Thứ Ba, 7 tháng 7, 2020

“XA RỜI QUẦN CHÚNG LÀ LÀM SUY YẾU SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG”


Xây dựng Đảng là vấn đề được nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đặt sự quan tâm hàng đầu. Đồng chí luôn coi việc nâng cao chất lượng của tổ chức Đảng, rèn luyện nâng cao chất lượng, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một điều kiện tiên quyết để vượt qua những khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng.
1. Đồng chí Nguyễn Văn Linh sớm nhận thấy tham nhũng, quan liêu có thể phát triển, trở thành “quốc nạn”. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực được đồng chí phát động từ loạt bài báo “Những việc cần làm ngay” (gồm 27 bài đăng báo Nhân Dân trong khoảng thời gian từ ngày 25/5/1987 đến ngày 28/9/1990).
Các bài báo thể hiện quyết tâm làm trong sạch và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ; thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng để làm lành mạnh hàng ngũ Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh xã hội để sửa chữa và ngăn chặn những sai lầm khuyết điểm mà một Đảng cầm quyền dễ phạm phải khi rơi vào chủ nghĩa quan liêu, xa rời quần chúng.
Đồng chí đã sớm chỉ ra căn bệnh hình thức trong đấu tranh phê bình, tự phê bình. Trong nhiệm kỳ của mình, nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh không chỉ đôn đốc việc tự phê bình và phê bình từ dưới lên mà cả từ trên xuống. Đồng chí đã tổ chức được việc kiểm điểm cá nhân từ Tổng Bí thư đến từng Ủy viên Bộ Chính trị, không chỉ trong công tác lãnh đạo mà cả trong ý thức tổ chức kỷ luật, trong đạo đức, lối sống. Việc làm đó có ý nghĩa rất lớn trong Đảng, được toàn Đảng, toàn dân nhiệt liệt hoan nghênh.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh rất cảnh giác với xu hướng quan liêu hoá trong Đảng, cả trong lối sống và cách làm việc. Vì bệnh quan liêu đã làm hư hỏng nhiều cán bộ, làm cho Đảng xa rời quần chúng, không nhạy cảm với những gì quần chúng đang bức xúc, để cho lòng người nguội lạnh trước những vấn đề nóng bỏng mà cuộc sống đặt ra.
Khi còn là Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, đồng chí cho rằng gắn bó với Nhân dân là “vấn đề sống chết của Đảng bộ”. Đồng chí thường nói: “Tình hình trì trệ kéo dài của bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể, khuynh hướng hành chính hoá công tác cách mạng là một nguy cơ mà tổ chức Đảng ở một thành phố công nghiệp, một đảng của giai cấp công nhân phải hết sức cảnh giác, vì tai hại của nó thật vô cùng”.
2. Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh bài học lấy dân làm gốc và “phải đặc biệt chăm lo củng cố mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân. Mọi chủ trương chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng, khả năng của Nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”. Là người đã từng đồng cam cộng khổ, chịu đựng hy sinh cùng Nhân dân đi qua cuộc cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân, qua suốt hai cuộc kháng chiến gian khổ, lâu dài và anh dũng để bảo vệ nền độc lập tự do ấy, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã rút ra những kết luận sâu sắc rằng: “Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến trước đây chính là ở chỗ Đảng gắn bó máu thịt với dân, lãnh đạo và phát huy được tiềm năng to lớn của Nhân dân, quan tâm giải quyết được các lợi ích thiết thân của quần chúng”.
Trên cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng trong những năm đầu của thời kỳ Đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khẳng định mối quan hệ Đảng - Dân là “mối quan hệ sống còn”. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải gắn liền với việc tăng cường mối quan hệ Đảng - Dân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mỗi đảng viên phải thành khẩn tự phê bình và phê bình. Trong chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh “giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo đồng chí, mặc dù có những đặc điểm khác nhau trong mỗi thời kỳ nhưng các nhân tố tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong Đảng ở mọi giai đoạn cách mạng là Đảng phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình. Đây là những vấn đề có tính nguyên tắc mà đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn yêu cầu các cấp uỷ Đảng phải nghiêm túc tích cực thực hiện.
3. Sinh thời, đồng chí Nguyễn Văn Linh thường trăn trở: “Để xứng đáng là người lãnh đạo chính trị đối với xã hội, xứng đáng với niềm tin yêu, hy vọng của Nhân dân, Đảng ta phải không ngừng nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình”. Nhận trọng trách Tổng Bí thư trước Đảng, trước Nhân dân trong một nhiệm kỳ đánh dấu khởi đầu sự nghiệp Đổi mới toàn diện đưa đất nước thoát khỏi một trong những giai đoạn khó khăn nguy hiểm nhất trong lịch sử dân tộc, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng Bộ Chính trị, Trung ương Đảng lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến những bước vững chắc đầu tiên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn để Đảng trong sạch, vững mạnh, có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo được khởi động từ Đại hội VI, hôm nay vẫn đang được Đảng nhấn mạnh trong hai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII, đang được thực hiện mạnh mẽ trong thực tiễn để tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh kịp thời,mạnh mẽ và có hiệu quả với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đã tạo những chuyển biến tích cực trong xã hội, lấy lại lòng tin trong Nhân dân - như một nhân tố quyết định sự thành công.


TỰ DO MẠNG XÃ HỘI PHẢI ĐI KÈM TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI


Việt Nam chính thức kết nối với xa lộ thông tin của thế giới vào ngày 19-11-1997. Sau hơn 20 năm phát triển, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong các quốc gia có tỷ lệ người dùng internet cao nhất châu Á, đứng thứ 12/20 quốc gia dẫn đầu thế giới về số người dùng internet.
Internet và mạng xã hội (MXH) ở Việt Nam đã trở thành công cụ vô cùng quen thuộc, là “một phần tất yếu” trong cuộc sống của người dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế nhưng, vừa qua trên một vài trang mạng vẫn xuất hiện những giọng điệu cho rằng: Việt Nam vi phạm tự do internet, tự do MXH.
Bức tranh sinh động
Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet nói chung và MXH nói riêng. Điều này đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được biểu hiện sinh động trên thực tế.
Ngoài các báo điện tử, các trang tin, thông qua MXH (Facebook, YouTube, Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng MXH để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân…
Hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, Luật An ninh mạng (ANM), sau một năm có hiệu lực đã dần đi vào cuộc sống, mang lại những hiệu quả rất rõ nét, thiết thực trong đời sống xã hội. Trước, trong và sau khi luật ra đời, không ít thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc Việt Nam ban hành Luật ANM là "vi phạm quyền con người, bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...". Thực tế, sau một năm thực thi đã chứng minh Luật ANM hoàn toàn không vi phạm quyền con người, không bóp nghẹt tự do ngôn luận, mà ngược lại đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân vẫn được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, tự do ngôn luận hoàn toàn không bị hạn chế nếu chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo môi trường lành mạnh, an toàn. Nhiều thông tin, bài viết, video clip ảnh hưởng tiêu cực đến chuẩn mực, đạo đức xã hội đã được ngăn chặn, xử lý; đời tư cá nhân được bảo vệ; hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng được bảo đảm; các đối tượng tung tin sai lệch, nhất là về dịch Covid-19 gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch đã bị xử lý.
Tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin
Mặt khác, cũng cần thấy rằng nhận thức, quan điểm về internet, MXH và tham gia MXH của một số người chưa đúng, chưa đầy đủ. Không ít người dùng nghĩ rằng tự do internet, tự do MXH là vô hạn, không thấy rõ sự gắn bó giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia MXH. Do cách nhìn thiên về mặt trái của MXH nên vẫn có người nhìn nhận MXH với thái độ thành kiến. Đi kèm với tốc độ phát triển mạnh mẽ của internet, MXH, Việt Nam cũng là quốc gia có nguy cơ xảy ra các hành vi phạm pháp từ MXH.
Đặc biệt, tình trạng tin giả, lừa đảo, xuyên tạc, bịa đặt qua MXH là một trong những vấn đề nhức nhối nổi lên thời gian qua. Nguyên nhân của tình trạng này do đâu? Phân tích chúng ta thấy dư luận phản ứng rất mạnh mẽ trước những vấn đề thuộc giá trị đạo đức truyền thống hoặc các vấn đề nóng, vấn đề có tính thời sự cao trong đời sống xã hội. Lợi dụng yếu tố tâm lý này, nhiều người đã tạo ra các tin giả, tin lừa đảo, tin bóp méo, xuyên tạc sự thật với động cơ và mục đích cá nhân. Vì mục đích kinh tế mà một bộ phận bán hàng online cố tình tạo ra tin giả và lan truyền tin giả nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng vào trang MXH của mình.
Sự bùng phát của tin giả, tin xuyên tạc cũng một phần do chính những người tiếp cận thông tin, những người tham gia MXH. Do nhận thức hạn chế, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết nên không ít người không biết thông tin mình tiếp cận là đúng hay sai, có cơ sở khoa học hay không, tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội như thế nào nên đã đăng tải, chia sẻ, bình luận một cách tùy tiện, vô trách nhiệm... Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng mang danh “thực hiện quyền tự do ngôn luận” thông qua MXH để “bày tỏ quan điểm cá nhân” nhưng thực chất là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và đã bị xử lý trước pháp luật. Sau mỗi trường hợp bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động lại lu loa rằng “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do internet”... Cần khẳng định rõ rằng giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là bao che, dung túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật và sâu xa là chống phá Việt Nam. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do MXH là nhiệm vụ của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng cũng như các quyền cơ bản khác, quyền tự do MXH chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào mục đích đúng đắn và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Mọi hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm pháp luật thì không chỉ có Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải xử lý nghiêm minh.
Để đối phó với nạn tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy rõ tính nguy hại của vấn đề; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân, nhất là người tham gia MXH cần tỉnh táo trong tiếp cận thông tin để tránh bị lợi dụng tiếp tay cho kẻ xấu, đồng thời tích cực đấu tranh với vấn nạn tin giả.
Tin giả lan truyền nhanh nhất ở bộ phận độc giả thiếu hiểu biết nhưng lại quá nhẹ dạ, cả tin… Do vậy, mỗi người cần đề cao trách nhiệm tự thân, nâng cao trách nhiệm đối với các nội dung được đăng tải, chia sẻ. Có thể ví MXH như cái chợ, ở đó người ta bán đủ thứ thông tin, hình ảnh mà không ai kiểm chứng, kiểm duyệt. Ở đó có cả hàng thật lẫn hàng giả, hàng nhái; lẫn cả hàng tươi ngon với hàng ôi thiu… Mỗi chúng ta hãy trở thành những người “tiêu dùng thông thái” khi tham gia vào chợ thông tin này. Hãy giữ cho mình tác phong thận trọng và luôn mang tâm thế của người hiểu biết, tỉnh táo. Chỉ có như vậy mới tạo ra cho mình một bộ lọc chuẩn trong thời đại "bão" thông tin này.
Chế tài xử phạt nghiêm minh
Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có tự do internet, MXH. Mặt khác, đối với những người vi phạm các quy định của pháp luật trên không gian mạng, đăng phát các thông tin thất thiệt, lừa đảo, xuyên tạc, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân... các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Việt Nam kiên quyết phản đối, đấu tranh với mọi hành vi lợi dụng quyền con người nói chung và quyền tự do internet, MXH nói riêng để chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Ngày 3-2-2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử” thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13-11-2013.
Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định khá cụ thể về hành vi thông tin sai sự thật trên môi trường viễn thông. Nhưng quá trình tổ chức thực hiện có những hạn chế và diễn biến tình hình đã thay đổi, xuất hiện những kẽ hở, mức độ xử phạt chưa đủ sức răn đe... Vì thế mà tình trạng dùng MXH, trang thông tin, tài khoản cá nhân để đăng thông tin sai sự thật chưa giảm, thậm chí có chiều hướng gia tăng.
Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ra đời với 124 điều, đã quy định rõ hơn, chi tiết hơn về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực. Đây được xem là phương thuốc mạnh hơn trong việc phòng, chống những thông tin giả, sai lệch, xấu độc đang lan tràn trên không gian mạng thời gian vừa qua.
Hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, kịp thời điều chỉnh mọi mặt của đời sống. Việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho người dân đang được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng thực hiện. Cùng với đó, trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, điều quan trọng đối với mỗi người dân là phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo trong tiếp nhận và xử lý thông tin. Trong khi thực hiện quyền của mình, mỗi người còn phải tôn trọng quyền và lợi ích của tập thể, cá nhân; luôn đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên hàng đầu, thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật.
Việc Việt Nam ban hành Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thực chất là nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet, tự do MXH của người dân ngày càng tốt hơn; làm cho môi trường mạng của Việt Nam ngày càng trong lành và an toàn hơn, phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luận điệu cho rằng Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP cùng các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam ban hành và thực hiện là "bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...", “vi phạm tự do mạng xã hội”... thực chất là hành vi tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước ta. Việt Nam luôn hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền, tiến bộ, dân chủ và văn minh, trong đó các quyền con người nói chung, quyền tự do internet, tự do MXH nói riêng được tôn trọng và bảo đảm. Đồng thời, Việt Nam kiên quyết vạch trần và đấu tranh không khoan nhượng với những tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề này để vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC QUY TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.


Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XIV (bế mạc vào cuối tuần qua) đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác. Đây là một trong những thành công lớn của kỳ họp lần này, đáp ứng lòng mong mỏi của đông đảo cử tri. Thế nhưng một số ít người có thể vì không hiểu hoặc cố tình không hiểu đã xuyên tạc quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận…
“Góp ý, phê bình về quy trình xây dựng luật” nhưng lại không hiểu luật
Ngày 18-6 vừa qua, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) với 92,96% đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tham gia biểu quyết tán thành. Đây là một trong những dự án luật được đông đảo cử tri quan tâm. Dự án luật này cũng được một số đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta “soi xét” khá kỹ. Những người này từng có những bản “góp ý phê bình về quy trình xây dựng luật ở Việt Nam” đăng tải trên mạng xã hội và một số cơ quan báo chí nước ngoài, trong đó phê bình trực tiếp quy trình xây dựng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật BHVBQPPL.
Có lẽ họ không nhớ vào ngày 22-5-2020, Quốc hội đã thảo luận trực tuyến về dự án Luật BHVBQPPL. Tại cuộc họp này, về cơ bản, các vị ĐBQH đã tán thành với báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và nhiều nội dung của dự thảo luật; đồng thời đóng góp thêm ý kiến về một số điều, khoản cụ thể. Trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật. Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về thời gian cơ quan chủ trì soạn thảo gửi văn bản tới Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và phạm vi, chủ thể, thời hạn thực hiện phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam để bảo đảm tính khả thi. UBTVQH đã báo cáo: Việc phản biện xã hội đối với dự thảo Luật BHVBQPPL đang được thực hiện theo quy định của Luật MTTQ Việt Nam. Dự thảo luật đã tiếp thu, bổ sung quy định về hoạt động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 6. Các vấn đề về thời gian gửi văn bản, phạm vi, chủ thể, thời hạn phản biện xã hội thuộc trình tự, thủ tục thực hiện phản biện xã hội, hiện đang được quy định tại Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN. Do đó, UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của các ĐBQH để chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, quy định rõ trong Nghị quyết liên tịch số 403.
Cũng có ý kiến đề nghị Hội đồng Dân tộc (HDDT), các ủy ban của Quốc hội chỉ nên có ý kiến mà không nên quy định trách nhiệm thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và tham gia thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực phụ trách, UBTVQH cho rằng, theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, HĐDT, ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật thuộc lĩnh vực phụ trách nhằm bảo đảm tất cả nội dung liên quan của dự án luật đều được xem xét để báo cáo Quốc hội, UBTVQH. Tương tự như vậy, trong việc thẩm tra đề nghị xây dựng luật, ngoài trách nhiệm chung của Ủy ban Pháp luật thì rất cần ý kiến thẩm tra chuyên môn sâu của HĐDT, các ủy ban khác của Quốc hội với vai trò là cơ quan phụ trách lĩnh vực. Đây cũng là sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong công tác lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật và đã đạt được những kết quả tích cực. Việc quy định như vậy cũng là nhằm đề cao, làm rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan tham gia trong quy trình xây dựng, ban hành luật như yêu cầu của Ban Bí thư tại Thông báo số 26-TB/TW ngày 19-4-2017.
Như vậy UBTVQH đã tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của các ĐBQH theo hướng mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và toàn dân trong xây dựng các dự án luật, điều này trái với ý kiến của một số người cho rằng Quốc hội áp đặt ý chí của một số ít người trong xây dựng luật. Điều đáng phê phán là có người “góp ý, phê bình về quy trình xây dựng luật ở Việt Nam” nhưng lại không hiểu quy trình xây dựng luật ở Việt Nam.
Thành quả xây dựng pháp luật ở Việt Nam là điều không thể phủ nhận
Lập hiến và lập pháp là một trong những hoạt động quan trọng và đặc trưng nhất của Quốc hội Việt Nam. Chức năng này đã được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Ngoài Hiến pháp năm 1946 quy định nguyên tắc chung “Nghị viện nhân dân đặt ra các pháp luật”, thì cả 4 bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định Quốc hội là cơ quan lập hiến và lập pháp. Qua mỗi bản Hiến pháp, cơ chế thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội được kế thừa, phát triển và ngày càng được làm rõ hơn. Hiến pháp năm 2013 (hiện hành) đã khẳng định, Quốc hội là cơ quan làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật; thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Trên thực tế, quy định này của Hiến pháp được thực hiện khá chặt chẽ, cụ thể theo trình tự như sau: Hàng năm, trên cơ sở đề nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, UBTVQH lập và trình Quốc hội xem xét, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trên cơ sở đó, UBTVQH phân công, chỉ đạo, đôn đốc và giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện chương trình này. HĐDT, các ủy ban của Quốc hội, bên cạnh việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, còn dành nhiều thời gian, công sức cho việc chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, ý kiến của nhân dân, của các cơ quan, tổ chức hữu quan. Để phục vụ cho công tác này, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội đã tham gia ngay từ đầu vào quá trình xây dựng dự án luật. UBTVQH với tư cách là cơ quan chuẩn bị và chủ trì kỳ họp Quốc hội, thường xuyên cho ý kiến đối với các dự án luật, pháp lệnh. Giữa hai kỳ họp, các đoàn ĐBQH đã tổ chức các hội nghị để trao đổi, thảo luận và lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan. Ý kiến của ĐBQH là cơ sở quan trọng mang tính quyết định trong việc hoạch định chính sách, chỉnh lý và hoàn thiện từng nội dung của dự án luật. Theo trình tự này, Quốc hội đã nắm trọn quyền lập pháp, vì thế ý kiến một số người cho rằng Quốc hội chỉ là cơ quan thông qua luật là không có cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực tế cho thấy, nếu so sánh giữa dự án luật trình Quốc hội với các dự án luật đã được các cơ quan của Quốc hội thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện và Quốc hội thông qua thì chất lượng được nâng cao đáng kể, phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhất là về các chính sách, cả về mặt nội dung cũng như hình thức văn bản. Quy trình xây dựng luật của Việt Nam cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo quy trình này, pháp luật đã ban hành giúp chúng ta đã thu được nhiều thành quả mà các thế lực thù địch dù có cố tình xuyên tạc nhưng cũng không thể phủ nhận.
Tại Kỳ họp thứ chín mới đây, Quốc hội đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác. Các dự án luật, nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua và cho ý kiến tại Kỳ họp thứ chín đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, tiếp tục thể chế hóa Hiến pháp, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; tổ chức bộ máy; quan hệ lao động; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường công tác nội luật hóa các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, tiến trình hội nhập quốc tế.
Tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Có thể nói hệ thống pháp luật Việt Nam kể từ thời điểm đổi mới đất nước năm 1986 đến nay đã phát triển không ngừng và còn phải tiếp tục hoàn thiện. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHVBQPPL mà Quốc hội vừa thông qua sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Theo đó, cơ quan trình dự án luật được quyền bảo vệ quan điểm của mình trong toàn bộ quá trình soạn thảo và trình thông qua dự án luật. Còn cơ quan thẩm tra, dù đó là các ủy ban của Quốc hội hay UBTVQH thì phải làm đúng chức năng của cơ quan thẩm tra, giúp Quốc hội xem xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội không thông qua một dự án luật là điều hoàn toàn có thể xảy ra nhưng không nên làm thay và tước đi quyền của cơ quan soạn thảo dự án luật.
Luật BHVBQPPL năm 1996 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2002 đã quy định hồ sơ dự án luật trình Quốc hội phải có dự thảo văn bản quy định chi tiết. Luật BHVBQPPL năm 2008 đã bỏ quy định này. Tuy nhiên, năm 2013, qua giám sát tối cao việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, Quốc hội thấy rằng tình trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết có xu hướng gia tăng, dẫn đến luật chậm được triển khai thực hiện. Do đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 67/2013/QH13 yêu cầu trong hồ sơ dự án luật phải trình kèm theo dự thảo văn bản quy định chi tiết. Quy định này tiếp tục được thể hiện trong Luật BHVBQPPL sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, UBTVQH đã đề nghị cơ quan trình, cơ quan soạn thảo thời gian tới cần quan tâm hơn nữa việc chuẩn bị dự thảo văn bản quy định chi tiết nhằm bảo đảm chất lượng văn bản, tránh hình thức, lãng phí.
Để xử lý tình trạng còn xảy ra một số mâu thuẫn, chồng chéo trong quy định giữa các luật do ngay từ giai đoạn tổng kết, đánh giá, xây dựng dự thảo văn bản mới, các cơ quan liên quan chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc rà soát, phát hiện và xử lý kịp thời các nội dung có quy định khác nhau trong các văn bản luật ban hành trước, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung vào Luật sửa đổi bổ sung Luật BHVBQPPL quy định hồ sơ dự án luật gửi thẩm định, thẩm tra, trình Quốc hội phải có báo cáo về rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự án, dự thảo; đồng thời bổ sung vào Khoản 2, Điều 12 quy định “trường hợp văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Pháp luật của Việt Nam đã có những quy định rất cụ thể bảo đảm cho mọi công dân được tiếp cận thông tin đa dạng, nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản hồi ý kiến của người dân công khai minh bạch; trường hợp tiếp thu ý kiến thì cụ thể ý kiến về nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ tại sao không tiếp thu. Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của người dân trong xây dựng pháp luật, mặt khác, những ý kiến góp ý từ người dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Không thể xuyên tạc thành quả và quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam.


“DÂN SỰ HÓA QUÂN ĐỘI” - MỐI NGUY HẠI KHÔN LƯỜNG


Gần đây, trên mạng xã hội, diễn đàn truyền thông và thậm chí ở một số nghị trường, cụm từ “dân sự hóa quân đội”, “dân sự hóa hoạt động quân sự” xuất hiện, gây ra không ít tranh luận đa chiều. Đáng lo ngại là việc nhận thức về nội hàm, bản chất của cụm từ này chưa đầy đủ, thậm chí còn sai lệch nghiêm trọng-được xem là dấu hiệu ban đầu nhưng khá rõ nét của biểu hiện “tự diễn biến” trong chính một bộ phận cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí, chức năng và đặc thù hoạt động của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.
1. Trước hết, đó là những “hiến kế” phiến diện về việc cân đối lại ngân sách quốc gia, theo hướng giảm tỷ lệ GDP đầu tư cho hoạt động quân sự và sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các ý kiến này cho rằng, nên “dân sự hóa quân đội” theo “lối” phát huy đơn thuần các nguồn lực xã hội để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh mà không nên tập trung đầu tư xây dựng “đội quân chủ lực”, gây ảnh hưởng đến nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế.
Đây thực chất là cách nhìn thiển cận, phiến diện, chưa thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Hơn nữa, đặt trong mối quan hệ giữa “xây dựng” và “bảo vệ” Tổ quốc, thì yếu tố bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định là điều kiện cơ bản, tiên quyết để đất nước ổn định, phát triển về kinh tế và các lĩnh vực khác. Như vậy, nếu không đầu tư chăm lo, xây dựng quân đội thì cũng đồng nghĩa với việc xem nhẹ, hạ thấp nhiệm vụ BVTQ.
Với chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ, việc sử dụng ngân sách nhà nước cho hai nhiệm vụ này được Đảng, Nhà nước nghiên cứu, tính toán rất kỹ lưỡng, làm sao để bảo đảm trong điều kiện cụ thể có thể hoàn thành tốt hai nhiệm vụ chiến lược. Trên thực tế, do những khó khăn khách quan của tài chính quốc gia, việc đầu tư xây dựng quân đội vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu tiến nhanh lên chính quy, hiện đại của quân đội. Trong khi đó, với chủ trương chủ động phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, QĐND Việt Nam luôn sử dụng nguồn kinh phí hiệu quả nhất cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Từ năm 1998 đến nay, Nhà nước đã nhiều lần công bố “Sách trắng về quốc phòng Việt Nam”. Đây là căn cứ quan trọng để nâng cao hiểu biết về quốc phòng đất nước cho công dân Việt Nam, góp phần làm cho mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ hơn quyền lợi, trách nhiệm trong tham gia công cuộc củng cố quốc phòng, vì sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
Một biểu hiện “tự diễn biến” nghiêm trọng nữa là không ít cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận thức hời hợt, chưa đầy đủ về tính chất, yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới; chưa thấy rõ diễn biến phức tạp, mau lẹ của tình hình thế giới, khu vực, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nguy hại cả tiềm tàng lẫn trực tiếp đến nhiệm vụ BVTQ. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt BVTQ rất cần những đầu tư tương xứng, giúp có đủ tiềm lực, thực lực và sức mạnh bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó; nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Ở đây, cần hiểu rất đúng, đủ về chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và đặt nhiệm vụ xây dựng quân đội-“công cụ bạo lực” bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ và nhân dân trong mối quan hệ tổng thể xây dựng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong các LLVT, xét về chiến lược cũng phải từng bước được đầu tư để hiện đại hóa, chính quy hóa, nhưng trước tiên và trên hết phải đặc biệt ưu tiên xây dựng QĐND Việt Nam trong mối quan hệ với các bộ phận, lực lượng khác của nền QPTD.
Một đội quân với chức năng là công cụ bạo lực phải nhất thiết được xây dựng theo hướng tinh nhuệ, hiện đại; có đủ năng lực xử lý các tình huống phức tạp. Đó là lý do vì sao Trung ương, Quân ủy Trung ương luôn nhất quán xây dựng quân đội “cách mạng”, nhưng đồng thời chú trọng xây dựng tiến lên “chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Nghị quyết Trung ương khóa XI, XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X đều xác định phải đẩy nhanh tiến độ, chất lượng từng bước tiến lên hiện đại, ưu tiên xây dựng một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đó là mục tiêu khách quan, là đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp BVTQ. Do đó, việc tập trung quan tâm, đầu tư nguồn lực cho xây dựng quân đội là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân và sự nghiệp cách mạng.
Như vậy, những nhận thức nêu trên là hoàn toàn sai lệch, gây nhiều nguy hại trong nhận thức và hành động. Đó là một cách đánh mất, hạ thấp chức năng, nhiệm vụ của quân đội, mà trước hết là chức năng đội quân chiến đấu. Không thể đánh đồng khái niệm “dân sự hóa quân đội” với chủ trương phát huy sức dân trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Đây là "hướng tư duy" có nguyên nhân do sự thiếu hiểu biết của một số cán bộ, đảng viên, nhưng thường bị các thế lực thù địch tận dụng, khai thác triệt để; dùng nhiều ngón đòn và các chiêu thức khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau-khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức và trực diện chống phá, khi thì như “người trong cuộc” thể hiện “thiện chí”, “tâm huyết” đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, cố gắng “khuyên nhủ” phải đẩy nhanh “dân sự hóa quân đội”.
2. Từ việc không nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của QĐND Việt Nam, một số ý kiến đưa ra lập luận, so sánh mức lương của sĩ quan quân đội và các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực quân sự với thu nhập của cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói chung. Đáng buồn là từ những ý kiến chưa toàn diện ấy, một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin nên đã “a dua”, “cổ xúy”, “thêu dệt”… thông qua các trang mạng xã hội và tin đồn xã hội, tạo nên những luồng thông tin khó phân biệt đúng sai, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tâm lý xã hội.
Nguyên nhân của hiện tượng này trước hết bắt đầu từ việc chưa hiểu đúng về tính chất, đặc thù hoạt động quân sự gắn với tình hình đất nước và yêu cầu BVTQ ngày càng cao. Phản ứng lại ý kiến này, ngay trên nghị trường Quốc hội, nhiều đại biểu đã phân tích rõ đặc thù hoạt động 24/24 giờ của cán bộ, chiến sĩ quân đội; với tính chất, cường độ ác liệt, khó khăn, thử thách con người trên nhiều phương diện; đòi hỏi sự đánh đổi không chỉ bằng mồ hôi mà còn bằng máu của cán bộ, chiến sĩ. Các ý kiến đều thống nhất cho rằng, lương của sĩ quan quân đội chỉ là nguồn thu nhập duy nhất và mức lương ấy cũng còn quá thấp so với lương sĩ quan quân đội các nước trên thế giới, chỉ bảo đảm mức sống trung bình so với đời sống xã hội Việt Nam hiện tại.
Như vậy, vấn đề ở đây là vì không thấy hết tính chất hoạt động quân sự mà sinh ra "phủ nhận” vai trò và đóng góp của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm, trách nhiệm của những người đang trực tiếp thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Thực tế cho thấy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, dù trong điều kiện thời bình nhưng vẫn có không ít cán bộ, chiến sĩ quân đội anh dũng hy sinh vì chủ quyền Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, trở thành những tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng giai đoạn mới, được xã hội và quần chúng tôn vinh, trân quý.
Trong dịp này, Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ X vừa diễn ra thành công tốt đẹp. Tại đây, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội vinh danh hàng trăm điển hình tiên tiến-những tập thể, cá nhân ngày đêm cần mẫn hy sinh cho lợi ích quốc gia, dân tộc, BVTQ, phục vụ nhân dân. Đó là hình ảnh những con người hành quân vào vùng bão lũ cứu dân; đi ngược dòng người “tránh” đại dịch Covid-19, đến với biên cương chốt chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Đó là những cán bộ, chiến sĩ chắc tay súng, ngày đêm bảo vệ vùng biển, vùng trời; những người phải chịu thương tật, thậm chí hy sinh khi đấu tranh với tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân và nền hòa bình cho đất nước, khu vực.
Như vậy, “đánh đồng” tính chất hoạt động quân sự với hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, công chức trên lĩnh vực dân sự là một cách tư duy hoàn toàn không đúng với thực tế, cần phải được khắc phục triệt để. Thay vào đó, cần phải thống nhất nhận thức từ Trung ương đến địa phương, từ cán bộ đến quần chúng về đặc thù hoạt động quân sự; cần thấu hiểu, chia sẻ và sớm có thêm những chủ trương, giải pháp mới, đồng bộ, cùng với những hành động thiết thực của toàn xã hội nhằm giúp đỡ, hỗ trợ tốt hơn cho cán bộ, chiến sĩ đang thực hiện nhiệm vụ BVTQ; kịp thời động viên, quan tâm hơn nữa đến tư tưởng, tình cảm, đời sống vật chất của cán bộ, chiến sĩ.
3. Các biểu hiện tư tưởng, tư duy, nhận thức nêu trên, khi vừa nghe qua, có thể giản đơn nhận định đây chỉ là những biểu hiện đơn lẻ, vô hại, nhưng xét về thực chất, nhận diện một cách sâu sắc, có thể khẳng định: Đây là một khuynh hướng sai lệch nghiêm trọng trong nhận thức và tư duy, mang lại nhiều hệ lụy và hậu quả to lớn, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội; tác động trực tiếp đến kết quả xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; chi phối nghiêm trọng đến công cuộc xây dựng nền QPTD và tiềm lực sức mạnh quân sự đủ mạnh đáp ứng yêu cầu BVTQ trong tình hình mới.
Để đẩy lùi các biểu hiện nêu trên, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp cần chú trọng giáo dục, tuyên truyền uốn nắn, chỉnh sửa kịp thời những nhận thức lệch lạc; quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng quân đội; kiên quyết khắc phục các hiện tượng thụ động, hoặc chỉ hô hào chung chung mà trên thực tế không đấu tranh với những lập luận “dân sự hóa quân đội” như thời gian qua. Cần vạch rõ bản chất phản khoa học và tính chất nguy hiểm, cùng những tác hại của những quan điểm nêu trên. Cần tổ chức lực lượng đấu tranh, tranh luận, đối chất, chất vấn với những cán bộ, đảng viên, quần chúng có cách suy nghĩ thiển cận; nâng cao tính Đảng, tính chiến đấu, tính khoa học, sự nhạy bén và sắc sảo trong kết hợp đấu tranh phòng, chống các xu hướng “dân sự hóa quân đội” với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính hàng ngũ cán bộ, đảng viên.
Cùng với đó, các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng, nhất là lực lượng ở các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường quân đội chú trọng tổ chức nghiên cứu đồng bộ, toàn diện về vấn đề “dân sự hóa quân đội” một cách khách quan, toàn diện. Có thể phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền trong đội ngũ, coi trọng chia sẻ tài liệu, tri thức trên các diễn đàn truyền thông, báo chí và thậm chí là ở diễn đàn nghị trường chính thức, kết hợp với phát huy tuyên truyền miệng và các hình thức tuyên truyền khác. Cần có chính sách rõ ràng, phù hợp, hợp lý cả về vật chất và tinh thần, có cơ chế xuất bản, phát hành rộng rãi những sản phẩm đấu tranh tư tưởng, lý luận, phòng, chống xu hướng này; sớm công khai, công bố rộng rãi, góp phần thống nhất nhận thức, tư duy chính thống.
Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ dân trí, tạo ra sự “miễn dịch” trong cộng đồng, tăng sức “đề kháng” để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các luồng tư tưởng, tư duy sai lệch về tính chất đặc thù hoạt động quân sự; về vai trò, vị trí, chức năng của QĐND Việt Nam; tin tưởng sâu sắc vào truyền thống, bản chất của QĐND Việt Nam anh hùng và phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới. Làm được như vậy thì dù các thế lực thù địch có chống phá quyết liệt; âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội có thâm độc và tinh vi như thế nào chăng nữa, dù những nguy cơ và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có phức tạp, chi phối tiêu cực thì cũng sẽ bị vô hiệu hóa.

Những kẻ “dân chủ cuội” tiếp tục tuyên truyền chống phá Đại hội XIII của Đảng


Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, các thế lực thù địch càng gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá với nhiều thủ đoạn tinh vi. Hoạt động của chúng không còn thực hiện đơn lẻ mà được tiến hành ồ ạt, với việc huy động cùng lúc nhiều lực lượng, phương tiện, tuyên truyền tập trung về một chủ đề thống nhất trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, cần nhận diện, vạch mặt bonj chúng để chủ động đề ra các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn.
Có thể thấy, các hoạt động tuyên truyền chống phá của chúng có những dấu hiệu đặc trưng như sau:
Một là, chủ thể khởi xướng các hoạt động chống phá chủ yếu là các trung tâm, tổ chức thù địch Việt Nam ở nước ngoài như: Các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong (“Việt Tân”, “Đảng Dân chủ nhân dân”, “Đảng Vì dân”; các trung tâm truyền thông nước ngoài (Đài BBC tiếng Việt, VOA tiếng Việt, RFA tiếng Việt…); các tổ chức quốc tế, NGO nước ngoài (“Theo dõi Nhân quyền thế giới - HRW”, “Phóng viên không biên giới - RSF”…). Ngoài ra còn có, các hoạt động chống phá Đại hội XIII của Đảng còn được tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt với sự phối kết hợp của nhiều lực lượng thù địch cả trong và ngoài nước, nhất là số dân biểu cực hữu trong chính giới các nước Mỹ, phương Tây; số đối tượng chống đối chính trị trong nước.
Hai là, nội dung tuyên truyền được hướng theo một chủ đề thống nhất, như: Tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; tuyên truyền chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013; tuyên truyền chống phá cương lĩnh, dự thảo các văn kiện Đại hội; tuyên truyền xuyên tạc nguyên tắc tổ chức, vấn đề nhân sự Đại hội XIII... Đồng thời, kêu gọi sửa đổi “toàn diện” văn kiện, đường lối chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò “độc tôn” của Đảng; thay đổi hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước; xây dựng nền kinh tế đa sở hữu bắt đầu từ năm 2021. Có thể thấy rõ ý đồ này qua các bài viết: “Vài suy nghĩ trước thềm Đại hội XIII”, “Việt Nam: Liệu Đại hội Đảng XIII sẽ có khác biệt?”, “Các nhóm thân hữu và tắc nghẽn thể chế đang gây hại cho Việt Nam”, “Góp ý chuẩn bị Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Về Đảng cầm quyền”, “Bản kiến nghị về Đại hội XIII”…vv.
Ba là, các hoạt động chống phá được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định, với nhiều lực lượng, phương tiện tham gia. Chống phá Đại hội Đảng XIII chủ yếu được tiến hành vào thời điểm trước và trong khi diễn ra Đại hội XIII của Đảng. Đặc biệt, ngay trước thời điểm diễn ra Đại hội, các hoạt động chống phá này sẽ được gia tăng về cấp độ, tính chất và quy mô, sau đó sẽ giảm dần và kết thúc khi Đại hội Đảng XIII của Đảng kết thúc.
Bốn là, các chiến dịch tuyên truyền chống phá Đại hội XIII của Đảng thường trải qua 3 giai đoạn là “giai đoạn chuẩn bị”, “giai đoạn tiến hành” và “giai đoạn kết thúc” dạng như các “chiến dịch” với các quy mô và cấp độ khác nhau.
Năm là, mục đích trực tiếp của cáchoạt động này để chống phá Đại hội XIII của Đảng là nhằm phá hoại công tác chuẩn bị Đại hội, phá hoại công tác nhân sự; phá hoại các dự thảo văn kiện; gây mâu thuẫn, chia rẽ, nghi kỵ, mất đoàn kết nội bộ Đảng; làm suy giảm niềm tin của các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên với Đảng, Nhà nước và chế độ; làm cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII không diễn ra theo kế hoạch hoặc không đạt được các mục đích, yêu cầu đề ra.
Bên cạnh đó, chúng còn hướng tới những mục tiêu khác như: Xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng; gây nhiễu loạn thông tin; gây mâu thuẫn, chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ; kích động các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước.
Từ nay đến khi diễn ra Đại hội XIII của Đảng, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị, bất mãn sẽ càng đẩy mạnh thực hiện các hoạt động tuyên truyền chống phá. Đặc biệt, chúng sẽ triệt để khai thác các ứng dụng, dịch vụ, tiện ích trên không gian mạng để tán phát “đơn thư”, “kiến nghị”, “thư ngỏ”, “đơn tố cáo”, qua đó gây áp lực hoặc hạ uy tín, tạo luồng dư luận xấu về lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và chủ động đấu tranh, ngăn chặn các “chiến dịch tuyên truyền” này.

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2020

ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG “TỰ DIỄN BIÊN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG


Hiện nay, "tự diễn biến", tự chuyển hóa trong cán bộ, đảng viên đang diễn biến hết sức phức tạp, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, tham nhũng... cùng với một số cán bộ, đảng viên do bất đồng ý kiến, do ảnh hưởng của những quan điểm, khuynh hướng của nước ngoài đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hoặc bị các thế lực thù địch mua chuộc, lôi kéo dẫn đến xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có hành động chống lại nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng Đảng xác định: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ư­ơng (Khóa XI) về Chiến l­ược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới tiếp tục khẳng định: “Những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có xu hướng công khai nghiêm trọng hơn”.
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trọng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) tiếp tục khẳng định tư tưởng chỉ đạo của Đảng: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng”.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm cách đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, đẩy mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường sử dụng các biện pháp “tấn công mềm”, tập trung làm chuyển biến về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kích động, chia rẽ, đòi “phi chính trị hóa Quân đội”; hạ thấp, phủ nhận vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời điểm hiện nay, chúng ta đang tổ chức đại hội đảng các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt hơn, với nhiều hình thức mới, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Những diễn biến của thế giới, khu vực và trong nước đã và đang đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta có thêm những thuận lợi, thời cơ trong giữ vững hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Đây chính là thời điểm tốt cho chúng ta phát huy lợi thế, tính ưu việt của chế độ, sự thông minh, tính năng động, sáng tạo, khát vọng vươn lên của con người, dân tộc Việt Nam để đi tắt, đón đầu, huy động cao độ nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.


Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, một trong những thủ đoạn hết sức thâm hiểm của chúng là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, nhằm tha hóa nhận thức của cán bộ, từ đó dẫn đến những thay đổi về đường lối, chính sách - những biểu hiện của chuyển hóa chế độ (xã hội chủ nghĩa) XHCN ở nước ta sang một quỹ đạo khác. Đặc biệt là, trong thời điểm hiện nay, khi tổ chức đảng các cấp đang tiến hành đại hội để tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII thì việc chống phá càng ráo riết. Các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn sử dụng đủ mọi chiêu trò, kể cả những việc có tính xảo trá như: Dựng chuyện, làm giả công văn giấy tờ, gửi đơn nặc danh tới các cơ quan công quyền để khiếu nại, tố cáo... Tất cả những hành động ấy là nhằm mục đích gây chia rẽ nội bộ, làm cho cán bộ, đảng viên nghi kỵ lẫn nhau, đảng viên phai nhạt niềm tin, quần chúng thiếu tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền
Vì vậy, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải kịp thời phát hiện và triệt tiêu các mầm mống, khả năng gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị: Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị trên các khía cạnh như: phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi Đảng phải từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phê phán lịch sử cách mạng Việt Nam một cách thiếu khách quan; đòi xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, kêu gọi thay bằng chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN); xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: Biểu hiện đó là sự phủ nhận đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay; hạ thấp, đi đến làm mất vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN; đòi tư nhân hóa nền kinh tế, xóa bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu để thay thế bằng chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN...
Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống: Biểu hiện của quá trình này ở việc sùng bái, chạy theo văn hóa, lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc; thương mại hóa các hoạt động văn hóa một cách thái quá, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, sống xa hoa, xa rời quần chúng...
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Chúng đưa ra mọi luận điệu nào là “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với quốc gia, dân tộc, với nhân dân, chứ không phải trung thành với một đảng chính trị nào”; “Lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”. Chúng còn đưa ra những yêu cầu, kiến nghị có vẻ khách quan, khoa học, cho rằng: “Lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “… phải đứng ngoài chính trị”; đòi bỏ quy định “lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” được ghi trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta…
Nhận rõ tính chất nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” .Vì vậy, chúng ta cần làm tốt việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trước hết chú trọng vào một số biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phải luôn giữ vững bên trong đi đôi với chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn biến", “tự chuyển hóa”. Giữ vững bên trong là giữ vững ổn định chính trị, xã hội; kiên định mục tiêu, lý tưởng XHCN; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc... Đồng thời, chủ động đấu tranh vạch rõ âm mưu, thủ đoạn hiểm độc của các thế lực thù địch tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta ở mọi nơi, mọi lúc.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy "xây" làm cơ sở quyết định để “chống”. Trước hết, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải tập trung xây dựng, củng cố hệ thống chính trị luôn trong sạch, vững mạnh để  bảo đảm sự “miễn dịch” trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Phát hiện kịp thời các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ khi còn ở dạng mầm mống, khả năng để làm cơ sở đấu tranh, phê phán, ngăn chặn hữu hiệu. Đồng thời, đấu tranh kiên quyết và triệt để với tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, coi đó như một thứ giặc "nội xâm”, không khác gì cuộc đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thứ ba, phải coi trọng công tác tổ chức, cán bộ kết hợp với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cần làm tốt công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chủ trì các cấp trong hệ thống chính trị, không để các thế lực thù địch lợi dụng để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Vì thế, phải coi trọng gắn kết chặt chẽ công tác tổ chức, cán bộ với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên về bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ lý luận cách mạng, năng lực công tác, trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, để mỗi người không dao động tư tưởng trước những tình huống khó khăn, phức tạp.
Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn nham hiểm để hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Song, mọi mưu đồ của chúng có thực hiện được hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào chính chúng ta. Vì vậy, cần khẳng định, khi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam luôn nhận rõ mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay; đồng thời, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng luôn vững niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự quản lý của Nhà nước, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, thì sẽ góp phần phòng ngừa, đẩy lùi được nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
TMT.07.7

NHẬN DIỆN PHƯƠNG THỨC XUYÊN TẠC VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Dân chủ, nhân quyền là giá trị thiêng liêng mà toàn nhân loại hướng tới. Thế nhưng, đây cũng là chủ đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch được sự hậu thuẫn của phương Tây luôn tìm cách lợi dụng nhằm thực hiện những động cơ, mưu đồ đen tối đối với Việt Nam
Những phương thức cụ thể mà các thế lực thù địch, phản động vẫn thường sử dụng là: lợi dụng danh nghĩa dân chủ, nhân quyền để rồi tiến hành thực hiện các “đòn” chiến tranh tâm lý, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội và những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân để lôi kéo, kích động gây bất ổn ở cơ sở; tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân thông qua những chiêu trò như “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; thực hiện hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia hội, nhóm, diễn đàn, hội thảo,…; kích động những người bất mãn với chế độ; xuyên tạc lịch sử; lợi dụng một số sai phạm của cá nhân cán bộ, đảng viên để “đánh đồng”, “quy thành bản chất”, bôi nhọ , nói xấu cấp ủy, chính quyền các cấp...
Bên cạnh đó, chúng còn thường xuyên đăng tải và phát tán trên mạng Internet những  thông tin sai trái, dựng chuyện hoặc “có ít xít ra nhiều” một số vấn đề xã hội; “tận dụng triệt để” những bức xúc trong đời sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để “thổi phồng”… nhằm tạo sự hoài nghi trong xã hội, làm giảm sút ý chí, từng bước hạ thấp rồi làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Những luận điệu “phán xét” về Việt Nam như “thiếu nền dân chủ”, “vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”… thực chất chỉ là cái cớ để các tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị “lồng ghép” vào đó những nội dung tuyên truyền sai lệch nhằm kích động những phần tử bất mãn, phản động chống đối Đảng, Nhà nước ta, tiến tới phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Chúng ta hiểu rằng, chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chỉ là một trong những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã và đang áp dụng hòng mong muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những thủ đoạn ấy tuy không có gì mới nhưng rất nguy hiểm nên cần có sự nhận thức đúng và tích cực đấu tranh phên phán./.

ĐẤU TRANH VỚI CHIÊU BÀI “DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN” CỦA CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG


Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” và chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chống phá cách mạng Việt Nam là một nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách vừa thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị.
Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”. Đây thực sự là cuộc đấu tranh “một mất, một còn” giữa ta và các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Theo đó, với phương châm chỉ đạo công tác lý luận, tư tưởng phải đi trước, đón đầu; không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá; các lực lượng, cơ quan chức năng phải không ngừng nâng cao nhận thức, kỹ năng, xây dựng kế hoạch chiến lược, sách lược, tổ chức lực lượng… một cách bài bản, khoa học trọng quá trình đấu tranh, phản bác. “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng,…”.
Cùng với đấu tranh “trực diện” với các thế lực thù địch, phản động, cả hệ thống chính trị phải không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Với thực tiễn hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cùng với nhân dân kiến tạo nên nhiều thành tựu rực rỡ, trong đó có những giá trị, thành quả về dân chủ, nhân quyền.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; phát huy bản chất nhân văn của chế độ; củng cố, hoàn thiện nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nâng cao vai trò chính phủ kiến tạo vì dân; không ngừng cải cách pháp luật, cải cách hành chính để bảo vệ, tạo cơ hội và quyền lợi cho người dân; quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng; phát huy dân chủ, tăng cường các thể chế quốc gia bảo vệ dân chủ, nhân quyền... đã và đang là những tiêu chí, thước đo quan trọng về giá trị, ý nghĩa của dân chủ, nhân quyền không thể phủ nhận ở Việt Nam hiện nay./.

Một số thông tin về sử dụng MXH


        Việt Nam chính thức kết nối với xa lộ thông tin của thế giới vào ngày 19-11-1997. Sau hơn 20 năm phát triển, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong các quốc gia có tỷ lệ người dùng internet cao nhất châu Á, đứng thứ 12/20 quốc gia dẫn đầu thế giới về số người dùng internet.
Internet và mạng xã hội (MXH) ở Việt Nam đã trở thành công cụ vô cùng quen thuộc, là “một phần tất yếu” trong cuộc sống của người dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế nhưng, vừa qua trên một vài trang mạng vẫn xuất hiện những giọng điệu cho rằng: Việt Nam vi phạm tự do internet, tự do MXH.
Bức tranh sinh động
          Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet nói chung và MXH nói riêng. Điều này đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được biểu hiện sinh động trên thực tế.
         Ngoài các báo điện tử, các trang tin, thông qua MXH (Facebook, YouTube, Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng MXH để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân…
         Hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, Luật An ninh mạng (ANM), sau một năm có hiệu lực đã dần đi vào cuộc sống, mang lại những hiệu quả rất rõ nét, thiết thực trong đời sống xã hội. Trước, trong và sau khi luật ra đời, không ít thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc Việt Nam ban hành Luật ANM là "vi phạm quyền con người, bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...".             Thực tế, sau một năm thực thi đã chứng minh Luật ANM hoàn toàn không vi phạm quyền con người, không bóp nghẹt tự do ngôn luận, mà ngược lại đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân vẫn được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, tự do ngôn luận hoàn toàn không bị hạn chế nếu chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo môi trường lành mạnh, an toàn. Nhiều thông tin, bài viết, video clip ảnh hưởng tiêu cực đến chuẩn mực, đạo đức xã hội đã được ngăn chặn, xử lý; đời tư cá nhân được bảo vệ; hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng được bảo đảm; các đối tượng tung tin sai lệch, nhất là về dịch Covid-19 gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch đã bị xử lý.

Tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin trên mạng


            Quan điểm về internet, MXH và tham gia MXH của một số người chưa đúng, chưa đầy đủ. Không ít người dùng nghĩ rằng tự do internet, tự do MXH là vô hạn, không thấy rõ sự gắn bó giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia MXH. Do cách nhìn thiên về mặt trái của MXH nên vẫn có người nhìn nhận MXH với thái độ thành kiến. Đi kèm với tốc độ phát triển mạnh mẽ của internet, MXH, Việt Nam cũng là quốc gia có nguy cơ xảy ra các hành vi phạm pháp từ MXH.
              Đặc biệt, tình trạng tin giả, lừa đảo, xuyên tạc, bịa đặt qua MXH là một trong những vấn đề nhức nhối nổi lên thời gian qua. Nguyên nhân của tình trạng này do đâu? Phân tích chúng ta thấy dư luận phản ứng rất mạnh mẽ trước những vấn đề thuộc giá trị đạo đức truyền thống hoặc các vấn đề nóng, vấn đề có tính thời sự cao trong đời sống xã hội. Lợi dụng yếu tố tâm lý này, nhiều người đã tạo ra các tin giả, tin lừa đảo, tin bóp méo, xuyên tạc sự thật với động cơ và mục đích cá nhân. Vì mục đích kinh tế mà một bộ phận bán hàng online cố tình tạo ra tin giả và lan truyền tin giả nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng vào trang MXH của mình.
           Sự bùng phát của tin giả, tin xuyên tạc cũng một phần do chính những người tiếp cận thông tin, những người tham gia MXH. Do nhận thức hạn chế, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết nên không ít người không biết thông tin mình tiếp cận là đúng hay sai, có cơ sở khoa học hay không, tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội như thế nào nên đã đăng tải, chia sẻ, bình luận một cách tùy tiện, vô trách nhiệm...Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng mang danh “thực hiện quyền tự do ngôn luận” thông qua MXH để “bày tỏ quan điểm cá nhân” nhưng thực chất là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và đã bị xử lý trước pháp luật. Sau mỗi trường hợp bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động lại lu loa rằng “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do internet”... Cần khẳng định rõ rằng giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là bao che, dung túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật và sâu xa là chống phá Việt Nam. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do MXH là nhiệm vụ của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng cũng như các quyền cơ bản khác, quyền tự do MXH chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào mục đích đúng đắn và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Mọi hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm pháp luật thì không chỉ có Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải xử lý nghiêm minh.
Để đối phó với nạn tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy rõ tính nguy hại của vấn đề; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân, nhất là người tham gia MXH cần tỉnh táo trong tiếp cận thông tin để tránh bị lợi dụng tiếp tay cho kẻ xấu, đồng thời tích cực đấu tranh với vấn nạn tin giả.
           Tin giả lan truyền nhanh nhất ở bộ phận độc giả thiếu hiểu biết nhưng lại quá nhẹ dạ, cả tin… Do vậy, mỗi người cần đề cao trách nhiệm tự thân, nâng cao trách nhiệm đối với các nội dung được đăng tải, chia sẻ. Có thể ví MXH như cái chợ, ở đó người ta bán đủ thứ thông tin, hình ảnh mà không ai kiểm chứng, kiểm duyệt. Ở đó có cả hàng thật lẫn hàng giả, hàng nhái; lẫn cả hàng tươi ngon với hàng ôi thiu… Mỗi chúng ta hãy trở thành những người “tiêu dùng thông thái” khi tham gia vào chợ thông tin này. Hãy giữ cho mình tác phong thận trọng và luôn mang tâm thế của người hiểu biết, tỉnh táo. Chỉ có như vậy mới tạo ra cho mình một bộ lọc chuẩn trong thời đại "bão" thông tin này.