Tiếp tục thể hiện tâm huyết và trách nhiệm đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ tư, 01/02/2023 13:45 (GMT+7)
(ĐCSVN) - Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng mong muốn Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Ba nhận được sự tham gia đông đảo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước, người nước ngoài quan tâm đến Việt Nam, tạo mặt trận rộng rãi về người tham gia để tiếp tục thể hiện nhận thức, tình cảm, tâm huyết và trách nhiệm đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ngày 01/02, tại Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp cùng Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức họp báo phát động Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Ba, năm 2023. Cuộc họp báo được kết nối trực tuyến tới các tỉnh, thành ủy.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng phát biểu tại buổi họp báo phát động Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Ba
Phát biểu chỉ đạo và phát động Cuộc thi, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo 35 Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Cuộc thi nêu rõ, tiếp nối thành công của hai cuộc thi viết chính luận về “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” năm 2021, 2022, Cuộc thi lần này tiếp tục có sự mở rộng về quy mô tổ chức, thành phần tham gia và thể loại tác phẩm dự thi. Cuộc thi nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; đồng thời, triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng đề nghị Thường trực các tỉnh ủy, Thường vụ, Ban Tuyên giáo, Ban Chỉ đạo 35 các tỉnh, thành phố vào cuộc thực sự. "Kinh nghiệm thực tiễn về những kết quả thì ở nơi nào quan tâm, nơi đó sẽ đạt kết quả tốt. Thậm chí nhiều địa phương đã tổ chức Ban Chỉ đạo cho Cuộc thi tại địa phương, tiến hành tổng kết, trao giải, đánh giá, lựa chọn những bài chất lượng để gửi về Ban Tổ chức Cuộc thi Trung ương. Các bài viết cần có tính phát hiện, không chỉ về nội dung mà còn phát hiện lực lượng, nhân tố, xây dựng mạng lưới bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Đây là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng, của hệ thống chính trị.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng bày tỏ mong muốn Cuộc thi nhận được sự tham gia đông đảo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước, người nước ngoài quan tâm đến Việt Nam, tạo mặt trận rộng rãi về người tham gia để tiếp tục thể hiện nhận thức, tình cảm, tâm huyết và trách nhiệm đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần tạo những chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị thời gian tới.
Đối tượng dự thi là người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, người nước ngoài có bài viết chính luận phù hợp với tiêu chí của Cuộc thi.
Các tác phẩm thể loại bài viết, mỗi tác giả/nhóm tác giả được gửi tối đa 02 tác phẩm tham gia dự thi gồm: 01 bài viết chính luận loại hình Tạp chí (Tạp chí in hoặc Tạp chí điện tử) và 01 bài viết chính luận loại hình Báo (Báo in hoặc Báo điện tử). Mỗi bài viết gửi tham gia dự thi gồm bản in (khổ A4) và file mềm (định dạng Microsoft Word).
Cuộc họp báo được kết nối trực tuyến tới các tỉnh, thành ủy
Các tác phẩm thể loại âm thanh, hình ảnh, mỗi tác giả/nhóm tác giả được gửi tối đa 03 tác phẩm dự thi: 01 tác phẩm loại hình báo nói (phát thanh); 01 tác phẩm loại hình báo hình (truyền hình) và 01 tác phẩm dưới dạng video clip. Mỗi tác phẩm dự thi gồm file âm thanh/hình ảnh và bản in kịch bản văn học (định dạng Microsoft Word).
Tác phẩm dự thi là tác phẩm sáng tạo lần đầu, chưa từng được đăng tải/công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội trước thời điểm phát động Cuộc thi. Các tác phẩm dạng viết phải bảo đảm tỷ lệ không trùng lặp theo quy định (không trùng lặp quá 20% đối với thể loại Tạp chí, không trùng lặp quá 25% đối với thể loại Báo so với các công trình đã đăng tải/công bố của chính tác giả/nhóm tác giả hoặc của tác giả/nhóm tác giả khác). Sau khi gửi tác phẩm dự thi về Ban Tổ chức, tác giả/nhóm tác giả có thể đăng tải/công bố tác phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng phải thông báo cho cơ quan đã nhận tác phẩm dự thi và gửi minh chứng kèm theo.
Chủ đề tác phẩm tập trung vào những vấn đề cơ bản, trọng tâm về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay, như: giá trị khoa học, cách mạng và thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đề xuất bổ sung, phát triển; bảo vệ, lan tỏa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự nghiệp đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay; nhận diện và đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và thực tiễn, kinh nghiệm tổ chức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở các ngành, địa phương, lĩnh vực.
Ban Tổ chức nhận tác phẩm dự thi đến hết ngày 31/7/2023 (tính theo dấu bưu điện). Lễ công bố và trao giải cuộc thi được tổ chức vào tháng 10/2023, nhân dịp sơ kết 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII.
Ban Tổ chức cuộc thi sẽ trao giải theo 03 loại hình tác phẩm dự thi gồm: bài tạp chí, báo và loại hình phát thanh/truyền hình/video clip. Mỗi loại hình gồm: 01 giải Đặc biệt, 03 giải A, 05 giải B, 07 giải C, 10 giải Khuyến khích. Đồng thời, Ban Tổ chức trao 15 giải Tập thể xuất sắc cho các cơ quan, tổ chức, địa phương có quá trình tổ chức triển khai cuộc thi sâu rộng, sáng tạo tại cơ sở, phục vụ có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII tại địa phương, cơ quan, đơn vị; có nhiều sản phẩm tham gia dự thi đạt chất lượng tốt, trong đó có ít nhất 01 tác phẩm đạt giải B trở lên.
Ngoài giải chính thức, Ban Tổ chức trao tặng 15 giải Triển vọng cho tác phẩm dự thi của tác giả/nhóm tác giả là đoàn viên, thanh niên, sinh viên lọt vào vòng chung khảo và có số điểm cao nhất trong số tác phẩm của đoàn viên, thanh niên, sinh viên.
Các tác giả/nhóm tác giả có tác phẩm dự thi gửi cho Ban Tổ chức theo các đầu mối như sau:
- Các đơn vị tham gia tổ chức Cuộc thi (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam): thu nhận, đánh giá, sàng lọc các tác phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên, sinh viên của các cơ quan, đơn vị trực thuộc và nộp trực tiếp các tác phẩm dự thi về Ban Tổ chức Cuộc thi.
- Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương: tổ chức thu nhận, đánh giá các tác phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên các cơ quan, đơn vị, trường học trực thuộc Bộ Quốc phòng (các đơn vị quân sự địa phương nộp bài theo đầu mối Ban Chỉ đạo 35 địa phương và báo cáo kết quả tham gia dự thi về Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương).
- Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công an: tổ chức thu nhận, đánh giá các tác phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên các cơ quan, đơn vị, trường học trực thuộc Bộ Công an (Công an địa phương nộp bài theo đầu mối Ban Chỉ đạo 35 địa phương và báo cáo kết quả tham gia dự thi về Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công an).
- Ban Chỉ đạo 35 Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương: tổ chức thu nhận, đánh giá các tác phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các đảng bộ trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương.
- Ban Chỉ đạo 35 Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương: tổ chức thu nhận, đánh giá các tác phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các đảng bộ trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam: tổ chức thu nhận, đánh giá các sản phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên, sinh viên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam.
- Bộ Ngoại giao: tổ chức thu nhận, đánh giá các tác phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên Bộ Ngoại giao, người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài.
- Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: phát động Cuộc thi trong hệ thống; chỉ đạo các cấp bộ đoàn tuyên truyền, vận động, tổ chức để đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia dự thi; tổng hợp và báo cáo kết quả tham gia dự thi của các cấp bộ đoàn về Ban Tổ chức Cuộc thi cấp Trung ương (đoàn viên ở đơn vị, địa phương nào thì tham gia dự thi ở đơn vị, địa phương đó).
- Ban Chỉ đạo 35 các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương: tổ chức thu nhận, đánh giá các tác phẩm dự thi của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, sinh viên, học sinh các cơ quan, đơn vị, trường học tại địa phương (trừ các tác giả/nhóm tác giả nộp tác phẩm dự thi theo đầu mối Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương, Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công an, Ban Chỉ đạo 35 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Chỉ đạo 35 Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Ban Chỉ đạo 35 Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh) và tác phẩm dự thi của các tầng lớp nhân dân tại địa phương.
- Các tác giả/nhóm tác giả không thuộc các đối tượng nêu trên gửi tác phẩm dự thi trực tiếp về Ban Tổ chức Cuộc thi cấp Trung ương.
Địa chỉ thu nhận tác phẩm và hồ sơ dự thi ở cấp Trung ương: Văn phòng Ban Chỉ đạo 35 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, số 135 Nguyễn Phong Sắc, Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội. Điện thoại: 080.41053 hoặc 0909.581.987; Email: thiviet35hcma@gmail.com.
Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
20:04, ngày 21-01-2023
TCCS - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng; trong đó, Người chú trọng, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt, thực hiện trách nhiệm nêu gương và có ý thức giữ gìn uy tín, hình ảnh của mình. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện phát triển mới đặt ra yêu cầu phải tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng đó của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm, chúc tết một số gia đình tại thôn Khe Cát, xã Minh Thành, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày mùng 1 tết Ất Tỵ 1965_Ảnh: TTXVN
Uy tín, hình ảnh người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết, tiến tới thành lập đảng cách mạng chân chính, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiến hành lựa chọn những thanh niên ưu tú để tổ chức đào tạo, huấn luyện chính trị (vào những năm 1925 - 1927, tại Quảng Châu, Trung Quốc). Theo Người, chỉ những người có đủ phẩm chất, trí tuệ thì mới có thể tiếp nhận được giá trị lý luận, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, quan điểm, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng đúng đắn, trung thành, tận tụy truyền bá lý luận trong phong trào quần chúng, xây dựng, phát triển tổ chức đảng và thực hiện được vai trò lãnh đạo của Đảng. Tập hợp những cá nhân được giáo dục, huấn luyện bài bản thì mới có thể hình thành tổ chức đảng cách mạng và sau khi có tổ chức, lại phải không ngừng nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất cần có của tổ chức cũng như của mỗi người cán bộ, đảng viên để dẫn dắt phong trào cách mạng.
Với nhận thức khoa học về Đảng, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (năm 1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng đầu yêu cầu về Tư cách một người cách mệnh, gồm 23 điểm. Theo Người, mỗi người khi phấn đấu theo những điểm căn cốt đó sẽ góp phần làm nên bản chất cách mạng của Đảng; đồng thời, giúp cho Đảng có được đội ngũ cán bộ trung kiên, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì cách mạng, dân tộc và nhân dân. Trong 23 điểm nêu trên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc định hình rõ tiêu chuẩn cụ thể của người cán bộ, đảng viên. Theo đó, người cách mạng, cán bộ, đảng viên tự mình phải cần kiệm, hòa mà không tư, cả quyết sửa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát, hay hỏi, nhẫn nại (chịu khó), hay nghiên cứu, xem xét, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất, bí mật; với từng người thì khoan thứ; với đoàn thể thì nghiêm, có lòng bày vẽ cho người, trực mà không táo bạo, hay xem xét người; khi làm việc phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể (1).
Những phẩm chất, tư cách và yêu cầu đó có ảnh hưởng tích cực đối với sự lãnh đạo của Đảng, tỏ rõ uy tín, tấm gương của người cách mạng, có sức cảm hóa, tập hợp, đoàn kết nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền; vì thế, dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu, người cán bộ cũng được quần chúng tin cậy, che chở và bảo vệ. Nhờ tấm gương, uy tín, đức hy sinh quên mình ấy mà hình ảnh cao đẹp của những người cộng sản có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo thành sức mạnh to lớn, góp phần đưa cách mạng đi đến thành công.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Nhà nước mới thể hiện sự kết tinh tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc, nhân văn, nhân đạo cao cả; nhiều nhân sĩ, trí thức không phải đảng viên cộng sản được mời tham gia Chính phủ. Những người trong chính quyền của chế độ cũ được đối xử tốt, nhiều người đã tham gia chính quyền cách mạng; đặc biệt, cựu Hoàng đế Bảo Đại được mời làm Cố vấn tối cao của Chính phủ. Nhà nước cũng thực hiện ngay chính sách “tín ngưỡng tự do”, tạo điều kiện để các tôn giáo hành đạo; thực hiện các quyền dân chủ, chống nạn đói, “giặc dốt”, bảo đảm ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, Chính phủ là công bộc của dân, phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh; tập trung thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, vừa chống xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, vừa xây dựng chế độ xã hội mới.
Với sự nghiệp vẻ vang, mới mẻ và bộ máy chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa chăm lo xây dựng bộ máy nhà nước và chính quyền các cấp, vừa đặc biệt chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, là những người trực tiếp điều hành và quản lý bộ máy nhà nước cách mạng kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong những năm tháng đầu tiên của chính quyền cách mạng, phần lớn cán bộ nắm bộ máy chính quyền và nhân viên nhà nước đều tận tụy, nỗ lực khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng trong thực tiễn thực thi quyền lực đã có một số cán bộ “ngông nghênh, cậy thế, cậy quyền”, ức hiếp dân. Chính vì vậy, trên báo Cứu quốc số 65, ngày 12-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đề cập, phân tích vấn đề này trong bài viết “Sao cho được lòng dân?”. Người thẳng thắn nêu rõ thực trạng là ở một số ủy ban nhân dân “tiếng phàn nàn oán thán nhiều hơn tiếng người khen”(2); “Những Ủy ban đó không những không được dân yêu, còn bị dân khinh, dân ghét”(3). Người chỉ dẫn: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”(4).
Những hành vi không đúng mực của một số cán bộ chính quyền đã ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín, làm xấu đi hình ảnh của bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm các chức vụ, quyền hạn. Hiện tượng lạm quyền, lộng quyền và các thói xấu khác ở một số cán bộ đã khiến cho niềm tin của nhân dân bị suy giảm. Để kịp thời khắc phục tình trạng này, ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”; trong đó, chỉ ra những lầm lỗi rất nặng nề của một số người trong bộ máy chính quyền, như trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, cử chỉ lúc nào cũng lên mặt “quan cách mạng”. Những hành vi tiêu cực đó “làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ”(5); do vậy, Chính phủ phải kiên quyết khắc phục, loại bỏ những sai phạm, hình ảnh xấu đó của một số cán bộ, đảng viên. Người nêu rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”(6).
Uy tín và hình ảnh tốt đẹp của người cán bộ phải xuất phát từ sự tận tụy, hết lòng, hết sức vì việc công, “dĩ công vi thượng”, không tơ hào, vun vén cho lợi ích bản thân và gia đình mình, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không quan liêu, xa cách và hống hách với dân, luôn khiêm nhường, giản dị trong cuộc sống. Muốn vậy, Đảng, chính quyền phải ra sức giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, phép nước; đồng thời, mỗi người phải có ý thức tự rèn luyện, tự tu dưỡng thường xuyên, liên tục. Ở đây, việc tu thân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở chính bản thân mình: “Gian nan rèn luyện mới thành công”.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày toàn diện, sâu sắc về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Người nêu ra 12 điều về tư cách của Đảng chân chính cách mạng và khẳng định:
“Muốn cho Đảng được vững bền Mười hai điều đó chớ quên điều nào”(7).
Đó là sự tổng kết sâu sắc của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm sáng rõ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về công cuộc xây dựng đảng cộng sản phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh bản chất cách mạng, mục tiêu, nhiệm vụ, tính tiên phong, các nguyên tắc hoạt động, đường lối, kỷ luật của Đảng và những yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những nội dung đó đều trực tiếp đặt ra nhiệm vụ, bổnphận của đảng viên và cán bộ trước Đảng và dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất, lý tưởng của Đảng mà mỗi người đều phải ghi nhớ, thấm nhuần để phấn đấu: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(8).
Về bổn phận, trách nhiệm và tư cách của đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, phải trọng lợi ích của Đảng hơn hết và chú trọng rèn luyện đạo đức cách mạng theo các yêu cầu: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(9). Cán bộ, đảng viên phải giữ nghiêm kỷ luật; có ý thức sửa chữa các khuyết điểm, sai lầm có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân, như tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, hẹp hòi, địa phương và các căn bệnh khác, như chủ quan, cẩu thả, hình thức, ích kỷ, xa quần chúng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một khi cán bộ, đảng viên nào mắc vào các căn bệnh đó thì đều trực tiếp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, sức mạnh và sự lãnh đạo của Đảng. “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng”(10).
Đội ngũ cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là lý do vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục, đào tạo, huấn luyện cán bộ; coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. “Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”(11).
Hình ảnh, uy tín của mỗi cán bộ, đảng viên góp phần làm nên uy tín, thanh danh của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, uy tín, hình ảnh của đảng viên, cán bộ trở nên sâu đậm trong lòng dân chúng chính là bởi những hành động, việc làm cao đẹp của họ. Người đã khái quát trách nhiệm, bổn phận của cán bộ, đảng viên trên những phương diện chủ yếu: Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, trước hết; hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa; phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng. Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc(12).
Trong bản Di chúc lịch sử (năm 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(13).
Nhân dịp tết Nguyên đán Quý Mão 2023 và kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2023), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Nhà 67 trong Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Phủ Chủ tịch_Ảnh: TTXVN
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về uy tín, hình ảnh người cán bộ, đảng viên vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và xây dựng hình ảnh, uy tín người cán bộ, đảng viên nói riêng trong điều kiện hiện nay, Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) chủ trương tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ: Giữa xây dựng Đảng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng với chỉnh đốn Đảng, kết hợp “xây” và “chống”, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, chống tham nhũng, tiêu cực; giữa xây dựng với bảo vệ Đảng, chú trọng bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ tổ chức đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu, coi công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”; thắt chặt mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tổng kết quá trình xây dựng Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn mới, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh những nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. “Ba nhiệm vụ trọng tâm là: (1) Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương. (2) Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. (3) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”(14). Đại hội cũng chỉ ra “Ba giải pháp đột phá là: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác tổ chức, cán bộ. (2) Phát huy dân chủ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường đổi mới sáng tạo trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. (3) Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực”(15).
Những nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp đột phá mà Đại hội XIII của Đảng nêu ra đều hướng tới vấn đề then chốt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công tác cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ uy tín, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ được đề cập ở đây bao gồm cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp, trong đó Đảng ta đặc biệt chú trọng tới vai trò của người đứng đầu; bên cạnh đó là cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhà nước; cán bộ khoa học; cán bộ lực lượng vũ trang (lãnh đạo, chỉ huy); đội ngũ công chức, viên chức. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ hiện nay đều được đào tạo cơ bản từ hệ thống giáo dục quốc dân ở rất nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, đều trưởng thành từ thực tiễn công tác, được tuyển chọn, bổ nhiệm theo chiến lược cán bộ của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ trong hệ thống chính trị là những người được Đảng giáo dục, phân công đảm trách những chức vụ từ Trung ương tới cơ sở và có trách nhiệm vận hành hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vì sự phát triển, phồn vinh của đất nước, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.
Thực tế cho thấy, cán bộ, đảng viên làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý tốt, giỏi có vai trò quyết định đến sự phát triển của từng địa phương, từng lĩnh vực hoạt động và phạm vi phụ trách. Nếu cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, mà yếu kém thì kết quả lãnh đạo, quản lý cũng sẽ kém, trì trệ, ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, đến uy tín của Đảng và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và chế độ. Lựa chọn được cán bộ tốt sẽ góp phần đưa đất nước, địa phương, ngành, lĩnh vực đó phát triển; còn cán bộ kém sẽ dẫn đến không thành công, suy thoái, tham nhũng, tiêu cực. Uy tín, hình ảnh tốt đẹp của cán bộ lãnh đạo, quản lý bao giờ cũng là kết quả phản ánh sự phát triển và đổi mới sáng tạo. Ở đây, cần nắm vững quan điểm của Đảng, công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu là nhiệm vụ then chốt trong xây dựng Đảng và có vai trò, ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đất nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm sự phát triển thực chất cũng có nghĩa là thực hiện tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đặt ra. Điều đó đương nhiên phải gắn liền với hoàn thiện tổ chức bộ máy, xác định chức năng, nhiệm vụ rõ ràng và có cơ chế vận hành thông suốt. Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng (tháng 10-2021) nêu rõ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”(16); trong đó, “Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, quán triệt sâu sắc vai trò của công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, có ý nghĩa quyết định mọi thành công của cách mạng nước ta cả trước mắt và lâu dài”(17).
Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh, công tác cán bộ phải gắn liền với thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, sự hoạt động đồng bộ của cả hệ thống chính trị. Theo đó, việc củng cố, giữ gìn uy tín, hình ảnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn trong toàn Đảng, trong cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn xã hội.
Uy tín, hình ảnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên phải được xây dựng dựa trên trình độ trí tuệ, năng lực thực hiện sự lãnh đạo, quản lý, phẩm hạnh, đạo đức của người cộng sản và phong cách khoa học, dân chủ, tình thương yêu đồng chí, đồng bào. Do vậy, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh đến nhiệm vụ tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Dù ở bất kỳ vị trí nào, người cán bộ cũng phải luôn ý thức đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ, thật sự chuyên nghiệp, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, ủng hộ.
Khi người cán bộ, đảng viên có được uy tín trong Đảng và trong nhân dân, được đồng chí, đồng bào quý trọng thì đó là niềm hạnh phúc, tự hào rất to lớn. Uy tín đó đến từ sự hết lòng, hết sức vì công việc, luôn luôn đặt lợi ích của tập thể, lợi ích chung lên trên hết, trước hết; không vụ lợi, thu vén lợi ích cho cá nhân, gia đình, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu lợi riêng; gương mẫu trong mọi việc; luôn luôn đề cao trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân; thật sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, dám vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực hành động vì lợi ích chung. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn luôn thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm”, đã “nói thì phải làm”, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh, như Bác Hồ từng nhiều lần căn dặn. Người cán bộ, đảng viên xây dựng cho mình phong cách làm việc dân chủ, đoàn kết, thân thiện; tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, bàn bạc với dân trước khi đưa ra quyết định; có khuyết điểm hay việc gì chưa làm tốt thì sẵn sàng, chân thành nhận lỗi và quyết tâm sửa chữa.
Uy tín, hình ảnh đẹp của người cán bộ, đảng viên còn bắt nguồn từ lối sống trong sáng, khiêm tốn, giản dị, hòa đồng, luôn luôn vì mọi người, tình yêu thương, quý trọng đồng chí và nhân dân; không quan liêu, xa dân; nói không với tham nhũng, lãng phí, xa hoa, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Hạnh dục phương”, nghĩa là đạo đức, phẩm hạnh phải vuông vắn, ngay thẳng, không làm điều gì khuất tất, biết giữ danh giá của mình, cũng là bảo vệ thanh danh của Đảng. Cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ chủ chốt, phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Đảng ta chú trọng đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái để làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh và cũng là để làm cho cán bộ, đảng viên biết chủ động tránh xa cái xấu, tích cực rèn luyện nhân cách, danh dự của người cộng sản. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, danh dự mới là điều cao quý, thiêng liêng nhất đối với người cán bộ, đảng viên. Để có được điều thiêng liêng, cao quý đó, mỗi người phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện và thực hiện trách nhiệm nêu gương; cần đề cao “tinh thần “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa””(18). Nếu có khuyết điểm thì dũng cảm, nghiêm túc “tự soi”, “tự sửa” và đó cũng là biện pháp quan trọng để giữ gìn danh dự, uy tín của người cộng sản. Ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW, “Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. Nghị quyết nhấn mạnh việc giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên.
Cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng thăm hỏi đồng bào_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Cán bộ, đảng viên của Đảng dù ở vị trí nào, chức vụ nào cũng đều cần có ý thức giữ gìn uy tín, danh dự, hình ảnh của mình để xứng đáng là cán bộ lãnh đạo, quản lý và nhận được sự tin yêu của nhân dân. Có được điều đó là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu lâu dài của bản thân mỗi người cán bộ, đảng viên, đồng thời có sự quan tâm giúp đỡ của tổ chức trong công tác cán bộ và sự tín nhiệm của đồng chí, của nhân dân. Đến lượt mình, hình ảnh và uy tín lại là điều kiện cần thiết bảo đảm cho mỗi người thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ và cống hiến, góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Nếu không chú trọng giữ gìn những giá trị cao quý đó, không kiểm soát được bản thân, sa vào chủ nghĩa cá nhân, để cho tham vọng quyền lực, ham muốn lợi ích vật chất chi phối sẽ dẫn tới tham nhũng, quan liêu, lãng phí, xa hoa và những tiêu cực khác, tự biến mình thành “quan cách mạng” như cách gọi của Bác Hồ; “những ông vua con” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở, phê bình. Và như thế, người cán bộ sẽ tự làm xấu đi hình ảnh, mất hết uy tín, không thể làm tròn nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân tin tưởng, giao phó.
Cán bộ cấp chiến lược có vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp cách mạng của Đảng, xã hội và đất nước. Đội ngũ này góp phần hoạch định và trực tiếp lãnh đạo thực hiện những vấn đề chiến lược của cách mạng. Uy tín cao và hình ảnh đẹp của cán bộ cấp chiến lược là niềm tự hào của Đảng. Tuy nhiên, nếu cán bộ nào mắc sai phạm thì đều gây tác động xấu trong Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân; vì vậy, cán bộ cấp chiến lược lại càng phải đặc biệt chú trọng giữ gìn uy tín và danh dự của mình. Đối với cán bộ, đảng viên các cấp, uy tín và danh dự luôn luôn được nhân dân quan tâm, theo dõi. Trong công việc và cuộc sống, nhất là khi tiếp xúc trực tiếp với dân, người cán bộ cần phải giữ gìn hình ảnh và uy tín của mình để được nhân dân tin yêu, quý trọng, góp phần bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc đi đến thắng lợi./.
Để chuẩn bị cho sự kiện lãnh đạo huyện về thăm, chúc Tết và trồng cây đầu năm, ngay từ trước Tết, ông Tú là Bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn đã đích thân chọn một cây được trồng từ lâu, đang xanh tốt ở ngay trong khuôn viên nhà văn hóa thôn và "lệnh" cho chi đoàn thanh niên đào đất xung quanh gốc cây lên, dán giấy sọc xanh đỏ vào cán xẻng, làm bảng biển lưu niệm.
Tết đến, Xuân về, cán bộ, chiến sĩ toàn quân có thêm niềm vui mới, khí thế mới để bước sang năm 2023.
Chúng ta đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2022, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc. Nhờ đó, phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng thêm tỏa sáng; uy tín, vị thế của Quân đội ngày càng được nâng cao; cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin yêu, hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. Một trong những lĩnh vực nổi bật của công tác Đảng, công tác chính trị đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong năm 2022, cần tiếp tục phát huy trong năm mới là đẩy mạnh Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị tốt” của Quân đội ta.
Đúng vậy! Công tác dân vận là một trong những phương thức cơ bản để phát huy và lan tỏa phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”; vận động các tầng lớp nhân dân chăm lo xây dựng và khơi dậy tinh thần yêu nước, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị, các cơ quan, đơn vị và cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc mục tiêu, yêu cầu “Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”; tiến hành công tác dân vận một cách đồng bộ, toàn diện, thực chất, có chiều sâu, phù hợp với thực tiễn, đạt hiệu quả thiết thực, vững chắc, có sức lan tỏa sâu rộng trong toàn quân, toàn quốc.
Chúng ta đã phát huy tốt phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chủ động tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc, tạo sự ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Qua thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” càng thêm tỏa sáng. Cán bộ, chiến sĩ đã kiên trì, nỗ lực phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, “bám dân, bám địa bàn”, giúp đồng bào xóa bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng thôn, bản, ấp văn hóa; tham gia phòng, chống tội phạm, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động truyền đạo trái pháp luật, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Nhiều mô hình, điển hình tiêu biểu, có sức lan tỏa mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, như: “Mái ấm biên cương”, “Thầy thuốc, thầy giáo quân hàm xanh”, “Nâng bước em đến trường”, “Tết quân dân”, “Bệnh xá quân dân y”, “Hành quân dã ngoại làm công tác dân vận”, “Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân”... Vì vậy, tổng kết Phong trào thi đua “Dân vận khéo” giai đoạn 2016-2021: Chủ tịch nước tặng Quân đội Nhân dân Việt Nam Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất và hơn 15.000 điển hình “Dân vận khéo” được các cấp khen thưởng. Đây là minh chứng sinh động về hiệu quả phát huy và tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.
Cùng với đó, toàn quân đã xây dựng gần 6.000 ngôi “Nhà tình nghĩa”, “Nhà Đại đoàn kết”; phụng dưỡng thường xuyên hơn 3.000 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; tặng gần 7.000 sổ tiết kiệm; tìm kiếm, quy tập được hơn 5.000 hài cốt liệt sĩ, xét duyệt chế độ chính sách cho hơn 1.720.000 người tham gia kháng chiến… Hằng năm, hàng chục nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ và dân quân tự vệ trên cả nước với hơn 1 triệu ngày công tham gia tham xây dựng nông thôn mới, làm mới và tu sửa hàng nghìn ki-lô-mét đường giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng và tổ chức khám, chữa bệnh, tư vấn sức khỏe, cấp thuốc miễn phí cho hàng trăm nghìn lượt người...
Cán bộ, chiến sĩ đã thực hiện tốt nhiệm vụ “chiến đấu” trong thời bình, luôn là lực lượng xung kích, đi đầu, có mặt ở những “điểm nóng”, nơi khó khăn, nguy hiểm nhất để giúp nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn... Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch Covid-19, toàn Quân đã tổ chức gần 200 điểm tiếp nhận cách ly; gần 10.000 người thực hiện nhiệm vụ chốt chặn, kiểm soát chặt chẽ trên toàn tuyến biên giới; thành lập hàng chục bệnh viện dã chiến truyền nhiễm, khu vực cách ly; thành lập hơn 2.100 tổ quân y lưu động với trên 100.000 cán bộ, nhân viên quân y, huy động hàng nghìn xe và lái xe, nhân viên tiếp nhận, vận chuyển vắc-xin tới các địa điểm tiêm chủng; ủng hộ quỹ vắc-xin của Chính phủ và các địa phương trong phòng, chống dịch với số tiền gần 1.600 tỷ đồng... Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” chịu đói khát, nhường doanh trại, khẩu phần ăn cho nhân dân, lăn lộn nơi “tâm dịch”, các “điểm nóng”, xả thân cứu nạn nhân thoát khỏi dịch bệnh, bão lũ, thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn còn đọng lại mãi trong lòng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế với sự ngưỡng mộ, trân trọng và tin yêu.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Đặc biệt, ở trong nước, tình hình biên giới, biển, đảo còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định; thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân, thực hiện “phi chính trị hóa” Quân đội.
Vì vậy, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân của Quân đội thật năng nề, niềm vinh dự thật lớn lao. Để xứng đáng là lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân; mãi mãi xứng đáng với lời khen tặng của Bác Hồ kính yêu “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội”; Quân đội “Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân”; nhất thiết mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nhận thức sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác dân vận cũng như chức năng, nhiệm vụ của Quân đội trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, cán bộ, chiến sĩ cần xác định đúng vai trò chủ thể - vị trí trung tâm của nhân dân trong phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc cần, đặc biệt là những nơi khó khăn, gian khổ nhất, phức tạp nhất để giúp đỡ nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tô thắm truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” - Bộ đội của Nhân dân, vun đắp mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt, “cá nước” giữa Quân đội với Nhân dân.
Cùng với đó, chủ động, tích cực đổi mới nội dung, hình thức tiến hành công tác dân vận, hướng về cơ sở. Phối hợp với cơ quan dân vận và tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong thực hiện Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”. Làm tốt công tác giáo dục, quản lý bộ đội, chấp hành nghiêm kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, chống chủ nghĩa cá nhân; xây dựng mối quan hệ gắn bó đoàn kết máu thịt giữa Quân đội với nhân dân. Thực hiện tốt 10 Lời thề danh dự và 12 Điều kỷ luật của quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, một lòng, một dạ “phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”./.
Yêu nước ST.
CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN
QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng
nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống nhân ái quý báu của
dân tộc Việt Nam, tinh hoa giá trị nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao làtư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa của chủ
nghĩa Mác – Lênin vào lĩnh vực quân sự; là sự thống nhất giữa tư tưởng bạo lực
cách mạng với tư tưởng nhân văn, nhân đạo, hoà bình với khát vọng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; tin tưởng mãnh liệt vào sức
mạnh và phẩm giá con người trong các hoạt động quân sự nhằm hiện thực hoá mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là:
Giá trị nhân văn trong truyền thống của dân tộc Việt Nam
và của nhân loại được kết tinh và thể hiện sâu sắc trên tầm cao mới trong tư tưởng
nhân văn quân sự Hồ Chí Minh
Lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên truyền thống văn hoá đặc
sắc, cốt lõi là tinh thần dân chủ, nhân
đạo, nhân văn trong giành, giữ, sử dụng sức mạnh góp phần thực hiện thắng lợi
công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Biểu hiện
cao nhất của truyền thống nhân văn của nền văn hoá Việt Nam là luôn hướng tới mục đích vì con người, giải phóng con người, tôn trọng
quyền con người và tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, hài hoà, toàn
diện. Đó là tính nhân văn sâu sắc, cốt lõi của một nền văn hoá, những giá trị
tiêu biểu ấy luôn thể hiện đậm nét tính chân thực, cụ thể, có khả năng đi vào
cuộc sống. Giá trị nhân văn ưu việt của dân tộc ta luôn được thấu triệt trong
hệ tư tưởng chính trị, qua các quyết sách nhằm phục vụ cuộc sống của mỗi cá
nhân, cộng đồng và phát triển xã hội.
Con người
luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của quá trình phát triển. Tiến trình
phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam và của nhân loại nói chung cho thấy,
các thời đại đều coi trọng vị trí, vai trò con người, coi con người là nhân tố
quyết định sự phát triển. Nếu Khổng Tử ở Trung Quốc quan niệm: “Dân vi bang bản” (Dân là gốc của nước),
thì ở Việt Nam, Nguyễn Trãi coi “dân” là “sỹ,
nông, công, thương”, là người dân “nơi
thôn cùng, xóm vắng” để đi đến khẳng định đó là những người mà sức mạnh của
họ như “nước” để “đẩy thuyền” và “lật thuyền”... Do đó, trong lịch sử dựng nước
và giữ nước, ông cha ta đã dùng nhiều kế sách đặc sắc, thể hiện tính nhân văn
nhằm xây dựng, phát triển dân tộc và con người. Trong quan hệ với nước lớn, với
bè bạn, láng giềng, thậm chí với kẻ thù, người xưa đều thực hiện các quyết sách
hòa bình, hữu nghị, hợp tác vì sự phát triển và tiến bộ để tạo môi trường thuận
lợi cho sự tồn tại, phát triển. Phan Huy Chú nêu rõ phương châm: “Trong việc
trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn”1, còn Trần Hưng Đạo
thì khẳng định: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị nước, hành binh. Hòa ở
trong thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài thì không bị báo động”2.
Trong cuộc kháng chiến chống Tống, dù đang ở thế chủ động, Lý Thường Kiệt vẫn
tìm mọi cách “dùng biện sỹ để bàn hòa, khiến tướng giặc phải buông vũ khí, quân
ta đỡ tốn xương máu mà giữ yên xã tắc”3. Trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh, dù đang ở thế thắng, nhưng Lê Lợi, Nguyễn Trãi vẫn chủ trương
giảng hòa để kết thúc chiến tranh. Vì vậy, hơn 10 vạn quân Minh trước khi được
tha về nước với đầy đủ quân lương đã đến doanh Bồ Đề để lạy tạ Lê Lợi, Nguyễn
Trãi và nghĩa quân Lam Sơn. Khẳng định tinh thần nhân nghĩa đó của người Việt
Nam, Nguyễn Trãi đã đúc kết:
“ Nghĩ kế
nước nhà trường cửu,
Tha cho mười vạn hàng binh,
Gây lại hòa hảo cho hai nước,
Dập tắt chiến tranh muôn đời”4.
Giá trị văn
hoá ưu việt của nhân loại đều coi trọng con người, coi con người là chủ thể của
sự phát triển, từ đó yêu cầu trong quan hệ giữa con người với nhau phải có
thái độ nhân đạo, bình đẳng.
Những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, hướng tới hòa bình, xóa chiến
tranh, làm điều thiện cho nhau…, trong văn hóa phương Tây; cứu nhân độ thế, cứu
một người phúc đẳng hà sa, chú trọng giáo hóa để thoát khỏi u mê, mở mang trí
tuệ, trừ bỏ lòng tham lam và sự nóng giận, tiêu diệt cái ác, vun trồng điều
thiện..., trong văn hóa phương Đông đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu, gạn lọc, kế
thừa những hạt nhân hợp lý, phù hợp phát triển lên tầm cao mới thể hiện ở mục
tiêu chính trị của cách mạnggiàu tính dân chủ, nhân đạo, nhân văn.
Đặc biệt, tư
tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là biểu hiện sâu sắc của quá trình nghiên
cứu, kế thừa, phát triển sáng tạo chủ nghĩa nhân đạo cộng sản - hạt nhân của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoạt động quân sự. Quan điểm mácxít đã chỉ rõ cơ sở
khoa học cho sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột hà khắc của các giai cấp thống trị, giải
phóng xã hội, giải phóng con người khỏi hủ tục lạc hậu, trì trệ, để phát triển
toàn diện, vươn tới tự do, hạnh phúc..., đã được Hồ Chí Minh thực hiện bằng
phương pháp nhân văn trong mọi hoạt động của mình. Người nêu rõ: “Hiểu chủ
nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình nghĩa”5, đó là
cốt lõi của cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh.
Như vậy, tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là sự kế thừa sâu sắc, phát
triển sáng tạo những giá trị ưu việt của truyền thống dân tộc và nhân loại;
luôn xuất phát từ khát vọng giải phóng con người, tôn trọng giá trị nhân phẩm
con người, coi quyền con người được phát triển tự do, hạnh phúc là tiêu chuẩn
đánh giá các quan hệ xã hội; phải thừa nhận các nguyên tắc bình đẳng, công
bằng, nhân đạo trong quan hệ giữa con người với con người. Vì vậy, sự nghiệp
giải phóng con người phải gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ra khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là hệ thống quan
điểm lý luận về con người trong hoạt động quân sự, được
thấm đượm trong lĩnh vực hoạt động quân sự
Bản chất con
người, trong tính hiện thực của nó, là tổng hoà các quan hệ xã hội. Do đó,
trong quan niệm của Hồ Chí Minh, muốn giải phóng và tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện phải thay đổi những quan hệ kìm hãm, trói buộc con người.
Nghĩa là, phải xoá bỏ tình trạng người bóc lột người, thiểu số thống trị đa số,
xây dựng quan hệ bình đẳng giữa con người với con người, tạo lập hệ thống những
quan hệ xã hội tốt đẹp. Chủ
nghĩa thực dân, đế quốc đã sử dụng sức mạnh bạo lực phản cách mạng kết hợp với
những thủ đoạn nham hiểm để nô dịch con người và các dân tộc thuộc địa, cho nên
các dân tộc bị áp bức phải sử dụng bạo lực cách mạng nhằm chống lại, đập tan
bạo lực phản cách mạng để giải phóng mình. Vì lẽ đó, bạo lực cách mạng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, tự bản thân nó đã thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân văn, nhân
đạo, hoà bình.
Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí
Minh là tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, lấy hạnh phúc của con người làm nguyên tắc cao nhất. Trong cuộc chiến đấu
ấy, con người phải được giải phóng cả về thể chất lẫn tinh thần, thoát khỏi mọi
áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc; con người thực sự làm chủ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng hợp lực xây dựng cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc; mọi người đều được phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất,
tinh thần, đạo đức trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia đình và xã hội.
Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là tư
tưởng nhân văn cộng sản được vận dụng nhuần nhuyễn vào lĩnh vực quân sự ở Việt Nam.
Các nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đều thấm đượm tư tưởng nhân văn cộng
sản, đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp; trong lựa chọn các phương pháp cách mạng, trong đó vũ trang cách mạng là
phương pháp mang tính phổ biến để giành độc lập dân tộc, giành tự do, hạnh phúc
cho nhân dân; sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc gắn chặt với công cuộc bảo vệ hoà bình ở
khu vực và thế giới.
---------------------------------------- 1-.
Phan Huy Chú, Lịch triều
hiến chương loại chí, tập 3, Nxb KHXH, H. 1993, t.1, tr. 135 2-. Trần
Quốc Tuấn, Binh thư
yếu lược, Nxb KHXH, H. 1977, tr. 108 3-. Những
vấn đề cơ bản của Văn hóa chính trị Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2008, tr. 180 4- Những
vấn đề cơ bản của Văn hóa chính trị Việt Nam, Sđd, tr. 181 5-Hồ
Chí Minh: Toàn tập, tập12, Nxb CTQG, H.2000, tr. 554
TƯ TƯỞNG
NHÂN VĂN QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH – CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ ĐÁNH GIÁ CHIẾN TRANH TRONG
THỜI ĐẠI MỚI
Tư tưởng Hồ
Chí Minh - Hệ thống toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Trong đó hệ thống đồ sộ đó, tư tưởng quân sự là cơ sở đặt nền móng của học thuyết quân
sự cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng
nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là nét đặc sắc, cốt lõi trong tư tưởng quân sự của
Người. Bởi nó thấm đượm giá trị ưu việt của truyền thống nhân văn Việt Nam và
nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Tư tưởng nhân văn quân sự
Hồ Chí Minh coi con người vừa là mục tiêu giải phóng vừa là động lực của cách
mạng. Trong khi khẳng định mục tiêu cao cả của cách mạng là đấu tranh vì độc
lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng nhân loại
và mỗi con người, Hồ Chí Minh cũng xác định sự nghiệp ấy phải do chính con
người thực hiện.
Tư tưởng
nhân văn quân sự Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung cơ bản về mục đích của khởi
nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng; tư tưởng về sử dụng bạo lực cách mạng
chống lại bạo lực phản cách mạng; tư tưởng bạo lực cách mạng luôn thống nhất
với tư tưởng nhân đạo, hòa bình trong các hoạt động khởi nghĩa vũ trang toàn
dân; chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính; tư
tưởng về xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng
nền quốc phòng toàn dân v.v. Tất cả đều toát lên khát vọng giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người; mối quan hệ giữa dân tộc, Tổ quốc,
thời đại; vấn đề chiến tranh, hoà bình đều được giải quyết trên cơ sở chủ nghĩa
nhân văn ở cấp độ cao nhất - nhân văn cộng sản chủ nghĩa.
Ngày nay,
thế giới liên tục đổi thay, tư tưởng con người sẽ chịu tác động của yếu tố cả
tích cực và tiêu cực, nhất là các cuộc xung đột đang diễn ra trên thế giới,
ngay cả trong đất nước nước mà trước đây là cái nôi của cách mạng vô sản thế
giới. Điều đó nhắc nhở chúng ta khi đánh giá một cuộc chiến tranh cần phải có
cách nhìn khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Muốn vậy cần pahỉ có luận cứ
khoa học đúng đắn - Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là một trong những
luận cứ đó.