiện tại, một số tôn giáo ở Việt Nam đã từng bị các thế lực xâm lược và thù địch lợi dụng phục vụ cho chính sách xâm lược thống trị và các mưu đồ khác của chúng. Thời gian qua ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều “ điểm nóng ” về tôn giáo, đằng sau các sự kiện đó chúng ta có đủ bằng chứng để khẳng định có bàn tay của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế. Do đó, vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo càng gắn chặt và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Quốc phòng -  An ninh của Việt Nam.
2. Nhận thức mới của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới quan trọng về nhận thức, quan điểm, nhiệm vụ, chủ trương, chính sách đối với tín ngưỡng tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển về nhận thức. Nghị quyết này có 2 luận điểm mang tính đột phá là: tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và tôn giáo có những giá trị văn hoá, đạo đức phù hợp với chế độ mới. Phải đặt 2 luận điểm này trong khung cảnh lúc đó ta mới hiểu rõ ý nghĩa. Đó là một thời điểm lịch sử đặc biệt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, nhưng những quan điểm tả khuynh về tôn giáo vẫn còn chế ngự.
 Đặc điểm chủ yếu của giai đoạn ấy là, phê bình tôn giáo tập trung chủ yếu vào những vấn đề căn bản của thuyết vô thần mác-xít và các hình thái vô thần duy vật khác, ở Trung  Quốc đã có những dấu hiệu đổi mới đầu tiên với việc bàn luận về những đặc điểm tôn giáo ở Trung Quốc và khả năng thích ứng với chủ nghĩa  xã hội của tôn giáo (1982).
Với nước ta, 2 luận điểm trên đã nhanh chóng tạo nên sự đột phá nhận thức: không thể nhìn tôn giáo qua mệnh đề của Mác đã bị cắt xén và phiến diện “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Phải nhìn nhận tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận quần chúng, và nó hoàn toàn có thể đồng hành với chủ nghĩa  xã hội. Riêng luận đề mới mẻ về văn hoá tôn giáo đã khơi dây trực tiếp những suy nghĩ, hành động tích cực của quần chúng, người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo.
Khi các giá trị văn hoá đạo đức cuả tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của văn hoá dân tộc, một mặt đã thừa nhận sự đa dạng của văn hoá dân tộc, mặc khác tạo ra thêm một con đường đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Khai thác tốt các giá trị văn hoá, đạo đức cuả tôn giáo là cách tốt nhất để cho nhiều tôn giáo thuận lợi hơn trong quá trình tìm về dân tộc.
Kể từ sau nghị quyết 24 nói trên, Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác khẳng định và phát triển tư duy đổi mới về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác tôn giáo trong tình hình mới, một văn kiện quan trọng lần đầu tiên được đăng tải công khai trên báo nhân dân và hàng loạt báo khác và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, vấn đề tôn giáo được đưa ra bàn bạc, quyết định ở cấp Ban Chấp hành trung ương đó là văn kiện của Hội nghị Trung ương 7 (khoaIX) còn gọi là nghị quyết 25 (12/3/2004) với tên gọi về công tác tôn giáo, đến nay vẫn giữ vai trò định hướng cho công tác tôn giáo và cho cả bản thân đời sống tôn giáo.
Cần ghi nhận con số sau đây: từ 1990 đến 2003, đã có 13 văn kiện về các vấn đề tôn giáo gồm 2 nghị quyết, 2 chỉ thị, 9 thông báo. Trong đó Ban bí thư, ban hành một chỉ thị, 7 thông báo; Bộ Chính trị ban hành 1 nghị quyết, 1 chỉ thị và 2 thông báo; Ban Chấp hành Trung ương ban hành 1 nghị quyết.
Điều quan trọng hơn cả là, đến nay nhận thức về vấn đề tôn giáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có bước tiến khá dài. Một bầu không khí xã hội mới mẻ đã lan toả, ranh giới vô hình mà khắc nghiệt về sự phân biệt “lương, giáo” mà các thế lực đế quốc thực dân, phong kiến trước đây cố tình khoét sâu mâu thuẫn này đã đựơc gỡ bỏ căn bản, tạo nên những điểm sáng trong quan hệ đạo đời.
Sự đổi mới trong chính sách tôn giáo
Đây là bề nổi của sự vật và thật đáng chú ý, điều này ngaỳ càng bộc lộ rõ, tạo nên những chuyển biết hết sức sống động trong thực tiễn đời sống tôn giáo ở nước ta. Ngoài những quy phạm pháp luật chứa đựng trong các điều luật cuả các bộ luật (luật hình sự, luật tố tụng hình sự…) cho đến nay những văn bản có tính pháp lý cao nhất như các bản Hiến pháp, từ 1991 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản riêng về tôn giáo, tín ngưỡng.
Có thể xem Nghị định số69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng “Quy định về các hoạt động tôn giáo” là văn bản mở đầu.Năm 1993, Chính phủ ra Nghị định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan có tầm quan trọng bậc nhất về quản lý nhà nước về tôn giáo: Ban tôn giáo của Chính phủ.
 Sau đó là nhiều văn bản  đều có dấu ấn khác: Nghị định 26 ngày 19/4/1999 của Chính phủ “Về các hoạt động tôn giáo’’, Quyết định số 125/2003 ngày  18/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7(khoá IX) về công tác tôn giáo”.
Đặc biệt, tháng 7/2004, dư luận trong nước và quốc tế rất quan tâm đến sự kiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và được ban hành cũng như Nghị định của Chính phủ vừa ban hành mới đây(3/2005) “Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo’’.
 Về mặt vĩ mô, phải nói sự đổi mới mạnh mẽ của chính sách tôn giáo cũng được bắt nguồn từ tinh thần của Nghị quyết 24 nói trên. Trong đó, cũng là lần đầu tiên, công tác tôn giáo vốn được coi chủ yếu là công tác đánh địch lợi dụng, nay được coi chủ yếu là công tác vận động quần chúng (phạm trù công tác dân vận) với luận đề quan trọng: “Thực chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”.
Chúng ta đã có những bước tiến dài trong việc thể chế hoá các quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng của quần chúng và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Từ 1991 đến nay, chúng ta luôn thể hiện quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyễn XHCN trên lĩnh vực quản lí tôn giáo, bằng việc ban hành hàng loạt quy định, nghị định, chỉ thị, thông tư,…và đỉnh cao nhất là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nói hàng loạt các văn bản pháp lí ấy đã thể hiện sinh động sự đổi mới về chính sách tôn giáo. Chúng tôi có khái quát vào một số điểm sau đây:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa nhà nước với các tôn giáo, là nói đúng hơn là các tổ chức tôn giáo  (giáo hội, hội thánh, ban trị sự, hội đồng giáo sứ..” đã được cải thiện căn bản theo hướng pháp quyền. Một mô hình Nhà nước thế tục mác-xít, về bản chất là nhà nước thế tục phi tôn giáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh  ký  sắc lệnh số 234 (1955), nay đã hiện ra rõ rệt. Mô hình này tỏ ra thích hợp với đời sống tôn giáo ở Việt Nam, được đông đảo đồng bào có đạo và quần chúng nói chung hoan nghên và bước đầu được thế giới nhìn nhận.  Trên cả 3 khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo đã được thể chế hoá và cơ bản đã phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai, về mối quan hệ giữa “hoạt động tôn giáo” và “công tác tôn giáo” cũng được giải quyết tốt hơn. Mối quan hệ này vốn không hề đơn giản vì  các “hoạt động tôn giáo” vốn là lợi ít sống còn của các chủ thể tôn giáo, trong khi đó “công tác tôn giáo” lại là vấn đề thuộc phạm trù quản lý nhà nước. Nhà nước ta hiểu rõ những kinh nghiệm quá khứ, khi mà sự tương tác giữa 2 chủ thể “Hoạt động tôn giáo” và “Công tác tôn giáo” diễn ra không thuận lợi dẫn đến xung đột triệt tiêu lẫn nhau.  Trên  khía cạnh này, tư tưởng  Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng ta về sự khai thác các điểm tương đồng, đồng thuận xã hội có ý nghĩa lớn “giữ vững độc lập, thống nhất của tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ ba, vận dụng kinh nghiệm của lịch sử dân tộc và quốc tế về luật pháp tôn giáo, để sự thể chế hoá về quyền hạn và nghĩa vụ của toàn dân, trước hết là cộng đồng các tôn giáo ngày càng thích hợp hơn.  Đây cũng là nét mới trong chính sách tôn giáo của nhà nước ta hiện nay, trực tiếp tạo nên bầu không khí phấn khởi trong các chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
Về mặt vi mô, nước ta có 6 tôn giáo chính “Phật giáo, công giáo, đạo tin lành, hồi giáo, cao đài và phật giáo hào hảo” mà việc quản lý mỗi tôn giáo đòi hỏi có những giải pháp riêng. 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những thành tựu rất đáng kể về mặt này.  Không chỉ đối với công giáo, phật giáo, những tôn giáo lớn có vị trí đặc biệt trong hệ thống tôn giáo ở nước ta, những chính sách đúng đắn cuả Nhà nước ta những năm gần đây với đạo Cao đài đã công nhận tư cách pháp nhân cho 10 tổ chức hệ phái; với phật giáo Hoà hảo cũng có những quyết sách mạnh dạn về cơ cấu tổ chức ban trị sự, với Hồi giáo cũng tương tự. Đặc biệt với những chính sách mền dẻo và cởi mở để giải quyết cơ bản “vấn đề Tin lành”, vấn đề tôn giáo nóng bỏng bậc nhất trong những năm gần đây ở nước ta.
Có thể nói sự đổi mới chính sách tôn giáo những năm gần đây đã đem lại hiệu quả to lớn trong việc góp phần quyết định tạo ra sự ổn định, bức tranh sinh hoạt tôn giáo ngày càng có nhiều điểm sáng. Tất nhiên, trong những năm qua và còn lâu dài, các thế lực thù địch vẫn luôn luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống pháp cách mạng Việt Nam. Nhưng có thể nói xu hướng tôn giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là không thể đảo ngược.
Những vấn đề đặt ra trong việc đổi mới nhận thức và chính sách tôn giáo.
Thứ nhất, chúng ta đã thừa nhận tôn giáo còn là một thực tại xã hội, thậm chí nó có thể đồng hành với dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư duy lý luận của chúng ta phải tiến thêm một bước quan trọng khác, một luận đề có tính đột phá khác là, để tôn giáo “thực thể xã hội” ấy có thể thích ứng với chủ nghĩa  xã hội phaỉ tạo cho nó khả năng và quyền hạn “pháp lý nhân sự” tham gia tích cực hơn  một số lĩnh vực xã hội tích cực tham gia phát triển đất nước và thoả mãn như cầu đời sống tôn giáo. Tiền  đề lý luận khách quan là: trong bối cảnh toàn cầu hoá, hiện đại hoá, mọi tôn giáo đều có khuynh hướng trở thành : “tôn giáo xã hội”, thích ứng xã hội ngày càng cao. Văn kiện Đại hội X đã lưu ý chỉ ra rằng: “đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng cuả khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật” (13).
Nhu cầu xã hội của các tôn giáo hiện nay ngaỳ càng tăng trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và nó cũng không tách rời “quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường”.
Thứ hai, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước và các giáo hội.
Trong những năm qua chúng ta có rất nhiều thành tựu về vấn đề này do Đảng ta từ lâu đã biết dựa và tư tưởng Hồ Chí Minh nắm chắc đặc điểm dân tộc, yếu tố dân tộc của cách mạng Việt Nam tránh được phần lớn những sai lầm thiếu sót của khuynh hướng tả khuynh về vấn đề tôn giáo trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đặc biệt từ năm 1990 đến nay, lần đầu tiên Đảng ta đã chuyển vấn đề tôn giáo từ phạm trù nội chính, qua phạm trù công tác dân vận, tạo nên cục diện mới, được đồng bào các tôn giáo đó nhận, tạo nên bầu không khí phấn khởi thuận lợi hơn cho quan hệ nhà nước và các tổ chức tôn giáo. Hiện nay, vấn đề then chốt để tiếp tục đổi mới vấn đề tôn giáo là phải đặt mối quan hệ này trong vấn đề nhà nước pháp quyền, bình thường hoá và pháp  trị. Càng làm  tốt điều này, đời sống tôn giáo càng ổn định vững chắc và xây đắp hơn khối đại đoàn kết dân tộc.
Văn kiện Đại hội X có nói đến “các tôn giáo hợp pháp” và được pháp luật bảo hộ khi các tổ chức tôn giáo ấy “hoạt động theo pháp luật”. Đây là vấn đề rất quan trọng không chỉ ở góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn đáp ứng đòi hỏi bức xúc: chỉ có làm tốt công tác hoàn thiện luật pháp tôn giáo mới có thể có điều kiện, phương tiện hữu hiệu làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
 Đối với Việt Nam hiện nay, trước khi nói đến một bộ luật về tôn giáo “các văn bản của Bộ Chính trị đã từng nói điều này” thì cấp thiết phải xây dựng, hoàn thiện hơn luật pháp nhân tôn giáo, các chế tài khác liên quan đến đời sống tôn giáo dù chúng ta đã có pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… có như vậy chúng ta mới có thể hoàn thiện mô hình nhà nước thế tục đã lựa chọn từ những năm đầu hoà bình lập lại sau hiệp định Giơ-ne-vơ (1954).
Thứ ba, việc ổn định đời sống tôn giáo và tạo thêm điều kiện cho các tôn giáo cống hiến khả năng xây dựng phát triển đất nước là không ngòai quy luật mà tư tưởng  Hồ Chí Minh chỉ ra: luôn luôn duy trì và phát triển xu hướng tôn giáo đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa  xã hội, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trước hết bằng mục tiêu chung, điểm tương đồng giữa lý tưởng tốt đẹp vốn có cuả các tôn giáo với chủ nghĩa  xã hội.
 Khai thác những giá trị tích cực của các tôn giáo trước hết là các giá trị văn hoá và đạo đức, đồng thời luôn cảnh giác những âm mưu lợi dụng các tôn giáo và mục đích chính trị phản dân tộc và chống phá chủ nghĩa  xã hội.
Chúng ta đã từng trải qua những giai đoạn quá dài phương pháp nhận thức về công tác tôn giáo chưa đầy đủ, tả khuynh và nóng vội. Trong các nhận thức chưa đúng đắn ấy, có lẽ 3 nhận thức cơ bản sau đây vẫn còn ám ảnh ở một bộ phận quần chúng:
Thứ nhất, vì tôn giáo là sự “phản ánh ngược” của hiện thực và duy tâm nên nó hoàn toàn đối nghịch với khoa học và chủ nghĩa duy vật.
Thứ hai, vì tôn giáo luôn được hiểu, đồng nhất với mê tín nên nó là hệ ý thức lạc hậu, phải xoá bỏ.
Thứ ba, vì tôn giáo luôn luôn bị các thế lực phản động lợi dụng, nên tôn giáo thường đồng nhất với chính trị, ở đó không có chỗ cho “văn hoá” và giải quyết vấn đề tôn giáo là đấu tranh tư tưởng  chính trị, nhận thức và giải quyết vấn đề địch-ta.
Dưới ánh sáng đổi mới của Đảng ta trong nhận thức và hành động, chúng ta đã có những bước đột phá quan trọng. Tuy vậy, cũng chưa thể coi như “không còn vấn đề gì” trong lĩnh vực vốn rất phức tạp và nhảy cảm này.
II. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH Ở VIỆT NAM THỜI KỲ MỚI
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Nhà nước đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề tôn giáo được đại hội XII xác định:  “ Tiếp tục hoàn thiện chính sach, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo qui định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái qui định của pháp luật” ( 13).
Quan điểm này phù hợp với thực tiễn đời sống tôn giáo, cả trong những năm sắp đến. Vấn đề chỉ còn ở chỗ: các cơ quan, ban, ngành hữu quan tiếp tục có những chương trình phổ biến, giáo dục sinh động cho toàn Đảng, toàn dân đặc biệt là đội ngũ những người làm công tác tôn giáo trực tiếp, cần thấm nhuần hơn nữa các quan điểm này về công tác tôn giáo.
Hơn 30 năm đổi mới thành tựu đạt được trong thực hiện nhiệm vụ, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước của đồng bào có đạo, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng bào theo các tôn giáo được bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền được sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật. Nhà nước   quản lý bằng pháp luật đối với các hoạt động tôn giáo. hướng dẫn, giúp đỡ các tôn giáo xây dựng đường hướng hành đạo tiến bộ, gắ bó với dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực  thù địch chống phác cách mạng nước ta góp phần giữ vững sự ổn định đời sống chính trị – xã hội, củng cố Quốc phòng  - An ninh của đất nước.
 Hiện nay, cách mạng nước ta đang chuyển sang một thời kỳ mới trong bối cảnh đời sống chính trị quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp khó lường sự nghiêp cũng cố quốc phòng - an ninh của đất nước đứng trước nhiều thách thức mới trong đó có cả những thách thức về vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế các thế lực thù địch ráo riết lợi dụng tôn giáo gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề “nhân quyền”,  “ dân tộc” “dân chủ” thực hiện “ chiến lược diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta.
Đại bộ phận chức sắc tôn giáo có tinh thần yêu nước và cách mạng, yên tâm hành đạo, có ý thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; song vẫn còn một bộ phận chức sắc tín đồ có tư tưởng vọng ngoại, cơ hội, thái độ cực đoan, quá khích, gây tổn hại đến lợi ích dân tộc thậm chí có những hoạt động chống đối chính quyền gây tổn hại đến đời sống chính trị – xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay nếu Đảng Nhà nước không có một quan điểm và đường lối đúng đắn với những giải pháp phù hợp đối với vấn đề tôn giáo thì dễ bùng phát thành những mâu thuẫn xã hội khó kiểm soát được, dẫn đến xung đột tôn giáo với chính quyền đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định đời sống chính trị – xã hội; sức mạnh Quốc phòng – An ninh của đất nước.
Quan điểm, chủ trương, của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết các dân tộc; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc giữ vững ổn định chính trị củng cố Quốc phòng - An ninh; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thực hiện thắng lợi mục tiêu trên đây Đảng ta xác định rõ quan điểm chỉ đạo công tác tôn giáo trong tình hiện nay:
a. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. đồng bào tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
b. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công đối với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngương, tôn giáo; đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước; kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia

c. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là  điểm tương đồng để đoàn kết gắn bó đòng bào các tôn giáo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng tôn giáo trong thời kỳ mới phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và và thống nất đất nước, thực hiện tốt các chương trình, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng-  an ninh, làm cho đời sống vật chất và  tinh thần của nhân dân ta ngày cang được nâng cao.
d. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Tín đồ, chức sắc tôn giáo phân bố ở khắp mọi vùng, miền của trong cả nước . Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành.
Tiến hành công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo; trong đó đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt, cần được củng cố kiện toàn, nhất là địa bàn trọng điểm có đông đồng bào tôn giáo.
Nghị quyết 25/ NQ- TW chỉ rõ: “Công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo và đấu tranh chống việc  lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng”
e. Vấn đề theo đạo và truyền đạo.
 Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự ợp pháp theo qui định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo qui định của pháp luật.
Việc theo đạo và truyền đạo cũng như hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật, không được lợi dụng tôn giáotuyền truyền “ tà đạo”, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo, và các cách thức truyền đạo trái pháp luật, vi phạm các qui định của Hiến pháp và pháp luật.
2. Nhiệm vụ của công tác tôn giáo trong thời kỳ mới.
a. Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nân cao đời sống nhân dân trong đó có đồng bào tôn giáo.
b. Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo, đưa các hoạt động tôn giáo theo đúng chính sách và pháp luật, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, thực hiện tốt sự bảo hộ của Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo hợp pháp, đúng pháp luật; ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện các  hoạt động trái pháp luật,chống lại sự quản lý của Nhà nước.
c. Đảy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “ tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước.
d. Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đè tôn giáo, dân tộc để phá hoạikhối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống chế độ.
e. Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp vớ đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền vè chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù dịchđối với tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo ở nước ta.
g. tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường công tác nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.
3. Giải pháp và chính sách đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
a. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn thể xã hội về vấn đề tôn giáo.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân;nhất là ddooid với chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo.
- Giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc; giúp các tôn giaos giữ đúng đường hướng hành đạo, gắn với dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, đan tộc và nhân dân; tạo sự thống nhất, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo để đấu tranh chống lại những hoạt đông mê tín, lợi dụng tôn giáo gây mất ổn định ở cơ sở.
b. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
- Thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường công tác vận động quần chúng, đổi mới nội dung phương thức công tác dân vận, tổ chức hướng dẫn quần chúng tham gia mọi hoạt động ở cơ sở phù hợp với đặc điểm các tôn giáo và nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc ViệtNam và các đoàn thể nhân dân trong tuyên truyền, vận động tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hieenjcacs chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Tập trung củng cố và nâng cao hệ thống chất lượng chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn có đông đông bào theo tôn giáo.
c. Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo
- Chăm lo phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội cho nhân dân vùng đặc biệt khó khăn, quan tâm nâng cao đời sống đồng bào theo tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Hướng dẫn tín đồ, chức sắc các tôn giáo chấp hành và thực hiện nghiêm Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã  được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2004 và Luật tín ngưỡng tôn giáo đã được kỳ họp  thứ hai Quốc hội khóa XIV thông qua ngày18 tháng 11 năm 2016.
- Tăng cường cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia.
4. Một số vấn đề cần chú ý khi tiến hành công tác  vận động quần chúng vùng tôn giáo.
Thường xuyên tổ chức quán triệt, phổ biến, học tập các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng Nhà nước về công tác tôn giáo trong tình mới. Nâng cao nhận thức, cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo về đặc điểm, giáo lý giáo lyaat, lễ nghi của từng tôn giáo để tiến hành công tác vận động quần chúng vùng tôn giáo đạt hiệu quả tốt.
Công tác tôn giáo phải thực hiện dưới sự lãnh đạo, quản lý điều hành của Cấp ủy, chính quyền địa phương; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị  - xã hội trong triển khai thực hiện.
Tích cực đổi mới, nội dung, hình thức công tác dân vận vùng tôn giáo vùng sâu, vùng xa , biên giới phù hợp với đặc điểm của từng tông giáo, từng địa phương; quan tâm lợi  ích chính đáng của tín đồ các tôn giáo, bảo đảm quyền sinh hoatjtoon giáo bình thường đúng pháp luật. Phát huy vai trò của các chức sắc, chức việc, người có uy tín trong các tôn giáo tham gia vận động tín đồ thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; nhiệm vụ của địa phương, kiên quyết đấu tranh với mị hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chia rẽ, khối đoàn kết toàn dân tộc.Hướng dẫn tổ chức ton giáo, chức sắc, tín đò, nhà tu hành tham gia thực hiện xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục, từ thiện nhân đạo….đúng pháp luật của Nhà nước, phù hợp với chức năng và nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo.
Xử lý về đất đai, nhà ở sử dụng vào mục đích tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo đúng pháp luật, pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo chỉ thij1940/ CT của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với hội đoàn tôn giáo, thực hiện theo điều 19, 20 – Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Xử lý các vụ việc phức tạp vùng tôn giáo phải thực hiện dưới sự lãnh đạo của cấp Uỷ Đảng, sự điều hành của chính quyền địa phương.  Nắm vững  phương châm : dựa vào quần chúng tín đồ để giải quyết vấn đề tôn giáo; tích cực tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các chức sắc, chức việc tiến bộ. Phát huy vai trò tham mưu của các cơ quan chức năng để có các chue trương, biện pháp giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, không để sự việc lây lan kéo dài, tạo sơ hở để các thế lực thù dịchđể các thế lực thù địch, những phần tử xấu lợi dụng tôn giáo gắn với “ dân chủ” “ dân quyền” thực hiện “ diễn biến hòa binh’, bạo loạn lật đổ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội, suy yếu sức mạnh quốc phòng – an ninh của đất nước.
KẾT LUẬN
Tôn giáo là vấn đề nhạy cảm ở tất cả các quốc gia, giải quyết vấn đề tôn giáo là nhiệm vụ phức tạp liên qua trực tiếp đến sự ổn định chính trị sự tồn vong của chế độ. Thực tiễn hiện nay cho thấy xung đột tôn giáo đã đẩy nhiều quốc gia đến chỗ nội chiến, xung đột chính trị giữa các quốc gia.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo nội sinh, có tôn giáo ngoại nhập. Giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình mới có tác động trực tiếp đến sức mạnh Quốc phòng – An ninh của đất nước; ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị; sự an nguy của chế độ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với những quan điểm chủ trương, giải pháp đúng đắn đã đoàn kết được đồng bào giữa các tôn giáo; đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo với đồng bào không có tôn giáo cùng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương đổi mới phát triển kinh tế, giữ vững ổn đinh chính trị; cũng cố Quốc phòng – An ninh; hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế; tranh thủ được thời cơ, vượt qua được thử thách đứng vững trước những biến cố chính trị to lớn của thời đại xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng phồn vinh hiện đại.
Tài liệu tham khảo
1.C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1993, T 17, tr 450.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1993, T 18, tr 718-719.
3. 4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 172
5. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 173
6.7. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 174
8. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.7, tr 514-515
9. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 171
10. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.37, tr 221
11.12. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ĐẶC SẮC CỦA HỒ CHÍ MINH


Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng  cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.  Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga,  khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” (1). Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2).
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo  vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(3). Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(4). Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(5). Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (…). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(6)­­­.
 Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động khủng hỏang, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước khu vực Mỹ- latin tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử … Song các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo lọan lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận nhân dân ta, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên đã một thời không tiếc máu xương cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, đã mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường tư tưởng. Thậm chí có người phủ nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân ta giành được, cho rằng chúng ta tiến hành kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là sai lầm, gây nên sự mất mát hy sinh không cần thiết… Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, một số người còn cho rằng đã là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì phải tự do hóa, chế độ một đảng lãnh đạo là không tương dung với kinh tế nhiều thành phần, hoặc đã chấp nhận kinh tế thị trường thì đừng nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ khuyên chúng ta không nên tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ nghĩa xã hội dân chủ hay dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân đến khi nào chuẩn bị đầy đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã hội cũng chưa muộn, v.v…
Trước những diễn biến của tình hình trên đây, rõ ràng đều nhắm tới mục tiêu, ý đồ đen tối là phủ định tư tưởng xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta, mong muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh./.



(1)  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.127.
(2)  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 314.
(3)  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.56.
(4)  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 152.
(5)  C.Mác và Ph.Ăng nghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628.
(6)  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.591.