Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm)
được bảo lãnh “xuất khẩu miễn phí”. Cầm tấm thẻ xanh trên tay một thời gian, Quỳnh
vừa mừng vừa lo. Mừng vì chỉ sau 2 năm ăn cơm tù đã đạt được mục đích sang Mỹ;
lo vì nhận ra rằng mức sống ở nơi đây cao hơn rất nhiều so với ở Việt Nam, việc
sinh tồn tại nơi đây là một vấn đề khó khăn. Mặc dù được chính phủ Mỹ tài trợ 6
tháng tiền trợ cấp (mức trợ cấp dành cho người thất nghiệp là 5.000 USD/năm)
nhưng số tiền đó chỉ đủ để trả tiền thuê nhà, ăn uống, học nghề, chưa kể mẹ
già, con thơ.
Việc trang trải cuộc sống cho bản thân
còn chưa xong, liệu Quỳnh có dám nghĩ việc ăn chơi, kiếm tiền từ nước ngoài một
cách dễ dàng khi còn ở Việt Nam?
Con đường phạm pháp do họ chọn và chính
họ chấp nhận rời bỏ quê hương, phản bội lại Tổ quốc, đi ngược lại với lợi ích của
nhân dân. Đến khi nhận ra bị chính những tổ chức phản động lợi dụng “vắt chanh,
bỏ vỏ”, sức tàn lực kiệt, hối cải, nghĩ đường về quê hương thì mọi thứ đã muộn.
Đây cũng là bài học cho những kẻ trong nước lựa chọn con đường phản bội lại đất
nước, dân tộc, tiếp tay cho các tổ chức thù địch, phản động, nuôi mộng định cư ở
nước ngoài hay “đổi đời”.
Đó là một phong trào xuất hiện ở nước Mỹ vào
đầu năm 2011. Tên của phong trào này nói lên rằng một phần trăm (1%) dân số Mỹ
giàu có sở hữu tài sản quốc gia bằng số tài sản của chín mươi chín phần trăm
(99%) dân số. Phong trào này khi đó cũng đã lan sang nhiều nước tư bản chủ
nghĩa, song chẳng đem lại thắng lợi cho đa số dân chúng.
Thế là, 99% thất bại trước 1%; 1% vẫn là kẻ
quyết định vận mệnh của 99%; cuối cùng 99% vẫn phải phục tùng 1%. Tại sao lại
như vậy?
Rất đơn giản, vì tất cả quyền lực đều nằm
trong tay con số 1%. Thể chế chính trị; cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp;
quân đội và cảnh sát; tài nguyên quốc gia… đều bị đặt dưới quyền quyết định và
chi phối bởi con số 1%.
Nền dân chủ mà chính phủ các nước theo công
thức 1/99 thường rao giảng, tưởng rằng người dân nước đó được hưởng nhiều
“quyền” nhưng điều kiện để thực hiện các quyền dân chủ đó lại không có. Chính
vì vậy mà trong một thể chế dân chủ tư bản không thể giải quyết được tình trạng
bất bình đẳng xã hội, giữa người giàu với người nghèo, giữa tầng lớp cầm quyền
và dân chúng, giữa các sắc dân trong một nước.
Bây giờ ta nói về tài nguyên của quốc gia.
Những thứ này của nước Mỹ do những ai nắm giữ? Không phải trong tay của con số
99% đâu ạ. Điển hình, nước Mỹ có mấy ông vua đích thực – John D. Rockefeller,
vua dầu lửa; Andrew Carnergie, vua sắt thép; Cornelius Vanderbilt, vua đường
sắt; J. P. Morgan, vua ngân hàng; Henry Ford, vua xe hơi và còn nhiều vua nữa.
Tất cả là trong tay tư nhân, chứ chẳng có gì do nhà nước (thay mặt nhân dân)
quản lý và khai thác.
Tỷ như quyền bầu cử. Rất dân chủ, tất cả những
người có quyền công dân đều được đi bầu tổng thống “của mình”. Nhưng, có những
trường hợp bà ứng viên nọ dành được đa số phiếu phổ thông, nhưng ông kia lại
dành được đa số phiếu “đại cử tri”, thế là bà nọ rớt! Cuối cùng cái phiếu phổ
thông ấy có tác dụng gì?
Quyền ứng cử? Xin mời! Ai cũng có quyền, song
nếu như bạn hội đủ hai điều kiện – Tiền và được giới tài phiệt ủng hộ.
Trước hết nói về tiền. Bạn có giàu bằng ông
Thượng nghị sĩ Bernie Sanders không? Ông ấy có tiền và có thể sẽ có nhiều người
đóng góp vào quỹ tranh cử của ông ấy. Nhưng ông ấy đã thất bại trong các cuộc
bầu cử năm 2016 và 2020. Tại sao? Tại vì ông ấy thiếu yếu tố thứ hai – không
phục vụ cho các nhà tài phiệt. Những nhà tài phiệt không thích khi ông ấy đòi
phải có sự bình đẳng trong thu nhập; phải có hệ thống y tế phổ quát; người dân
phải thực sự có quyền tự do dân sự (dân chủ và nhân quyền); chống phân biệt
chủng tộc; chống đạo luật Ái quốc (giám sát người dân); chống chiến tranh ở
Iraq…
Cứ như những gì ông ấy đòi thì hóa ra nước Mỹ
đã là một nước XHCN mất rồi. Giới tài phiệt đâu có chịu.
Khi đảng Dân chủ của ông Obama ra đạo luật
kiểm soát súng đạn làm cho Hiệp hội súng trường Mỹ (NRA) tức tối. Thế là NRA
chi ngay chục triệu USD vào quỹ tranh cử của ứng viên Donald Trump. Khi ông này
trúng cử, thế là cái đạo luật kia bị bóp cổ cho chết!
Chắc chắn có bạn sẽ hỏi, nếu vậy thì tại sao
dân Mỹ lại sướng thế? Sướng hay khổ là sự so sánh tương đối. Sướng so với ai và
khổ so với ai. Cái đó tùy bạn./.
Gần đây trên mạng xã hội tiếp tục
có các bài viết khẳng định: “Việt Nam vẫn
không có tự do Internet” với những nhận định, đánh giá vô căn cứ, không có
cơ sở.
Những ngày gần đây, lợi dụng việc Nga tiến hành “chiến dịch
quân sự đặc biệt”, với Ukraina; Trương Nhân Tuấn đăng bài “xét lại chính sách
quốc phòng “bốn không” của Việt Nam” trên trang Baotiengdan.com, công kích, xuyên tạc chính sách quốc phòng “bốn
không” của Việt Nam. Toàn bộ những nội dung mà hắn đưa ra trong bài viết đều là
luận điệu của một kẻ phản động, phản bội Tổ quốc và nhân nhân.
Năm nào cũng vậy, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 30/4, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ chiến thắng vĩ đại này của dân tộc Việt Nam. Tất cả đều muốn quy chụp 30/4 là một cuộc chiến phi nghĩa do Đảng cộng sản phát động, nhưng lịch sử chỉ có một, sự thật không thể thay đổi ý nghĩa của Chiến thắng 30/4/1975 không vì những lời bóp méo ấy mà bị phủ nhận.
N
hững ngày này, trên một số web, blog, tài khoản mạng xã hội cá nhân, những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị lại điên cuồng bày ra các chiêu trò để bóp méo giá trị, ý nghĩa lịch sử của chiến thắng 30/4/1975. Chúng ra sức nhào nặn những clip xưa cũ, cắt gọt sự thật để cố tạo ra những bài viết dối trá tung lên mạng xã hội. Chúng còn trắng trợn xuyên tạc “Chiến thắng Mùa Xuân năm 1975” thành “cuộc chiến tranh xâm lược của miền Bắc với miền Nam”, láo xược đòi đổi ngày chiến thắng, ngày thống nhất đất nước là “ngày quốc hận”; cho rằng tháng 4 lịch sử là “tháng tư đen”… Một số kẻ còn lớn tiếng cho là, nếu không có ngày 30-4-1975 thì miền Nam Việt Nam ngày nay phát triển không hề thua kém Hàn Quốc, vượt xa Thái Lan, Singapore (vì Sài Gòn đã từng là “Hòn ngọc Viễn Đông”). Rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta thực chất chỉ là “nội chiến”, “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền Nam - Bắc, nên không có gì đáng tự hào! Họ còn nói rằng cuộc chiến tranh này “không có kẻ thua, người thắng, mà chỉ nhân dân là chịu thiệt thòi”; rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta là “hoàn toàn vô nghĩa, lẽ ra dân tộc Việt Nam đã có thể tránh được cuộc chiến tranh này”. Họ còn lớn tiếng cho rằng, chiến thắng 30-4-1975 và sự nghiệp kháng chiến của dân tộc ta ròng rã mấy thập kỷ là cái giá phải trả quá đắt, là một sai lầm, làm cho dân tộc đau thương, chậm phát triển, trách nhiệm ấy họ quy cho Đảng ta, cho con đường mà Hồ Chí Minh lựa chọn… Đấy là những luận điệu phi lịch sử, muốn phủ nhận chiến thắng của nhân dân ta, phủ nhận cả lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà chúng ta đã lựa chọn, kiên trì theo đuổi, qua đó chúng phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phủ nhận sạch trơn mọi sự hy sinh của thế hệ cha ông để đất nước có được hòa bình, độc lập, thống nhất, hội nhập và phát triển như hôm nay.
Lịch sử đã được viết bằng máu
Suốt hơn bốn thập kỷ qua, các thế hệ người Việt Nam và nhân loại tiến bộ ngày càng cảm nhận sâu sắc hơn trên mọi phương diện về ý nghĩa to lớn, giá trị lịch sử và thời đại của Đại thắng mùa Xuân 1975; ngày càng thấm thía hơn về những mất mát, hy sinh mà nhân dân ta, dân tộc ta đã phải trả để có được chiến thắng và càng thêm tự hào về Đảng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về dân tộc, nhân dân và Quân đội anh hùng. Nhân dân thế giới hết lời ca ngợi chiến thắng của nhân dân ta, coi đó là thắng lợi vĩ đại của “chính nghĩa, lòng nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng”; là chiến thắng của “chủ nghĩa anh hùng vô song; là chiến thắng tạo nên dư chấn rung động địa cầu”. Đồng thời, cũng nhấn mạnh về “ảnh hưởng to lớn đến khu vực trên thế giới trong tương lai”; “gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế về một dân tộc không chịu khuất phục trước quân thù”; chứng minh “thời mà các nước lớn dùng sức mạnh để bóp nghẹt chủ nghĩa dân tộc đã chấm dứt”. Thắng lợi đó chứng tỏ không một sức mạnh nào có thể “khuất phục được một dân tộc anh hùng”; đó là thắng lợi “mãi mãi ghi vào sử sách”, v.v. Ngày 30-4-1975, lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc đã gửi điện chúc mừng nhân dân ta: “Thắng lợi của nhân dân Việt Nam một lần nữa chứng minh hùng hồn rằng, nhân dân một nước, dù là nhân dân một nước nhỏ, miễn là dám vùng dậy đấu tranh, dám cầm vũ khí, lấy chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa, thì nhất định có thể đánh bại bất cứ kẻ thù nào”. Chính người Mỹ cũng đã phải ghi nhận sự thật lịch sử và đánh giá cao sức mạnh vô địch của nhân dân Việt Nam
Lịch sử là thước đo của chân lý và bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, vậy mà vẫn còn có những luận điệu lạc lõng vẫn đang cố tình phủ nhận đi giá trị của lịch sử với động cơ, mục đích đen tối, định kiến thù địch. Tìm cách đổi trắng thay đen giữa kẻ đi xâm lược đã từng gây tội án cho dân tộc với những người đã không tiếc máu xương hy sinh vì hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ngày 30/4 hàng năm là một dấu mốc lịch sử quan trọng gợi nhớ lại những trang sử hào hùng, những kỷ niệm chất chứa đầy tự hào.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng mỗi người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng cần mãi ghi nhớ rằng: Hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, nhân dân Việt Nam luôn thiết tha với hòa bình, khát vọng tự do và hạnh phúc, không bao giờ muốn chiến tranh. Nhưng, vì sinh mệnh và sự tồn vong của dân tộc mà “kẻ thù buộc ta ôm cây súng”. Và Đại thắng mùa Xuân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975 là một thắng lợi của chính nghĩa, một thắng lợi không thể đảo ngược. Để có được thắng lợi đó phải đổi bằng sự đau thương, mất mát của cả dân tộc suốt 21 năm chiến tranh chưa đủ sao? Vì thế, ai đó xuyên tạc lịch sử, phủ nhận ý nghĩa, tầm vóc Ngày chiến thắng 30-4-1975 thì đó là những hành vi phản bội, có tội với đất nước, chà đạp lên tương lai dân tộc, nhất quyết phải bị trừng trị thích đáng. Dù khép lại quá khứ nhưng không được quên quá khứ, càng không thể phủ nhận và phỉ báng lịch sử.
“Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thường nói rằng, đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế hôm nay là cả một chặng đường dài bao nhiêu thế hệ hy sinh. Vị thế, uy tín của Việt Nam nếu không có sự hy sinh của các thế hệ cha anh và sự kiện vang dội của cuộc chiến ngày 30-4 thì không có hôm nay, không có Việt Nam như ngày hôm nay”
Không chủ quan lơi lỏng
Những luận điệu trên không có gì là lạ, chỉ có điều cứ đến những dịp nhân dân ta kỷ niệm Chiến thắng, thì sự chống đối, xuyên tạc đó lại dồn dập hơn. Trong những ngày này, với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu”, họ tiếp tục ra rả những luận điệu chống phá, xuyên tạc với những chiêu thức mới, được tung lên các phương tiện thông tin, truyền thông, đặc biệt là trên các trang mạng xã hội. Các thế lực thù địch bên ngoài liên kết với các đối tượng cơ hội chính trị, chống đối ở trong nước, “kẻ tung, người hứng”, “hợp lực” mạnh mẽ, ra sức truyên truyền chống phá. Những ngôn từ “yêu nước”, “vì dân, vì nước”, “tâm huyết”, “tôn trọng sự thật lịch sử”, “tôn trọng khách quan”,... được họ sử dụng thường xuyên hơn, nhằm làm tăng tính thuyết phục cho những luận điệu chống đối và để đánh lừa những người nhẹ dạ, cả tin trong chúng ta, tác động mạnh mẽ, tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm, thái độ của nhân dân ta. Sự xuyên tạc đó, dễ làm cho một số người trong các tầng lớp nhân dân ta mất cảnh giác, rơi vào ngộ nhận, hiểu sai lệch về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và niềm tự hào chính đáng vào Đại thắng mùa Xuân 1975.
Tuy là cứ đến hẹn lại lên với những luận điệu cũ rích của các thế lực phản động nhưng chúng ta cũng không được phép chủ quan lơi lỏng. Giành được đã khó giữ được còn khó hơn gấp nhiều lần, mỗi tấc đất, mỗi giá trị độc lập, tự do, hạnh phúc đều đã được đánh đổi bằng máu. Mỗi người dân Việt Nam cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và ý thức công dân trước nhưng bài viết, thông tin sai lệch bôi nhọ lịch sử dân tộc. Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra đối với mỗi người dân Việt Nam hiện nay là: phát huy mạnh mẽ tinh thần và khí thế hào hùng của Đại thắng mùa Xuân 1975 vào công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo ./.
- 541. 933 lính viễn chinh Mỹ và 70.000 quân của 5 nước chư hầu Mỹ đã tham chiến trong cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa tại Việt Nam.
- 849.018 anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ bảo vệ tổ quốc vĩnh viễn nằm lại ở 10.000 nghĩa trang liệt sĩ trên khắp cả nước, Lào và Campuchia. Nhiều Liệt sỹ hy sinh đến nay vẫn chưa xác định được tên tuổi, quê quán, vẫn chưa tìm thấy mộ.
- 15,4 triệu tấn bom đạn Mỹ và đồng minh đã dội xuống Việt Nam gấp 6 lần tổng số bom đạn mà tất cả các nước sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ 2; tương đương sức nổ của khoảng 600 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật Bản năm 1945. Việt Nam là quốc gia bị Mỹ ném bom nhiều nhất thế giới.
- 839 tỷ USD mà Mỹ đã đổ vào cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa ở Việt Nam.
- 75.000.000 lít chất độc hoá học chủ yếu là chất độc da cam mà Mỹ đã huỷ diệt môi trường sống của Việt Nam khiến 5 triệu người Việt Nam và hàng trăm ngàn người Mỹ đến nay vẫn quằn quại vì chất độc hoá học này.
- 05 năm là khoảng thời gian Việt Nam đàm phán với Mỹ để ký Hiệp định PARI, chấm dứt chiến tranh, một hiệp định có thời gian đàm phán dài nhất thế giới.
- Trước khi ký hiệp định, Mỹ thực hiện dã tâm đưa Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá; dùng pháo đài bay B52 rải thảm, huỷ diệt Miền Bắc, đây là cuộc tập kích bằng đường không lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới, số bom Mỹ thả trong 12 ngày đêm xuống Hà Nội, Hải Phòng bằng 5 quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống Nhật Bản năm 1945.
- Để có được chiến thắng 30/4/1975, Việt Nam đã chiến đấu quả cảm trong cuộc chiến 10.000 ngày. Lần đầu tiên trên thế giới, một dân tộc nhỏ bé đã đánh bại Đế quốc Mỹ một tên đầu sỏ hiếu chiến và hùng mạnh nhất thế giới.
47 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước là dấu son chói lọi, niềm tự hào muôn đời của mỗi người con đất Việt. Chúng ta không được phép lãng quên lịch sử và không được phép vô ơn với xương máu của các thế hệ cha ông mình đã đổ xuống để chúng ta có ngày hôm nay. Dù đứng ở góc độ nào đi nữa cũng không thể phủ nhận một cuộc chiến tranh thần thánh, chính nghĩa của dân tộc Việt Nam đã ghi vào lịch sử thế giới một trang sử vàng chói lọi nhất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí thống nhất, độc lập, tự chủ và khát vọng của một dân tộc yêu chuộng hoà bình, biểu tượng của hòa bình; cổ vũ các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới tiến lên đánh bại chủ nghĩa đế quốc, thực dân cũ và mới dành độc lập, tự do./.
Kết luận 21-KL/TW yêu cầu đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, kiên quyết xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Sáng 9/12, Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo hình thức trực tuyến.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu chỉ đạo hội nghị.
Tại hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai đã trình bày nội dung quán triệt Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa"; Kế hoạch số 03-KH/TW thực hiện Kết luận 21-KL/TW; Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm.
Triển khai quyết liệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Theo Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai, qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, một trong những bài học kinh nghiệm quý báu hàng đầu được nhấn mạnh trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng. Đó là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Bài học về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là bài học kinh nghiệm xuyên suốt của Đảng từ khi thành lập đến nay, nhất là trong công cuộc đổi mới của Đảng.
Từ năm 1990 đến nay, cùng với việc thực hiện công tác xây dựng Đảng trong các nghị quyết Đại hội Đảng từ khóa VII đến khóa XIII, Đảng đã ban hành các văn bản quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Mỗi nghị quyết, Đảng đều tiến hành sơ kết, tổng kết, đánh giá mặt được, hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, xây dựng và ban hành nghị quyết mới với quyết tâm chính trị cao hơn, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, yêu cầu cao hơn đối với cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; phù hợp với tình hình mới.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng nhận định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong nhiệm kỳ XII được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt, trên các mặt xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, phòng, chống tham nhũng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Kết quả này khẳng định vai trò lãnh đạo, đường lối đúng đắn, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; khắc phục nhiều mặt hạn chế, yếu kém nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; bước đầu ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ; niềm tin của Nhân dân đối với Đảng được củng cố và tăng cường; góp phần quan trọng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đối ngoại, nâng cao đời sống nhân dân.
Nâng cao sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
Theo đồng chí Trương Thị Mai, Kết luận 21-KL/TW tiếp tục nhấn mạnh những mặt đạt được trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII. Đó là lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt, thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm của các cấp ủy, tổ chức đảng; triển khai nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ.
Cùng với đó, nhận thức, trách nhiệm cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên được nâng lên; nhận diện sâu sắc, đầy đủ hơn các biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến," "tự chuyển hóa," đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; kết hợp hài hoà giữa xây và chống; xử lý kịp thời, nghiêm minh, khách quan cán bộ, đảng viên vi phạm; tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đồng thời, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sự ủng hộ của Nhân dân; góp phần nâng cao chất lượng tổ chức đảng, đảng viên; thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Theo Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai, đến nay, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra từ năm 1994, tại Đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VI vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn (vẫn tụt hậu xa về kinh tế, vẫn đối mặt với nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng và tệ quan liêu, "diễn biến hòa bình").
Do đó, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Kết luận 21-KL/TW yêu cầu cần đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa."
Trưởng ban Tổ chức Trung ương cũng nêu những điểm mới trong Kết luận 21-KL/TW như: Mở rộng phạm vi, không chỉ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh mà còn bao gồm cả xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Cùng với ngăn chặn, đẩy lùi, phải chủ động tiến công mạnh mẽ, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm suy thoái, tiêu cực, "tự diễn biến," "tự chuyển hóa," là bước đột phá mới, cấp độ cao hơn, cường độ và mức độ quyết liệt hơn, thái độ xử lý nghiêm khắc hơn; kết hợp hài hòa giữa "xây" và "chống"; yêu cầu cao về đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi, "lợi ích nhóm," quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân.
Đồng chí Trương Thị Mai khẳng định Kết luận 21-KL/TW là quyết tâm chính trị cao, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị nhằm xây dựng Đảng toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng.
Nghị quyết Đại hội XIII yêu cầu trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức bộ máy, tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Trên cơ sở đó, những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được nêu trong Kết luận số 21-KL/TW. Đó là tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Cũng theo đồng chí Trương Thị Mai, nhận thức sâu sắc tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong tình hình hiện nay, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm chính trị, tinh thần tự giác, gương mẫu của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên trong thực hiện Kết luận, tạo bước chuyển biến rõ rệt, hiệu quả, thiết thực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 03-KH/TW thực hiện Kết luận 21-KL/TW, trong đó nêu nhiệm vụ cụ thể tới từng cơ quan, tổ chức.
Nâng cao trách nhiệm nêu gương của đảng viên
Tại Hội nghị, nêu nội dung liên quan đến Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm kế thừa, bổ sung một số nội dung của Quy định số 47- QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm trước đó, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai cho biết nội dung từng điều trong Quy định 37-NQ/TW thể hiện quan điểm kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn hành vi, hiện tượng, biểu hiện suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, tha hóa... quyết tâm xây dựng đội ngũ đảng viên bản lĩnh, trong sạch, tiên phong, gương mẫu, xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản, người lãnh đạo và đầy tớ trung thành của Nhân dân, của dân tộc.
Tại Quy định 37-NQ/TW, một số điều đã được sửa đổi, bổ sung mới. Điển hình là tại Điều 3, một nội dung đã được bổ sung mới. Đó là "phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; "tư duy nhiệm kỳ," đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng."
Điều 5 là Điều 3 cũ đã bổ sung một số nội dung; cụ thể là "viết bài hoặc cung cấp tài liệu cho người khác viết, nói, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, bài nói, phỏng vấn, hồi ký, phim, ảnh không đúng quy định." Một số nội dung cũng được phát triển, mở rộng để phù hợp với tình hình hiện nay.
Đồng chí Trương Thị Mai nhấn mạnh Quy định 37-NQ/TW là văn bản quan trọng để đảng viên nhìn nhận, soi xét lại mình, tự sửa mình trong công tác, cuộc sống, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận 21-KL/TW về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống, trách nhiệm nêu gương của đảng viên, chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt hơn, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh./.
Thực tiễn cho thấy nhân dân ta đang ngày càng phấn khởi trước việc Đảng và Nhà nước quyết liệt hơn với công tác phòng, chống tham nhũng. Công tác phòng, chống tham nhũng cũng ngày càng được chứng minh là “không có vùng cấm”.
Tham nhũng chỉ là một trong những biểu hiện suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái này, ngày 30/10/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảngđã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đây là một trong những Nghị quyết quan trọng của Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Tranh minh họa (nguồn Tạp chí Tuyên giáo).
Quá trình triển khai thực hiện hơn 5 năm qua, thực tiễn cho thấy Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, thực sự đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”.
Bên cạnh đó, “năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch...”.
Không khó khăn để chúng ta nhận ra các nguyên nhân chủ yếu để dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm nêu trên là do một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Có trường hợp nhận diện rõ nhưng chưa quyết tâm và chưa có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh; còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, thậm chí không dám đấu tranh vì lợi ích nhóm, lợi ích vật chất; thờ ơ; vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân.
Khi không nhận diện đầy đủ về tình hình và mức độ của suy thoái, hay biết mà không quyết tâm để phòng chống thì khó có hành động đúng đắn. Do vậy, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Trung ương Đảng về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đã yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận, tri thức khoa học để không ngừng hoàn thiện phương pháp, tác phong tư duy, làm việc khoa học thiết thực; cùng với đó là phải đề cao ý thức dân chủ, phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội; mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể.
Công cuộc đấu tranh phòng, chống sự suy thoái đang thực sự đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nhìn nhận rõ hơn về trách nhiệm của mình với Đảng, với nhân dân và với đất nước.
Hy vọng rằng Bộ Công an sẽ sớm công bố kết quả điều tra hoạt động của CLB “Tình Người”, thuộc Công ty TNHH Phát triển trí tuệ cộng đồng, có địa chỉ trụ sở tại tầng 3 - tòa nhà số 68 đường Dương Ðình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội để người dân được biết rõ trắng đen
Sau khi báo chí thông tin và các nạn nhân lên tiếng về các hoạt động mê tín dị đoan, có biểu hiện trục lợi và có dấu hiệu vi phạm pháp luật của Câu lạc bộ (CLB) “Tình Người”, thuộc Công ty TNHH Phát triển trí tuệ cộng đồng, có địa chỉ trụ sở tại tầng 3 - tòa nhà số 68 đường Dương Ðình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Bộ Công an đã chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ vào cuộc điều tra hoạt động của CLB này không chỉ ở Hà Nội mà còn ở các địa phương khác trên cả nước.
Nếu đúng như thông tin báo chí đã phản ánh thì những gì CLB này tuyên truyền là hết sức sai trái, có ảnh hưởng nghiêm trọng tới trật tự an toàn xã hội.
CLB Tình Người: "Hành lễ hay hành xác", "Đa cấp tâm linh, tà đạo trá hình", "Dẫn dắt con người vào mê tín, núp bóng từ thiện để lừa đảo"… là những lời phản đối gay gắt lan tràn trên các mặt báo và trên mạng xã hội.
CLB “Tình Người” thành lập từ tháng 7-2019 tại Hà Nội. Ðến nay đã mở rộng địa bàn hoạt động ra nhiều địa phương, trong đó có các cơ sở tại TP Hồ Chí Minh, Quảng Trị, Hà Giang với hàng chục nghìn lượt người tham gia. Núp bóng các hoạt động thiện nguyện và những khẩu hiệu "cho đi là còn mãi", "lan tỏa trí tuệ tới cộng đồng", "làm phúc giúp đời" được nêu trong tôn chỉ, mục đích hoạt động.
Việc quyên góp cũng chỉ được làm âm thầm, bí mật, không được tiết lộ cho gia đình, người thân. Liên quan đến những đơn thư trình bày của các thành viên về việc họ đã nộp vào CLB rất nhiều tiền để cúng dường, làm từ thiện, mua đồ thờ… nhưng đều không có hóa đơn, chỉ có phiếu thu... Đáng chú ý, trong số này không ít người là các chủ doanh nghiệp, trí thức, có địa vị trong xã hội.Những người tham gia tại đây sẽ được yêu cầu đi "gieo duyên" cho người thân, bạn bè nhằm mở rộng quy mô của CLB. Từ đây, các thành viên được chỉ dẫn phải bỏ tiền làm từ thiện để "giải nghiệp", hoặc chi tiền để "mua hộ", "đặt hộ" những bộ đồ thờ bằng đồng được quảng cáo là có tính thiêng đặc biệt, với giá tiền đắt gấp nhiều lần so với ngoài thị trường.
Ðáng lo ngại là, trong một thời gian dài, CLB “Tình Người” đã lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng để tổ chức lôi kéo rất nhiều người tham gia hoạt động mê tín dị đoan theo mô hình "đa cấp tâm linh", có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản, hoạt động rầm rộ với hàng nghìn thành viên.
Chúng ta đã có quá nhiều bài học nhãn tiền, chỉ vì niềm tin mù quáng mà không ít người bỏ bê việc học hành, công việc, từ bỏ gia đình, nộp tiền "phí sinh hoạt", "hội phí" và 10% thu nhập để được tham gia vào những tổ chức núp bóng tôn giáo, như: Thanh Hải vô thượng sư, Pháp luân công, Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ, Hội Thánh Đức Chúa Trời Cha… đã khiến bao gia đình tan nát. Vậy mà vẫn không ít người mê muội, tin đến mức mất cả lý trí, đem cả gia sản của mình dâng vào tay những tổ chức, những kẻ lừa đảo này.
Điểm chung của các tổ chức này là hoạt động tâm linh như một mô hình kinh doanh đa cấp và lôi kéo rất nhiều người sa chân vào cái bẫy của tín ngưỡng và đức tin, tham gia lễ bái thông qua hoạt động thiện nguyện, mà thực tế là truyền bá tư tưởng mê tín dị đoan. Hình thức chủ yếu là đe dọa, làm cho người ta sợ hãi để từ đó tác động vào tâm lý... dùng các luận điệu phải "trả duyên", "trả nghiệp" buộc người theo phải cầu, cúng để thu những khoản tiền lớn lên đến hàng chục, hàng trăm triệu đồng. Hoạt động đa cấp tâm linh thời gian gần đây khiến những kẻ xấu có thể lôi kéo rất nhiều người sa chân vào cái bẫy của tín ngưỡng và đức tin, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.
Mỗi con người cần có đức tin. Một xã hội lại càng cần có đức tin. Niềm tin, đức tin đưa con người đến thành công. Lịch sử dân tộc ta là một dẫn chứng sinh động nhất cho sức mạnh của niềm tin, của đức tin đã đưa đất nước, dân tộc ta vượt qua mọi chông gai, thử thách, đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Nhưng, một đức tin đưa con người đến chỗ thành công quyết không phải là một thứ mê tín, tín ngưỡng mù quáng sẽ làm cho trí óc lười biếng, ỷ lại, nô lệ cho hoàn cảnh, nô lệ cho dục vọng, là một nguy hại lớn cho đời sống của cá nhân, của gia đình, xã hội và dân tộc.
Đức tin bị lợi dụng, bị đem ra mặc cả, buôn bán là dấu hiệu bất thường, rất đáng lo ngại của xã hội, của quốc gia, dân tộc. Một xã hội mà ai cũng mơ mơ màng màng sống trong sự phụ thuộc thần linh thì không thể đủ tỉnh táo để làm chủ bản thân mình chứ chưa nói làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, làm sao có đủ trí tuệ để sáng tạo cho phát triển.
Những ai đã chót tham gia vào các tổ chức hoạt động đa cấp tâm linh, xin hãy nhanh chóng tỉnh táo lại, đừng tin vào những điều quàng xiên, cổ xúy cho những hành vi cuồng tín, dị đoan, biến tâm linh trở thành công cụ bóc lột cộng đồng. Pháp luật của Nhà nước chỉ có thể nghiêm trị bọn lưu manh, lừa đảo bằng các chiêu trò tâm linh, nhưng sẽ khó có thể bảo vệ được những người mê tín dị đoan, vẫn cứ tiếp tục u mê, ám chướng, nếu họ không tỉnh ngộ.
Hy vọng rằng Bộ Công an sẽ sớm công bố kết quả điều tra hoạt động của CLB “Tình Người”, thuộc Công ty TNHH Phát triển trí tuệ cộng đồng, có địa chỉ trụ sở tại tầng 3 - tòa nhà số 68 đường Dương Ðình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội để người dân được biết rõ trắng đen.
Thời gian qua, hoạt động của các tà đạo đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa và tình hình an ninh, trật tự ở một số địa phương. Một số tà đạo bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động hoạt động chống chính quyền nhân dân; thuyết giảng “kinh sách” có nội dung phê phán, đi ngược lại với văn hóa truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Tính đến tháng 11/2021, Việt Nam có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm khoảng 27% dân số cả nước; có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân là quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Nhà nước ta còn quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo;... thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc...”. Hiến pháp 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Điều 24). Đồng thời, “nghiêm cấm xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Tuy nhiên, thời gian qua, lợi dụng chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam, một số người đã đứng ra thành lập và tuyên truyền một số hình thức của tà đạo như “Long Hoa Di Lặc”, “Chân không”, “Thanh Hải Vô thượng sư”, “Hà Mòn”, “Dương Văn Mình”, “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ”…
Thời gian qua, hoạt động của các tà đạo đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong đó, đáng chú ý hoạt động của tà đạo “Thanh Hải Vô thượng sư”, “Pháp môn diệu âm”, “Dương Văn Mình”, “tà đạo Hà Mòn”, tà đạo “Hoàng Thiên Long”… trái với phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc; tuyên truyền mê tín dị đoan; xâm hại đến tính mạng, sức khỏe; khống chế, lừa gạt người dân để trục lợi; gây mất đoàn kết trong cộng đồng dân tộc, giữa các tôn giáo, gia đình ly tán (khi bị gia đình, người thân can ngăn, đối tượng đã bỏ người thân theo tà đạo).
Các tà đạo này ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội (kích động trốn vào rừng, trốn đi nước ngoài); một số tà đạo bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động hoạt động chống chính quyền nhân dân (“tà đạo Hà Mòn”)…
Phần lớn các tà đạo ở nước ta có những cách hành đạo trái với văn hóa truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, nhằm mục đích gây thanh thế cá nhân, thu lợi bất chính về kinh tế. Mặt khác, gây bất ổn về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số của đất nước.
Chẳng hạn, để lôi kéo người dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông, nhằm trục lợi và thanh thế cá nhân, Dương Văn Mình, quê quán huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (đã mất 12/2021), tự xưng là “chúa giáng thế”, tuyên bố rằng: “theo y cầu nguyện, không làm cũng có ăn, không học cũng biết chữ, người già sẽ lột xác, ốm đau sẽ tự khỏi”, nơi hành lễ là “nhà đòn”, dựng ở đâu tùy thích, thờ phụng con ve sầu, chim én, cóc gỗ thay vì thờ cúng tổ tiên như trước đây”.
Còn Y Gyin (sinh năm 1942, ở Sa Thầy - tỉnh Kon Tum), hành nghề cúng bái thì dựng chuyện “Đức mẹ hiển linh” trao cho sứ mệnh truyền giáo, lập ra cái gọi là “đạo Hà Mòn” lôi kéo, lừa bịp nhiều người dân thiếu hiểu biết:“Ai theo Đức mẹ thì mọi nợ nần về vật chất và tinh thần đều được xóa, kể cả nợ ngân hàng; ốm đau không cần chữa cũng khỏi bệnh; người đã theo thì không được bỏ, nếu bỏ đạo gia đình sẽ ly tán”, “Hà Mòn” mới là “tôn giáo riêng” của người DTTS ở Tây Nguyên”.
Hay như các đối tượng cầm đầu tà đạo “Giê Sùa” (Hờ Chá Sùng), tà đạo “Bà Cô Dợ” (Vừ Thị Dợ) đã tuyên truyền cho một bộ phận đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc rằng: “theo đạo “Giê sùa”, đạo “Bà Cô Dợ” khi có chiến tranh, thiên tai thì sẽ được đưa đến đất nước của Chúa sinh sống; kêu gọi người Mông phải đoàn kết để chung tay xây dựng đất nước riêng của người Mông...”. Thực chất, “Hà Mòn”, “Dương Văn Mình”, “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đều mang màu sắc của tà đạo, trái hoàn toàn với đạo lý truyền thống văn hóa dân tộc, đã bị các thế lực thù địch lợi dụng gây xáo trộn cuộc sống của người dân, gây mất an ninh, trật tự ở một số địa phương.
Từ thực tiễn hoạt động của các tà đạo trong thời gian vừa qua, có thể nhận diện các tà đạo dựa vào một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Về người đứng đầu: Luôn tự đề cao, đánh bóng bản thân mình cho rằng bản thân họ là “phật”, “thánh”, “thần”…, nhiều người trước khi tạo dựng tà đạo hay “đạo lạ” còn mắc bệnh tâm thần hoặc từ nước ngoài tuyên truyền phát triển vào trong nước trước để tạo thanh thế. Các tà đạo thường sùng bái và thần thánh hóa người cầm đầu, khác với tôn giáo truyền thống: đối tượng sùng bái là những bậc thánh hiền, thần thánh hóa lãnh tụ, siêu trần, thoát thế…, tôn giáo truyền thống phát huy được tác dụng hướng thiện, nâng đỡ cuộc sống con người; “tà đạo” thường có tư tưởng cực đoan, chống lại hiện thực xã hội, thực hành lối sống phi pháp, quyên góp, bóp nặn tiền của người dân.
- Về lý thuyết, “giáo lý”, “giáo luật”: Chủ yếu được chắp vá, pha tạp, cải biên, xuyên tạc từ một số điều trong lý thuyết, giáo lý, giáo luật của các tôn giáo truyền thống, đã hình thành từ lâu, nên có những lời khuyên, điều răn dạy hướng thiện, giúp xoa dịu, an ủi con người về mặt tinh thần trước những bất hạnh, khó khăn gặp phải trong cuộc sống (đây là yếu tố làm cho tà đạo có thể tồn tại). Tuy nhiên, có một số tà đạo có nội dung giáo lý trái thuần phong, mỹ tục của dân tộc, phản văn hóa, phản khoa học như khuyên người ốm không dùng thuốc, chỉ cần cúng, dâng hoa, cầu nguyện, dùng “nước thánh”, “thuốc phật”…, trái với quy luật tự nhiên; lợi dụng các tà thuyết về “ngày tận thế” hoặc gắn với các nhu cầu về sức khỏe để lôi kéo, mê hoặc, khống chế quần chúng.
Điển hình như đối với tà đạo “Giê Sùa” đã và đang tác động vào vùng dân tộc Mông nước ta từ năm 2015 và tuyên truyền, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông tham gia với những nội dung khác với giáo lý, giáo luật của đạo Tin Lành. Tà đạo “Giê Sùa” gọi tên Chúa là “Giê Sùa” chứ không phải là Giêsu; coi “đạo Giê Sùa” là tôn giáo chính thống, không thừa nhận các tôn giáo khác; thay nhân vật Adam và Eva trong Kinh thánh bằng “chàng Ong” và “cô Ía”; không tổ chức lễ Giáng sinh, Phục sinh; kiêng ăn thịt lợn và loài cá không vảy. Trong các tài liệu tuyên truyền về tà đạo “Giê Sùa” ngoài nội dung bóp méo Kinh Thánh của đạo Tin Lành, những đối tượng cầm đầu, cốt cán còn tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông”.
- Về mục đích hoạt động: Hầu hết các tà đạo đều có chung mục đích là phục vụ lợi ích của người cầm đầu “giáo chủ” (người sáng lập) và một số đối tượng cốt cán, tay chân của họ nhằm thu về kinh tế thông qua thu lệ phí “quy y”, bán “sắc phong”, “bùa”, bán sách, bài giảng, “thuốc chữa bệnh”... Đáng chú ý, các thế lực thù địch, phản động tạo dựng hoặc lợi dụng “tà đạo” như là công cụ để tuyên truyền, tập hợp, thu hút người vào các hoạt động chống chính quyền.
- Về nghi lễ hành đạo: Mang nặng yếu tố mê muội, mê tín dị đoan, lừa bịp, phản khoa học trái với những nghi lễ truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc hay thần thánh hóa lãnh tụ, các bậc thánh hiền, danh nhân, anh hùng dân tộc như: ép quan hệ tình dục tập thể hoặc với giáo chủ để “đắc đạo” (“tà đạo Chân không” của Lưu Văn Ty ở Hà Tĩnh khuyên tín đồ quan hệ tình dục với “người trời” là Lưu Văn Ty); hủy hoại tài sản, của cải, hủy hoại một phần cơ thể hoặc cả thân xác con người để sớm “siêu thoát” (“tà đạo Chân không” khuyên đốt bỏ một phần tài sản, đầy đọa thân xác mới “đắc đạo”; tà đạo “chặt ngón tay” do Phạm Thị Hải ở TP Hồ Chí Minh khởi xướng năm 1993 quy định người tu theo muốn thành “chính quả” phải chặt một ngón tay để bỏ đi một phần thể xác giúp siêu thoát phần hồn...); kích động tự sát để sớm về “nước trời” (như vụ hơn 50 người ở bản Pahé, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La theo tà đạo “Phạ tốc” đã tuân lệnh “giáo chủ” Cà Văn Liêng tiến hành tự sát tập thể).
- Về cách hoạt động: Thường thiên về hoạt động thực tiễn, nhưng lén lút, thường xuyên thay đổi địa điểm nhằm tránh sự phát hiện, xử lý của cơ quan chức năng; lợi dụng sơ hở của pháp luật, trong công tác quản lý của chính quyền cơ sở để tuyên truyền phát triển “đạo”; tán phát tài liệu tuyên truyền ở trên mạng Internet hay ở những nơi công cộng, nơi tập trung đông dân cư; tập luyện “dưỡng sinh” ở công viên, quảng trường, vườn hoa; lợi dụng những vùng đồng bào trình độ nhận thức còn thấp, điều kiện sống, chăm sóc sức khỏe còn khó khăn để dụ dỗ, lừa bịp, khống chế, lôi kéo theo “đạo”. Điển hình như đối với tà đạo “Bà Cô Dợ” thường sử dụng các đoạn video clip quay các buổi sinh hoạt của điểm nhóm ở Mỹ và phát trực tiếp trên mạng xã hội Facebook, kênh Youtube để giới thiệu, hướng dẫn mọi người sử dụng điện thoại, máy tính bảng... kết nối Internet vào xem trực tuyến và làm theo hướng dẫn.
- Về đối tượng tin theo: Phần lớn người tin theo các tà đạo là những người gặp rủi ro, bế tắc trong cuộc sống, do ốm đau, bệnh tật, nghèo khó; những người có trình độ văn hóa thấp, ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cũng có những tà đạo do biết khai thác, lợi dụng, tạo vỏ bọc xuyên tạc các sự kiện thực tế (dịch bệnh, thiên tai, hiểm họa môi trường...) để “khoác áo” cho các “tín điều” nên đã thu hút được những người trẻ tuổi ưa cái mới, kể cả những người có trình độ nhận thức và chuyên môn kỹ thuật cao, hoặc cán bộ các cơ quan chính quyền và nhất là số cán bộ nguyên là lãnh đạo các ngành, giáo sư, tiến sỹ nghỉ hưu tiếp tay cho tà đạo hoạt động.
Cũng như hoạt động bình thường khác của xã hội, mọi sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều phải trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam; nghiêm cấm bất kỳ ai lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật. Dù ở quốc gia nào, hoạt động tôn giáo đều cần phải có sự quản lý để bảo đảm hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và tuân thủ luật pháp. Không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dùng hình ảnh "thanh bảo kiếm" để định danh công tác kiểm tra, giám sát (KT, GS) của Đảng. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để “thanh bảo kiếm” ấy phát huy tác dụng “chữa lành các vết thương”, thực hiện thắng lợi 3 mục tiêu đề ra trong “Chiến lược KT, GS của Đảng đến năm 2030” theo Kết luận số 34-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 18-4-2022.
Có thể khẳng định, thời gian qua, đặc biệt là từ nhiệm kỳ XI của Đảng đến nay, Đảng ta sử dụng “thanh bảo kiếm” ngày càng hiệu quả, sắc bén.
Hoạt động KT, GS của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" trong nội bộ và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, góp phần quan trọng để đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay.
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS hiện nay chính là sự kế thừa, vận dụng những bài học kinh nghiệm, mô hình, cách làm thành công trong giai đoạn vừa qua.
Bản lĩnh người đứng đầu cấp ủy
Không phải ngẫu nhiên mà thời gian vừa qua, mỗi lần Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương ra thông cáo báo chí kỳ họp đều được dư luận đồng tình, hoan nghênh, đánh giá cao. Đó là kết quả của một quá trình nỗ lực vươn tới, gặp nhau giữa “ý Đảng” với “lòng Dân”. Công tác KT, GS của Đảng trong tình hình hiện nay là một “cuộc chiến” thực sự với “giặc nội xâm”.
Vì lẽ đó, không thể có thành công nếu người đứng đầu cấp ủy và UBKT các cấp thiếu bản lĩnh. Không liêm, không sạch, không dạn dày kinh nghiệm xây dựng Đảng thì không thể có bản lĩnh. Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác KT, GS và thi hành kỷ luật đảng nhiệm kỳ Đại hội XII, ngày 27-11-2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra một điểm sáng nổi bật trong nhiệm kỳ này là: “Đội ngũ cán bộ kiểm tra, đặc biệt là các đồng chí Ủy viên UBKT Trung ương rất có bản lĩnh, quyết liệt, thận trọng, công tâm, khách quan trong việc thẩm tra, xác minh đối với những vụ việc khó đã tồn tại từ lâu” (1).
Nhờ bản lĩnh, trí tuệ và quyết tâm sắt đá của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; bản lĩnh của các đồng chí thành viên Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; bản lĩnh của các đồng chí Ủy viên UBKT Trung ương mà công tác KT, GS của Đảng ở Trung ương đã đột phá vào những lĩnh vực khó, địa bàn nổi cộm, trước đây ít kiểm tra hoặc chưa được kiểm tra. Đảng ta cũng thành công trong chủ trương “chống tiêu cực ngay trong các cơ quan và cá nhân những người làm công tác chống tiêu cực”.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật thì thấy một số người đứng đầu cấp ủy hiện nay chưa coi trọng đúng mức công tác KT, GS, chưa kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KT, GS. Nếu công tác KT, GS là “thanh bảo kiếm” thì cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy chính là người trực tiếp sử dụng “thanh bảo kiếm” đó.
Vì vậy, điều quan trọng hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy về công tác KT, GS. Cấp ủy nào có người đứng đầu gương mẫu, thực sự say mê và tha thiết với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì ở đó, “thanh bảo kiếm” được mài sắc và sử dụng hiệu quả. Một tồn tại, vướng mắc của công tác KT, GS của Đảng hiện nay là hệ thống các quy định liên quan đến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực còn chưa hoàn thiện và đồng bộ. Trước những bước phát triển rất nhanh của đời sống, cùng những biểu hiện phong phú, phức tạp trong thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì việc khắc phục những vướng mắc này không thể một sớm, một chiều.
Trong điều kiện đó, bản lĩnh và quyết tâm của cấp ủy, UBKT các cấp, đặc biệt là bản lĩnh, quyết tâm của người đứng đầu càng có vai trò quan trọng. Trên cơ sở chấp hành nguyên tắc, Điều lệ Đảng, bản lĩnh, quyết tâm của người đứng đầu cấp ủy sẽ giúp cho công tác KT, GS khắc phục mọi vấn đề phát sinh của thực tiễn.
Kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm
Kinh nghiệm nổi bật trong thành công của công tác KT, GS trong hơn hai nhiệm kỳ vừa qua là việc xác định trọng tâm, trọng điểm kiểm tra. Kinh nghiệm này được khẳng định từ chính các hoạt động của UBKT Trung ương. Trước những diễn biến tinh vi, phức tạp của tiêu cực, tham nhũng, UBKT Trung ương đã tập trung chỉ đạo kiểm tra những nơi có vấn đề “nóng”, phức tạp, nhạy cảm, vụ việc dư luận quan tâm, các lĩnh vực, địa bàn dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.
Đây là những “mắt xích” quan trọng trong thế trận phòng, chống tiêu cực. Mỗi “mắt xích” được kiểm tra, xử lý và công khai trên báo chí đều có ý nghĩa đột phá. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhìn thấy rõ tác dụng, hiệu quả của công tác KT, GS; củng cố niềm tin vào quyết tâm chính trị của Đảng; đồng thời có giá trị răn đe, cảnh tỉnh, ngăn ngừa những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước.
Xác định được trọng tâm, trọng điểm trong công tác KT, GS thể hiện cách làm bài bản, chặt chẽ, nghiêm minh của Đảng. Quan điểm của Đảng ta về xử lý kỷ luật là “không có vùng cấm, không có vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, không có hạ cánh an toàn”. Thực tiễn công tác KT, GS thời gian qua cho thấy, những người vi phạm dù là cán bộ đương chức hay nghỉ hưu, cán bộ cấp cao (kể cả diện Ban Chấp hành Trung ương quản lý), cán bộ trong lĩnh vực dân sự và cả trong lực lượng vũ trang đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, không có tình trạng “nhẹ trên, nặng dưới” hoặc “vùng cấm”.
Hiện nay vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” trong KT, GS. Biểu hiện rõ nhất là một số cấp ủy, UBKT từ cấp cơ sở đến cấp trực thuộc Trung ương xác định nội dung KT, GS còn dàn trải, hình thức, chưa thực sự đi vào các lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực hoặc những vấn đề đang gây bức xúc của địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
Thậm chí, còn có tổ chức đảng thiếu bản lĩnh, dĩ hòa vi quý; cá biệt có biểu hiện bao che cho cán bộ, đảng viên có chức, có quyền vi phạm. Theo báo cáo tổng kết công tác KT, GS của UBKT Trung ương nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, không ít địa phương, cơ quan, đơn vị tiến hành KT, GS còn mang tính hình thức, chiếu lệ, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả thấp, chưa đủ sức răn đe; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy, chưa nghiêm túc và chưa chủ động xử lý khi phát hiện thấy vi phạm, khuyết điểm. Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm về xác định trọng tâm, trọng điểm trong KT, GS là một giải pháp mang ý nghĩa đột phá trong khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” hiện nay.
Kỷ luật Đảng đi trước, mở đường
Trước đây, mặc dù đã có quy chế phối hợp giữa UBKT của cấp ủy với thanh tra nhà nước cùng cấp, nhưng tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu phối hợp giữa hai cơ quan trong xử lý các vụ việc tiêu cực, tham nhũng vẫn xảy ra.
Trong hơn hai nhiệm kỳ gần đây, với quan điểm của Đảng: “Kỷ luật đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho thanh tra, điều tra, xử lý hình sự theo pháp luật” đã thực sự tạo ra bước đột phá về quan hệ phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Theo đó, UBKT các cấp nhận thức rõ vai trò “đi trước, mở đường” của mình, thực hiện kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ án, vụ việc nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Từ quá trình KT, GS, nếu phát hiện trường hợp cán bộ, đảng viên có dấu hiệu tội phạm về tham nhũng, tiêu cực thì chuyển cho các cơ quan pháp luật xem xét, xử lý theo thẩm quyền, không chờ đến khi kết thúc KT, GS mới chuyển.
Theo đồng chí Trần Tiến Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm UBKT Trung ương, thì ở chiều ngược lại: “Các cơ quan chức năng trong quá trình thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ việc, vụ án về tham nhũng, tiêu cực, nếu phát hiện vi phạm liên quan đến cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp quản lý thì báo cáo ngay cho Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, cấp ủy quản lý cán bộ để kịp thời chỉ đạo xử lý. Đồng thời, chuyển hồ sơ, tài liệu liên quan đến UBKT Trung ương, UBKT thuộc cấp ủy quản lý cán bộ để kiểm tra, xử lý theo quy định của Đảng, không chờ khi có kết luận, kết thúc vụ việc, vụ án mới chuyển”.
Nhận thức về vị trí, vai trò “đi trước, mở đường” của công tác KT, GS thực sự có ý nghĩa đột phá với mọi cấp ủy, UBKT các cấp và cũng là một bước phát triển quan trọng về lý luận Đảng cầm quyền. Muốn làm được điều này, đòi hỏi ngành kiểm tra Đảng phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Về chuyên môn, nghiệp vụ, cán bộ kiểm tra chẳng những phải nắm chắc đường lối, điều lệ và hệ thống quy định, quy chế của Đảng, pháp luật Nhà nước mà còn phải có trình độ chuyên môn rất cao trong lĩnh vực đảm nhiệm kiểm tra. Có những lĩnh vực mới và khó như thị trường chứng khoán, công nghệ cao hoặc những biểu hiện của tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ‘tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...
Về phẩm chất, họ phải là những “Bao Công” của thời kỳ mới, có đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, có bản lĩnh và dũng khí chống tham nhũng, tiêu cực. Họ là người chiến sĩ đấu tranh trực diện với “giặc nội xâm”, mà “giặc nội xâm” ấy là đồng chí, đồng đội và người thân của mình; đồng thời, họ còn phải đấu tranh với chính mình để vượt qua cám dỗ, thử thách.
Sứ mệnh “đi trước, mở đường” đòi hỏi ngành kiểm tra Đảng phải xây dựng được đội ngũ cán bộ với yêu cầu rất cao như vậy. Muốn thế, trước hết phải có chính sách đãi ngộ, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng thật khoa học và phù hợp. Đây là những vấn đề rất lớn, rất khó nhưng không thể không làm nếu muốn mài sắc “thanh bảo kiếm” của Đảng.
KT, GS là mặt công tác lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên quyết, kiên trì, không được chủ quan, thỏa mãn với những kết quả đạt được. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Hiện nay, vị trí, vai trò, uy tín của UBKT các cấp, nhất là UBKT Trung ương đang được đề cao; quyền hạn, trách nhiệm đã được mở rộng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp đặc biệt quan tâm.
Đó là cơ sở, tiền đề quan trọng để các đồng chí ra quân mạnh mẽ hơn nữa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao hơn nữa. Thực tiễn đang đòi hỏi chúng ta phải hành động, nói phải đi đôi với làm, không nói lý thuyết đạo lý chung chung" (2).
Ngay
từ khi thành lập, Dương Văn Mình chỉ đạo các đối tượng trong tổ chức lập nhà
nước riêng cho người Mông, ly khai, tách khỏi cộng đồng quốc gia dân tộc Việt
Nam. Thời gian qua, lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, tổ chức bất
hợp pháp Dương Văn Mình đã có nhiều hoạt động vi phạm pháp luật, dụ
dỗ, lôi kéo hàng nghìn người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc, gây xáo
trộn đời sống của đồng bào các dân tộc cùng sinh sống ở các thôn bản.
Nhiều người nhẹ dạ cả tin đã trở thành nạn nhân và là con rối để tổ chức này
manh nha hoạt động lập nhà nước riêng, đòi ly khai, tự trị, tách ra khỏi cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Địa bàn mà tổ chức Dương Văn Mình hoạt động phần lớn
ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn
như Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai….Dương Văn Mình (SN 1961)
còn có tên gọi khác Dương Súng Mình, Giàng Sống Minh, nguyên quán ở xã Thượng
Thôn, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Năm 1982, Dương Văn Mình di chuyển đến xã
Yên Lâm, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi nghe đài nước ngoài tuyên
truyền về đạo Tin lành vào vùng đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh miền núi phía
Bắc, Dương Văn Mình tự xưng là Vua của người Mông với những thông tin nhảm nhí,
hoang đường. Vào năm 1990, Dương Văn Mình bị cơ quan cảnh sát điều tra
bắt giữ và truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân và
hành nghề mê tín dị đoan gây hậu quả nghiêm trọng”. Đối tượng đã bị Tòa án nhân
dân tỉnh Tuyên Quang tuyên án 5 năm tù giam. Sau khi ra tù, năm 1995, Dương Văn
Mình bỏ trốn khỏi địa phương và sau đó ra mắt cái gọi là “Tín ngưỡng Dương Văn
Mình”, tự phong làm “Giáo chủ”. Đối tượng sau đó còn yêu cầu chính quyền địa
phương công nhận “Tín ngưỡng Dương Văn Mình” là tín ngưỡng của người Mông. Ngay
từ khi thành lập, Dương Văn Mình đã lợi dụng vấn đề tín ngưỡng tôn giáo để
tuyên truyền nhằm tập hợp lực lượng, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông với ý đồ ly
khai, tự trị tại khu vực chiến lược là vùng núi phía Bắc, lập “nhà nước Mông”
do Dương Văn Mình đứng đầu. Để thực hiện ý đồ, Dương Văn Mình cùng số đối tượng
cốt cán móc nối, liên hệ, tìm kiếm, hỗ trợ, hậu thuẫn của một số cá nhân, tổ
chức phản động; tổ chức quốc tế thiếu thiện cảm với Việt Nam để vu cáo Việt Nam
vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo; tuyên truyền luận điệu “Dương Văn
Mình sẽ làm Chúa, Vua của người Mông”. Chúng hướng dẫn người dân cách thức
chống đối chính quyền bằng cách khống chế người dân về mặt tâm linh, đe dọa cô
lập người dân nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trước tình hình
trên, chính quyền các địa phương đã kiên trì tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân không tin, không nghe theo tổ chức bất hợp pháp của Dương Văn Minh,
thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, tuân thủ các quy định
của pháp luật.
Cuối năm 2021, Dương Văn
Mình chết do bệnh tật. Trước khi chết, đối tượng sinh sống ở tại xã Yên
Lâm, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Khi Dương Văn Mình chết, các đối tượng
vẫn tiếp tục lợi dụng các hoạt động tôn giáo nhằm thần thánh hóa Dương Văn
Mình; đồng thời tìm chọn, tiến cử người thay thế để lãnh đạo tổ chức. Theo tài
liệu của cơ quan Công an, năm 1989, Dương Văn Mình đã lừa bịp người dân bằng
luận điệu mê tín, hoang đường như: “Năm 2000 trái đất sẽ nổ tung, con người sẽ
chết hết, ai theo Dương Văn Mình sẽ được chúa Jêsu đón lên trời sống sung
sướng, không làm cũng có ăn, không học cũng biết chữ, người chết sẽ sống lại,
người già sẽ lột xác trẻ lại, người trẻ sẽ trẻ mãi không già, ốm đau sẽ tự khỏi
bệnh, người Mông sẽ có Tổ quốc riêng… Muốn đến để Dương Văn Mình cầu hồn cho
khỏi ốm đau thì phải mang theo tiền, bánh kẹo, thuốc lá và những thứ của cải
khác nộp cho Dương Văn Mình…”.Tin theo Dương Văn Mình, nhiều bà con người Mông
bỏ bê nhà cửa, ruộng vườn.
Dương Văn Mình đã lừa gạt
đồng bào Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc nộp tiền, của cải vào quỹ Vàng Chứ.
Nhiều hộ dân đã bán lúa, ngô, trâu bò, lấy tiền nộp cho Dương Văn Mình. Những
cốt cán trong tổ chức này đã dùng số tiền người dân đóng góp để chia chác, chi
tiêu cá nhân. Do nhận thức còn hạn chế, đời sống khó khăn và sự cưỡng chế của
số đối tượng cốt cán, đồng bào Mông đã tin theo các luận điệu lừa bịp. Nhiều bà
con bỏ bê đồng ruộng, nhà cửa, không chịu làm ăn khiến cuộc sống đã khó
khăn càng thêm khó khăn. Việc Dương Văn Mình và đồng bọn quy định phải có “nhà
nhỏ” để cất giữ các “biểu tượng tâm linh” khi sử dụng trong đám tang; trong
“nhà nhỏ” cất giữ các con vật bằng gỗ như con cóc, con ve, con én, cây thánh
giá. Đây là những thứ do Dương Văn Mình và đồng bọn nghĩ ra, không bắt nguồn từ
phong tục tập quán truyền thống của người Mông. Người Mông từ trước đến nay
không có “nhà nhỏ” để chứa con ve, con cóc, chữ thập…. Thực tế, những người
Mông theo phong tục truyền thống thờ cúng tổ tiên hoặc những người Mông theo
Tin lành không sử dụng những thứ này để cúng cho người chết, mà chỉ có người
tin theo Dương Văn Mình mới dùng. Việc Dương Văn Mình tự nghĩ ra “nhà nhỏ” và
sử dụng các con vật để làm ma cho người chết là nhảm nhí, mê tín dị đoan, không
đúng với quy định của Nhà nước. Khi cơ quan chức năng dỡ bỏ “nhà đòn”, “nhà
nhỏ” do vi phạm các quy định của pháp luật về xây dựng thì một số phần tử
xấu kích động, xuyên tạc để chống phá. Một số trang mạng rêu rao chính quyền
đàn áp người Mông theo đạo và còn cao giọng “ca ngợi” Dương Văn Mình khai trí
người Mông, đem lại văn hóa, văn minh cho người Mông. Cây thập giá là biểu
tượng của Ki Tô Giáo, Dương Văn Mình đã cóp nhặt theo các nghi lễ của các
tôn giáo để quy định thành nghi thức tang lễ của người Mông, tự cho là mới.
Trong khi đó, các nghi thức tang lễ đã được Nhà nước quy định trong thể lệ từ
năm 1975.
Một số người nói, Dương
Văn Mình có công giúp người Mông bỏ được ma, theo đời sống mới. Thực tế, Dương
Văn Mình và một số người đã lừa dối bà con, làm cho bà con ngộ nhận. Dương Văn
Mình bảo bà con bỏ bàn thờ tổ tiên, coi tổ tiên là ma, trái với đạo đức truyền
thống của các dân tộc, không chỉ riêng với dân tộc Mông. Ngay những người Mông
theo phong tục truyền thống thờ tổ tiên và những người Mông theo đạo Tin lành
đều khẳng định không phải theo Dương Văn Mình mới bỏ được ma (không phải cúng
nhiều trâu, bỏ tục lệ người chết để 9 ngày, 9 đêm mới đưa đi chôn…) mà theo đạo
Tin lành hoặc thực hiện theo hương ước, quy ước của thôn, bản thì vẫn bỏ được
những hủ tục lạc hậu trong việc tang ma. Đây là chủ trương của Đảng, Nhà nước
đã ban hành từ rất lâu. Như vậy, đây chỉ là lời lẽ hoang đường, mê tín của
Dương Văn Mình và đồng bọn để lừa dối người Mông. Việc bỏ hủ tục ma chay, cưới
xin nặng nề, thực hiện theo nếp sống mới là không sai, nhưng việc Dương Văn
Mình hướng dẫn bà con bằng những hình thức mê tín là sai, trái với phong tục
truyền thống của dân tộc, trái với quy định của Nhà nước về việc ma chay, cưới
xin. Năm 2013, Ban Tôn giáo Chính phủ đã có văn bản số 478/TGCP-TGK thông báo
cho chính quyền các địa phương nêu rõ: Tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình là
tổ chức có nội dung, hình thức hoạt động trái pháp luật, không phải là một tín
ngưỡng, do vậy không được đăng ký sinh hoạt tôn giáo và không cho đăng ký sinh
hoạt dưới bất kỳ hình thức nào; đây là tổ chức xâm phạm đến tài sản, vật chất,
thời gian lao động của nhân dân và phong tục tập quán truyền thống của các dân
tộc, gây mất đoàn kết dân tộc. Ngày 07/6/2013, Ban Tôn giáo Chính phủ đã có
Công văn gửi UBND các tỉnh, nêu rõ: Tổ chức Dương Văn Mình không đủ điều kiện
đăng ký sinh hoạt tôn giáo. Do đó, tổ chức này không được công nhận là tổ chức
tôn giáo hợp pháp. Đối chiếu với Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) thì tổ chức
Dương Văn Mình cũng không phải là một tôn giáo, vì không có giáo lý, giáo luật;
không có hiến chương, điều lệ, tôn chỉ, đường hướng hành đạo, chưa hình thành
chức sắc, chức việc; không có cơ sở thờ tự, cơ sở tu hành và đào tạo những
người hoạt động tôn giáo. Ngay từ khi thành lập, Dương Văn Mình chỉ đạo
các đối tượng trong tổ chức lập nhà nước riêng cho người Mông, ly khai, tách
khỏi cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. Quá trình hoạt động, Dương Văn Mình
nhiều lần công khai hóa tổ chức dưới nhiều danh xưng khác nhau nhưng không được
chính quyền chấp thuận. Dương Văn Mình và một số tay chân cốt cán còn lộ rõ
động cơ chính trị, hướng lái quần chúng vào các hoạt động chống đối chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời liên hệ, móc nối với các tổ chức, cá
nhân chống đối trong và ngoài nước thực hiện ý đồ của mình. Ngay từ khi thành
lập, Dương Văn Mình chỉ đạo các đối tượng trong tổ chức lập nhà nước riêng
cho người Mông, ly khai, tách khỏi cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. Quá
trình hoạt động, các đối tượng trong tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đã gây
mất an ninh trật tự ở địa phương, tự lập ra bản “Quy ước thôn Ngòi Sen”, lập ra
Ban Tổng quản, Ban bảo vệ…việc làm này là vi phạm pháp luật. Theo tài liệu của
Cục an ninh nội địa (Bộ Công an), tổ chức của Dương Văn Mình triệt để khai thác
tâm lý cố kết của đồng bào dân tộc thiểu số và sự chênh lệch giàu nghèo để
tuyên truyền kích động. Họ lấy vỏ vọc, danh xưng là một tổ chức tôn giáo để
khai thác đặc điểm tâm lý, tín ngưỡng của đồng bao dân tộc thiểu số và sử dụng
không gian mạng, các hội nhóm kín để đào tạo, móc nối, phát triển lực lượng.
Tất cả những việc làm này đã được các cơ quan chức năng xử lý bằng các bản án
hình sự với các đối tượng cầm đầu cốt cán.
Tổ chức bất hợp pháp
Dương Văn Mình còn lập ra cơ cấu tổ chức trái pháp luật như: thành lập Ban cố
vấn, hội người già, hội thanh niên, hội phụ nữ… để đối trọng với thể chế chính
trị của Nhà nước. Tổ chức này chống lại các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước. Ví dụ như kỳ bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, các
đối tượng trong tổ chức của Dương Văn Mình kêu gọi người dân không đi bầu cử,
không tham gia, không thực hiện các chính sách, chỉ tiêu về nông thôn mới, cung
cấp thông tin cho các cơ quan ngoại giao nước ngoài vu cáo Việt Nam vi phạm dân
chủ, nhân quyền, tôn giáo đối với đồng bào dân tộc… Trong thời gian qua,
Cơ quan điều tra đã thu thập được một số chứng cứ phản ảnh về hành vi kích
động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của Dương Văn Mình. Y có dấu
hiệu phạm tội “Phá hoại chính sách đoàn kết” theo Điều 116 Bộ luật Hình sự, nếu
ai tham gia, ủng hộ, giúp đỡ Dương Văn Mình sẽ trở thành đồng phạm và bị xử lý
theo quy định của pháp luật./.