Thứ nhất, các tin đồn, tin giả sai lệch,
thiếu cơ sở khoa học, không được kiểm chứng, không được trích dẫn nguồn. Trong
khi đó, không ít người dân chỉ có thói quen tiếp nhận thông tin mà hầu như
không có năng lực sàng lọc thông tin.
Thứ hai, sự bùng phát đại dịch COVID-19 là
một dấu hiệu cho thấy, thế giới càng phát triển càng có sự bất định về mặt xã
hội. Bởi vì, khi đại dịch COVID-19 xuất hiện thì hiểu biết của giới chuyên môn
còn chưa chắc chắn, trong khi người dân lại có nhu cầu quan tâm rất cao. Sự bất
cân xứng đó tạo nên một khoảng không lý tưởng cho tin đồn, tin giả cũng như các
hành vi sai lệch xuất hiện. Thực tế là, do tính chất nghiêm trọng của đại dịch
nên ngay cả khi thông tin chính thống đáp ứng được nhu cầu thì người dân vẫn
sẵn sàng đón nhận bất cứ nguồn tin nào mà họ có thể có trong cuộc sống hằng
ngày.
Thứ ba, không ít tài khoản mạng xã hội có
nhiều người theo dõi đã lợi dụng những thông tin về đại dịch COVID-19 để “nuôi”
sức hút cho tài khoản của mình. Họ liên tục cập nhật những thông tin liên quan
đến đại dịch COVID-19, trong đó có những thông tin chưa kiểm chứng, thông tin
sai, trích dẫn những con số hay dự báo thiếu căn cứ chuyên môn...
Từ thực tế trên có thể rút ra, khi đối đầu với nguy cơ dịch
bệnh, cần có sự bình tĩnh để tiếp nhận những thông tin và dữ liệu từ cơ quan có
thẩm quyền, ngay cả khi nó trái ý muốn, ngoài mong đợi. Để có thể giảm sự xuất
hiện và phát tán những tin giả, thông tin sai lệch, rất cần ý thức trách nhiệm
xã hội và năng lực xử lý, sàng lọc thông tin của mỗi người dân khi tham gia
truyền thông xã hội. Đặc biệt, đối với những người có tầm ảnh hưởng, đây chính
là thời điểm họ thể hiện trách nhiệm công dân trên môi trường mạng xã hội. Bên
cạnh đó, các cơ quan chức năng, báo chí cần đẩy mạnh quá trình truyền thông về
dịch bệnh, minh bạch, đầy đủ, cập nhật do các cơ quan có thẩm quyền cung cấp,
như Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và
Truyền thông...
Thứ tư, thành công và hệ quả xã hội của biện pháp giãn cách xã
hội
Giãn cách xã hội là việc thiết lập khoảng cách vật lý giữa hai
hoặc nhiều người để ngăn chặn, phòng ngừa sự lây lan của vi-rút Cô-rô-na. Nhiều
nước đã thực hiện các biện pháp khác nhau để giãn cách xã hội, như quy định
khoảng cách tối thiểu giữa hai người khi ra đường, cấm tập trung đông người,
đóng cửa trường học và các khu vực công cộng, các hình thức sản xuất, kinh
doanh, phong tỏa, buộc người dân ở nhà… Việc Chính phủ Việt Nam áp dụng biện
pháp giãn cách xã hội là một hành động chính trị - xã hội mạnh mẽ và kịp thời,
một giải pháp vô cùng cần thiết và hiệu quả trong phòng, chống đại dịch
COVID-19. Trong bối cảnh đất nước đang có xu hướng già hóa dân số, tỷ lệ hộ gia
đình có nhiều thế hệ chung sống khá cao, với nhiều thói quen trong giao tiếp,
sinh hoạt mang tính cộng đồng… sẽ dẫn đến nguy cơ gia tăng mức độ lây nhiễm.
Điều may mắn là, trong quá trình thực hiện giãn cách xã hội, chúng ta cũng có
nhiều yếu tố thuận lợi, như ứng dụng công nghệ thông tin nhanh chóng và phổ
quát, do đó thực hiện giãn cách xã hội không có nghĩa là ngừng mọi liên lạc,
kết nối giữa các cá nhân và nhóm với nhau. Công nghệ thông tin đã giúp cho các
cá nhân, nhóm xã hội thỏa mãn được nhu cầu sinh hoạt, thư giãn, đồng thời có
thể sử dụng thời gian cách ly, giãn cách xã hội để học tập, làm việc, tạo dựng
các giá trị và hành động có ý nghĩa…
Tuy nhiên, từ góc nhìn xã hội học, chúng ta cũng phải nhận thức
đầy đủ để có hành động phù hợp nhằm giảm thiểu những hệ quả xã hội không mong
muốn do việc thực hiện biện pháp giãn cách xã hội, nhất là trên diện rộng và
kéo dài trong nhiều ngày. Đó không chỉ là những tác động liên quan đến hoạt
động kinh tế, tài chính… mà còn là vấn đề an sinh xã hội, sức khỏe tâm lý và
tinh thần của người dân trong và sau thực hiện giãn cách xã hội (sự căng thẳng,
lo lắng, sợ hãi, hoảng loạn, có hành vi mất kiểm soát…); các vấn đề xã hội (tội
phạm, ly hôn, nạn bạo hành gia đình, lạm dụng đồ uống có cồn, bất bình đẳng
giới trong gia đình; bất bình đẳng xã hội giữa các giai tầng xã hội, nhất là
đối với nhóm xã hội yếu thế…) có thể gia tăng.
Ngày 29-5-2020, Hãng hàng
không quốc gia Việt Nam và các cơ quan chức năng Đài Loan (Trung Quốc) đã phối
hợp thực hiện chuyến bay chở hơn 340 công dân Việt Nam (là những trường hợp có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị mắc kẹt do đại dịch COVID-19) từ Đài Loan
(Trung Quốc) về nước_ Ảnh: TTXVN
Vì vậy, trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội, cần tăng
cường vai trò, sự tiếp cận của thiết chế truyền thông đến các hộ gia đình, nhóm
xã hội nhằm bảo đảm kết nối xã hội trong thời gian giãn cách xã hội vì dịch
bệnh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ in-tơ-nét, truyền hình,
mạng di động… cũng cần có các chính sách và giải pháp phù hợp để góp phần thực
hiện giãn cách xã hội hiệu quả và bền vững; mọi người dân cần nuôi dưỡng ý thức
trách nhiệm xã hội. Đó sẽ là liều “vắc-xin thứ 2” trong khi chúng ta chờ đợi
các nhà khoa học tìm ra vắc-xin chống lại vi-rút Cô-rô-na.
Thứ năm, năng lực thích nghi của con
người là một vấn đề cấp thiết trong quá trình phát triển ở Việt Nam
Dưới lăng kính tiếp cận xã hội học, xã hội càng phát triển, hiện
đại thì nhu cầu về an toàn ngày càng được đề cao. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19
lại cho thấy những rủi ro về sức khỏe, tính mạng là khó lường mà khoa học chưa
theo kịp. Đại dịch này có tốc độ lây lan mạnh nhất và gây tử vong cao nhất
trong vòng 100 năm qua, và không loại trừ bất kỳ quốc gia, dân tộc, cộng đồng,
nhóm xã hội và cá nhân nào. Điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lý về một
“xã hội rủi ro”, tức là các xã hội ngày càng có nhiều rủi ro trong quá trình
phát triển (cách dùng từ của nhà xã hội học người Đức U-rích Bếch (Ulrich
Beck).
Thứ sáu, vai trò của truyền thông xã hội
Truyền thông xã hội đang đóng một vai trò không thể thay thế
trong việc lan tỏa hiệu ứng thông tin kịp thời đến các nhóm xã hội khác nhau.
Các mạng xã hội đang chung tay với cơ quan quản lý nhà nước cập nhật thông tin
rõ nguồn gốc, từ cơ quan chức năng, góp phần đẩy lùi tin giả. Chúng ta đã và
đang chứng kiến những chiến dịch truyền thông xã hội kêu gọi ủng hộ các y, bác
sĩ, lực lượng vũ trang trên tuyến đầu chống dịch…, đã chứng minh khía cạnh tích
cực của những nền tảng trực tuyến trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19.
Không chỉ là kênh cung cấp thông tin, truyền thông xã hội còn được sử dụng để
lan truyền những thông điệp ý nghĩa đến cộng đồng hay lên án những hành vi sai
trái trong quá trình phòng, chống đại dịch COVID-19. Tại Việt Nam cho thấy, hệ
thống báo chí chính thống, Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch COVID-19
của Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông… đã sử dụng truyền thông
xã hội như một công cụ đắc lực để truyền tải các thông điệp cần thiết về phòng,
chống dịch COVID-19 trong toàn xã hội. Bên cạnh đó, các mạng xã hội như
Facebook, Twitter, YouTube… đã tích cực kiểm soát thông tin sai trái, xóa bỏ
tin bịa đặt, dán nhãn tin khả nghi, treo/ngưng các tài khoản chuyên tung tin
thất thiệt, và dùng thuật toán để giúp người dùng tăng tiếp xúc với các nguồn
tin đáng tin cậy.
Như vậy, truyền thông xã hội đang đóng một vai trò tích cực
không thể phủ nhận, song để kiểm soát khía cạnh tiêu cực, phát huy mặt tích cực
của truyền thông xã hội, hơn lúc nào hết, báo chí chính thống cần phát huy vai
trò định hướng và làm chủ “dòng chảy” thông tin trên mạng xã hội, thực sự trở
thành người dẫn dắt và hướng dẫn dư luận xã hội.
Thứ bảy, ứng phó với đại dịch COVID-19 là
một tình huống xã hội đặc biệt
Mặc dù là tình huống xã hội đặc biệt, chưa từng xảy ra, nhưng
với sự nhạy bén, tính chủ động cao trên cơ sở phân tích tình hình thực tế, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg yêu cầu quyết liệt thực hiện
đợt cao điểm phòng, chống dịch COVID-19 với các biện pháp: “Giãn cách xã hội;
đi từng ngõ, gõ từng nhà để rà soát, sàng lọc, phát hiện sớm, quản lý chặt chẽ
các trường hợp nghi ngờ, khoanh vùng, dập dịch”. Chỉ thị số 16/CT-TTg là một
quyết định chính trị đúng đắn ứng phó với một tình huống khẩn cấp về dịch bệnh
và đã bảo đảm được mục tiêu cốt lõi là kiểm soát và từng bước khống chế, chặn
đứng kịp thời khả năng bùng phát trên diện rộng dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam.
Đứng trước tình huống xã hội đặc biệt này, biện pháp quan trọng
và khẩn cấp nhất là phải huy động sự vào cuộc đồng bộ, thống nhất của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội, tất cả người dân để đối phó với đại dịch
COVID-19. Các cơ quan chức năng cần đồng thời thực hiện tốt hai biện pháp là:
kiên trì tuyên truyền, vận động, đề cao tính tự giác, trách nhiệm của mỗi cá
nhân; đồng thời, áp dụng các chế tài hình phạt nghiêm minh, kịp thời.
