Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN

Thuật ngữ "nhà nước kiến tạo phát triển" chưa được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến lúc sinh thời, tuy nhiên, vấn đề kiến tạo (kiến thiết) phát triển đất nước (quốc gia) đã được Người đề cập nhiều với các khía cạnh khác nhau trong các tác phẩm, bài viết và bài nói của mình.

Điều này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển nhằm thực hiện mục tiêu "dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đó chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm thực hiện trong suốt cuộc đời cách mạng của mình.
Nói đến nhà nước kiến tạo phát triển là nói đến vai trò trung tâm của Nhà nước trong việc kiến tạo các đường lối, chủ trương, chính sách, tạo môi trường, điều kiện để mọi cá nhân, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có thể phát huy năng lực, sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và cho cả dân tộc. Trong hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua một quá trình tìm tòi, khảo nghiệm sâu sắc nhiều cuộc cách mạng để xác định một thể chế nhà nước thích hợp. Đó là nhà nước kiểu mới có sự thay đổi hoàn toàn về chất so với tất cả các kiểu nhà nước từng có trong lịch sử nước nhà, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân. Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng hoàn toàn chủ động trong việc thiết kế chiến lược phát triển đất nước với đường lối "kiến quốc" trên tất cả các lĩnh vực. Người đã xác lập các cơ sở, nền móng pháp lý tổ chức, hoạt động của một nhà nước liêm khiết, kiến tạo và hành động vì nhân dân. Các cơ sở pháp lý đó là nền tảng tư tưởng để tổ chức, xây dựng, hoàn thiện nhà nước qua các giai đoạn cách mạng của dân tộc.
Nhà nước kiến tạo phải đảm bảo dân là chủ của nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh "Dân là gốc của nước", "nước lấy dân làm gốc" là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức, xây dựng nhà nước. Do vậy, sau khi lãnh đạo toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám "long trời, lở đất", Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay ngay vào xây dựng một nhà nước theo tinh thần dân chủ, tiến bộ "Nhà nước dân chủ, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Quan trọng nhất là nhà nước đó phải do nhân dân bầu ra bằng cuộc bầu cử dân chủ. Với quyết tâm đó, ngay trong những năm tháng đầu tiên của chính quyền nhân dân, dù biết bao công việc đặt ra đối với chính quyền non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên định chủ trương Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu trong cả nước, để cho nhân dân được thực hiện quyền lợi thiêng liêng của mình. Đây là lần đầu tiên, sau hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và gần một trăm năm dưới ách thống trị thực dân, người dân Việt Nam được tự do lựa chọn những người có đủ tài, đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong điều kiện "thù trong, giặc ngoài" đe dọa, nhưng nhân dân ta đã tiến hành Tổng tuyển cử thành công, bầu ra Quốc hội; Quốc hội đã cử ra Chính phủ - một Chính phủ thực sự của nhân dân.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển là ở chỗ Chính phủ, các cơ quan công quyền là công bộc của dân, các cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng". Đã là một nước dân chủ, thì mọi lợi ích đều là của dân, mọi phấn đấu của Chính phủ, của cán bộ đều vì dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Do đó, "quyền hành và lực lượng" của nhà nước đều ở nơi dân.
Mặt khác, Chính phủ do dân bầu ra, dân có quyền bãi miễn Chính phủ, nếu Chính phủ không làm tròn phận sự, không xứng đáng với niềm tin của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ", "Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa".
Nhà nước kiến tạo còn có một nội dung quan trọng là nhân dân có quyền tham gia công việc quản lý nhà nước; sao cho các quyết định của cơ quan nhà nước đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân; phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Mọi nguồn lực mà nhà nước có để hoạt động đều được huy động từ dân. Theo Người, nhà nước của dân, do dân làm chủ phải là nhà nước luôn luôn đặt dưới sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân. Sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước không có nghĩa là bó buộc nhà nước, là nhân dân không tin vào nhà nước; trái lại là để nhà nước ngày càng trưởng thành và lớn mạnh hơn, luôn giữ vững được bản chất cách mạng của mình. Có thể coi đây là tư tưởng độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải là nhà nước "phục vụ quyền lợi nhân dân"
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước lấy sự tự do và hạnh phúc của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của mình. Nhà nước không có mục đích tự thân nào, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, theo phương châm: việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra yêu cầu: Chính phủ là công bộc của dân; các công việc của Chính phủ làm phải nhằm mục đích duy nhất là đem lại tự do, hạnh phúc cho con người; Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi của nhân dân trên hết thảy. Do vậy, ngay sau khi giành được độc lập, đứng trước muôn vàn khó khăn, nhất là nạn đói đang hoành hành, đe dọa trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân, nhưng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách để cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý và bất công của chế độ cũ; đồng thời, phát động phong trào tăng gia sản xuất, khôi phục sản xuất, kinh doanh các ngành kinh tế, giao thông vận tải, v.v. Những thay đổi trong chính sách kinh tế đó thực sự là vì lợi ích dân tộc, bước đầu góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tạo thêm niềm tin tưởng của toàn dân đối với Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ.
Đi đôi với việc giải quyết nạn đói, xây dựng nền kinh tế độc lập, phục vụ lợi ích nhân dân, Chính phủ cũng đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục, trước hết là chống "giặc dốt". Theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, sắc lệnh để xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam mới, theo nguyên tắc: "Đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân tộc".
Bên cạnh xây dựng nền giáo dục mới, Chính phủ nước Việt Nam còn xây dựng các thiết chế văn hóa mới, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phục vụ để đem lại đời sống tinh thần phong phú cho nhân dân, đảm bảo được quyền hưởng thụ văn hóa của nhân dân... Có thể nói, những chính sách lớn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi giành được chính quyền đã mang đầy đủ ý nghĩa xây dựng một xã hội mới. Một xã hội trong đó người dân không chỉ có cơm ăn áo mặc mà còn được hưởng các quyền tự do dân chủ, các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Một xã hội không chỉ quan tâm đến mức sống mà còn quan tâm tới chất lượng cuộc sống. Một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ, đạt tới mục tiêu tự do hạnh phúc cho con người.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải tạo ra được cơ chế, chính sách khuyến khích để các nguồn lực của xã hội được đầu tư cho mục tiêu phát triển.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng một nhà nước kiến tạo cần phải lấy sự ấm no, hạnh phúc của người dân, sự thành công của các doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước làm phương châm hành động của mình. Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 13/3 đến ngày 21/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay... Tất cả phục vụ sản xuất. Tất cả chúng ta, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào, đều phải góp sức làm cho sản xuất phát triển... Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình".
Những năm 70 của thế kỷ XX đã chứng kiến làn sóng cải cách, chuyển đổi từ chính phủ quản lý truyền thống sang "chính phủ kiến tạo phát triển" hoặc "chính phủ doanh nghiệp" phù hợp với xu thế toàn cầu hóa được các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Ca-na-đa... đề xướng và thực hiện. Nhưng trước đó hơn 20 năm, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 01/01/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất triết lý chính phủ doanh nghiệp: "Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, hay bỏ, món gì đáng tiêu, người nào đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận". Triết lý này có vai trò định hướng trong hoạch định chính sách kinh tế và điều hành hoạt động của chính quyền các cấp trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh.
Theo triết lý đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương Chính phủ cần tạo môi trường cho doanh nghiệp và người dân khởi nghiệp để công tư đều lợi, kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Trong cuốn "Thường thức chính trị" xuất bản năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế, thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đường, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho giới công thương và các giới khác. Người cho rằng, quyền tư hữu tài sản của công dân được bảo đảm và Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của những người lao động riêng lẻ. Trong Thư gửi các giới Công Thương Việt Nam, Người khẳng định Chính phủ tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh và người dân làm ăn thuận lợi trong công cuộc ích nước, lợi dân: "Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công - Thương nỗ lực và khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập vào "Công - Thương cứu quốc đoàn" cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân". Điều này đã tác động tích cực đến việc huy động các nguồn lực và tiềm năng to lớn của Nhân dân trong xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước, đồng thời thể hiện tầm chiến lược sâu sắc, cách nhìn biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của nhà nước.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải là nhà nước pháp quyền
Để thực sự nhà nước là kiến tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ là phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước hợp pháp và hợp hiến, được nhân dân tổ chức nên thông qua tuyển cử, được xây dựng và hoạt động theo các nguyên tắc của Hiến pháp. Nó không phải là vũ khí của giai cấp công nhân thống trị xã hội, dùng để trừng trị các giai cấp khác, nó cũng không phục vụ lợi ích cho riêng một tầng lớp người nào, mà nó phục vụ lợi ích của toàn dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý quan trọng nhất là bằng Hiến pháp và pháp luật. Muốn vậy, trước hết, cần làm tốt công tác lập pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện đại. Ở cương vị nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai lần tham gia Ủy ban soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước và pháp luật cũng như nhiều văn bản dưới luật khác. Trong bối cảnh đất nước vừa kháng chiến vừa kiến quốc, sự ra đời của hệ thống luật pháp thể hiện rất rõ nỗ lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác lập pháp.
Cùng với công tác lập pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, rất quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng đến vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng một Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người hướng tới điều thiện làm căn bản. Cho nên, ngay khi thành lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ngay lập tức tuyên bố xóa bỏ mọi luật pháp hà khắc của chính quyền thực dân phản động. Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở quan điểm xử lý các hành vi phạm pháp. Nguyên tắc "có lý, có tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của Người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp và tình huống cụ thể mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải nghiêm túc, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai nhằm ngăn cái xấu, cái ác, phát huy cái tốt, cái thiện chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Người căn dặn: "Không xử phạt là không đúng. Song chút gì cũng trừng phạt cũng là không đúng". Chủ tịch Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng, bao dung nhưng không bao che, khoan hồng nhưng nghiêm khắc, luôn đấu tranh một cách chân thành, thẳng thắn với những khuyết điểm, sai lầm, với những hành vi phạm pháp. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo đức thấm sâu vào trong mọi quy định của pháp luật. Đó là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa "đức trị" và "pháp trị"; trong "đức" có "pháp", và ngược lại. Hành cho tốt đức cũng là hành pháp đúng đắn; hành pháp đúng cũng tức là thực thi đức tốt.
Trong bộ máy nhà nước kiến tạo phát triển, Chính phủ phải liêm khiết, hành động có hiệu quả
Muốn xây dựng được nhà nước kiến tạo, phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng một Chính phủ liêm khiết, có năng lực quản lý, điều hành đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi một Chính phủ có năng lực làm việc thì sẽ giải quyết được nhiều nhiệm vụ của nước nhà, đem lại lợi ích cho quốc gia - dân tộc, cho nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của đất nước, để đủ sức bảo vệ được chính quyền. Ngược lại, nếu Chính phủ yếu kém về năng lực thì sẽ không làm được gì cho dân, thậm chí còn làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc, khó có thể đứng vững trước khó khăn, thử thách. Mặt khác, một Chính phủ kém năng lực lại không liêm khiết thì tất yếu sẽ bị dân bãi miễn trước khi bị kẻ thù phá hoại. Cho nên, muốn bảo vệ được chính quyền thì trước hết phải chăm lo xây dựng chính quyền đó vững mạnh, một chính quyền hợp pháp, do dân cử ra, thực sự vì dân, trong sạch, liêm khiết và có năng lực thực thi công việc.
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH". Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đây là một trong sáu vấn đề khẩn cấp mà Chính phủ lâm thời phải giải quyết sau khi giành được độc lập. Được Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới, tại phiên họp ngày 31/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội: "Tuy trong quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết. Theo lời quyết nghị của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà".
Để xây dựng một Chính phủ liêm chính, hành động có hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng công tác tuyển chọn, giáo dục cán bộ có đủ tài đức, trong đó đạo đức là gốc, cán bộ nhà nước phải là những người công tâm, trung thành, có năng lực làm việc và có uy tín, chứ không chấp nhận việc tuyển dụng, đề bạt cán bộ vì tiền tài, lợi ích nhóm hay vì những lý do không chính đáng khác. Người khẳng định: "Các ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương, phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các ủy ban đó".
Muốn có một chính quyền như vậy, phải có chính sách để thu hút nhân tài tham gia vào bộ máy của Chính phủ. Ngay sau khi thành lập Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi hiền tài tham gia Chính phủ, giúp nước, giúp dân. Người cho rằng, hiền tài của đất nước không thiếu, đang tiềm tàng trong dân, chưa có điều kiện bộc lộ. Muốn thu hút được nhiều hiền tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở rộng cửa Chính phủ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính, tuổi tác. Người viết: "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức". Vấn đề là phải "khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều".
Để xây dựng được một chính quyền mạnh, có đủ khả năng để quản lý, điều hành đất nước và đủ sức mạnh để tự bảo vệ cần phải huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy sức mạnh của chính quyền không những ở sức mạnh của tổ chức bộ máy luôn được kiện toàn, mà còn chủ yếu là ở sức mạnh được huy động từ khối đại đoàn kết toàn dân. Một chính quyền biết quy tụ được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ bảo đảm cho chính quyền đó luôn được xây dựng vững mạnh và bảo vệ vững chắc, không có thế lực nào có thể đánh ngã được.
Dù chỉ duy nhất một lần tuyên bố trước Quốc hội về một Chính phủ liêm khiết, nhưng trong một phần tư thế kỷ (1945-1969), Chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng Chính phủ kiến tạo ở các giai đoạn sau. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Người đã nêu một tấm gương sáng về phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Trải qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta đã không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất. Để xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải khắc phục tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, thiếu dân chủ, ý thức pháp luật kém… của một số cán bộ nhà nước và công dân, nhằm giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Nhà nước ta phải tiếp tục cải cách nền hành chính, cải cách tư pháp, kiên quyết trừng trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi Nhà nước ta phải vận dụng, kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, sâu sắc và toàn diện hơn nữa trên các lĩnh vực, trước hết là cải cách hành chính, hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, đưa đất nước phát triển với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay. Đây có thể được coi là cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng và Nhà nước xác định đúng đắn các mục tiêu, đề ra các giải pháp thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiến tạo sự phát triển quốc gia, thực hiện điều mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"./.
ST.

HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI: QUÂN Y Ở VÙNG CAO

Trên địa bàn biên giới tỉnh Hà Giang, đội ngũ quân y ở các Đồn biên phòng gắn bó với không chỉ cán bộ, chiến sĩ, mà cả người dân địa phương. Thiếu tá QNCN Phạm Văn Vinh, quân y Đồn Biên phòng Bạch Đích, là người có gần 30 năm gắn bó với dải đất biên cương. Đồn thuộc huyện Yên Minh. Anh Vinh cho biết theo quy định thì quân y của Đồn thường khám cấp thuốc cho bà con theo lịch. Song với trường hợp bị ốm kéo dài, nhất là khi thời tiết thay đổi thường xảy ra nhiều bệnh ở người già… thì việc thăm khám, cấp thuốc cho bà con được đơn vị chỉ đạo thực hiện ngay. Chẳng thế mà đi đến đâu, người dân cũng coi anh Vinh như là người thân vậy.

Đường vào bản Muồng 5, xã Bạch Đích khá quanh co, có nhiều đoạn đường đất. Nắng ráo thì còn đỡ vất vả, còn mưa xuống, phải lội bộ mới đến được với bà con. Khi nhiệt độ xuống thấp, ông Lùng Sí Sán thường bị tăng huyết áp, đau ngực kéo dài. Được quân y của Đồn Biên phòng thăm khám, cấp phát thuốc, sức khỏe của ông Sán có tiến triển tốt. Ông kể, đồn Biên phòng rất gần gũi với bà con. Khi ốm đau, ai cũng gọi điện báo cho các anh. Bộ đội Vinh lúc nào cũng nhiệt tình, chu đáo, dân bản rất yên tâm khi được bộ đội thăm khám.
Những lúc ở Đồn, anh Vinh đảm nhiệm chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cán bộ, chiến sĩ. Anh thực hiện đầy đủ các quy định, hướng dẫn của cơ quan chức năng về chế độ, tiêu chuẩn của bộ đội. Xây dựng chương trình cụ thể, gắn với chức trách được giao, anh chủ động tham mưu giúp lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hướng dẫn việc phòng, chống dịch bệnh, không để ngộ độc thức ăn xảy ra trong đơn vị, nhất là ở những thời điểm giao mùa, đảm bảo sức khỏe cho đồng đội ngày đêm bảo vệ đường biên, cột mốc của Tổ quốc.
Ngày còn ở nhà, anh được người thân bày cách chữa bệnh bằng thuốc Nam. Giờ đây ngoài kiến thức y học, anh Vinh còn nghiên cứu các vị thuốc dân gian để chữa bệnh thông thường cho cán bộ, chiến sĩ và bà con dân bản. Anh trồng vườn cây thuốc Nam để khi cần là có để dùng ngay.
Quãng thời gian gắn bó với biên cương ngần ấy năm, anh Vinh sống xa gia đình. Chị Phạm Thị Thu Hương, vợ anh công tác tại trạm Y tế thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Quê ngoại ở xa, bố mẹ chồng đều đã khuất núi, nên mọi công việc chị đều phải chủ động sắp xếp. Cùng làm ngành y, nên anh chị đều thấu hiểu công việc và hỗ trợ nhau những khi cần. “Lương y như từ mẫu”, lời dạy đó của Bác Hồ đã giúp vợ chồng Vinh - Hương dồn sức cho nhiệm vụ mà quên đi bao vất vả, nhọc nhằn và xa cách.
Xa chồng, nhưng chị Hương luôn biết thu vén công việc gia đình, chăm sóc con cái, động viên anh yên tâm công tác. Bao năm xa cách nhưng anh chị vẫn giữ được hạnh phúc gia đình, các con chăm ngoan, học giỏi. Phần lớn công việc gia đình, nuôi dạy các con là họ trao đổi với nhau qua những cuộc gọi video call nhưng có lẽ, sự xa cách lại là động lực cho hai người phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, vun đắp gia đình ngày càng hạnh phúc./.
ST.



NHẬN THỨC SÂU SẮC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CŨNG LÀ MỘT CÁCH PHÒNG NGỪA SỰ SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ!

     Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp hiện hữu của lịch sử khi đã “trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống” và thời gian càng lùi xa, sức sống và giá trị trong tư tưởng của Người càng tỏa sáng!
Việc luận giải sức sống bất hủ của tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn, vững tin hơn vào nền tảng tư tưởng của Đảng mà tự thân những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người là sự phủ nhận hữu hiệu đối với các ý kiến lệch lạc, xuyên tạc Hồ Chí Minh của các phần tử cơ hội chính trị. Mặt khác, việc khẳng định những giá trị trường tồn trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách giúp cán bộ, đảng viên phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị và những biểu hiện lười nhác, xem nhẹ việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thế kỷ 20 đầy bão tố đã khép lại cùng với sự đóng góp của nhiều vĩ nhân, trong đó có Hồ Chí Minh. Điều làm nên sức mạnh và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là những đặc tính tiêu biểu toát lên từ tư tưởng của Người.
1. Nội dung căn cốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Khát vọng tự do là đặc tính của con người nên khi chủ nghĩa thực dân đẩy vô số dân tộc vào vòng nô lệ, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là xu thế tất yếu của thời đại. Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh trở thành đại diện của các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho quyền được làm người, quyền được sống trong bình đẳng và tự do.

Được trang bị phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin và bằng trải nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đưa ra những phát kiến ở tầm thời đại về con đường cứu nước và phương hướng dựng nước của dân tộc Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Hồ Chí Minh có hệ thống quan điểm hết sức sáng tạo về phương thức giải phóng, đó là cách mạng thuộc địa phải tiến hành một cách chủ động, sáng tạo, không thụ động trông chờ vào cách mạng chính quốc và sẽ thành công trước cách mạng chính quốc. Thực hiện tư tưởng của Người, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập, tự do mà thắng lợi của nhân dân Việt Nam còn góp phần làm tan vỡ hệ thống thuộc địa trên quy mô toàn thế giới. Vì thế, Hồ Chí Minh được mệnh danh là người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ. Nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen đã viết: “Sự nghiệp vô tư và quên mình của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nền độc lập và thống nhất của Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ nay đã làm cho Người trở thành không những là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà còn là kiến trúc sư nổi tiếng của thế giới đã thoát khỏi chủ nghĩa thực dân”.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh kết tinh những giá trị vĩnh hằng của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là Nhà văn hóa hòa bình bởi Người luôn nỗ lực giải quyết xung đột với dân tộc khác bằng con đường đối thoại văn hóa, khi buộc phải tự vệ thì Người chủ động hạn chế không gian chiến tranh ở Việt Nam để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới. Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình nhưng đó phải là hòa bình thực sự-hòa bình trong độc lập, tự do bởi đúng như Người đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là giá trị đạo đức. Một con người yêu nước, một dân tộc có lòng tự tôn sẽ không cam tâm sống cuộc đời nô lệ. Khi thế giới còn đầy rẫy sự bất công, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý lớn của thời đại.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng đoàn kết và hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”. Có thể coi đây là khởi phát của chiến lược đoàn kết quốc tế của Người. Cần nhấn mạnh rằng, chiến lược ấy ra đời không chỉ vì mục tiêu chính trị mà còn xuất phát từ tình cảm đồng loại: “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Vì trong bốn biển đều là anh em”. Tình cảm ấy ở người cộng sản Nguyễn Ái Quốc hết sức sâu đậm nên từ năm 1923, nhà thơ Xô viết Ôxip Manđenxtam đã cảm nhận: “Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy được ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”.

Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Người không ngừng giáo dục nhân dân về tình hữu nghị, về đạo lý “giúp bạn là tự giúp mình”. “Chiến tranh lạnh” đẩy các quốc gia vào thế “đối đầu” nhưng Hồ Chí Minh vẫn kiên trì khẳng định: “Các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh là người luôn tìm cách quy tụ thay cho loại trừ, luôn nỗ lực tìm ra “mẫu số chung” chứ không “khoét sâu” sự khác biệt. Với tinh thần “tìm sự thống nhất trong đa dạng”, Hồ Chí Minh không chỉ là người có tư duy quốc tế hiện đại, tinh thần khoan dung văn hóa mà còn là đại sứ của Việt Nam trên toàn cầu.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần đổi mới và hội nhập-xu thế lớn của thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh là người đặc biệt nhạy bén với cái mới. Người định nghĩa cách mạng cũng từ góc độ này: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Trung thành với Chủ nghĩa Mác nhưng Người vẫn đặt câu hỏi: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng mà còn phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng một loạt luận điểm mới, phù hợp với cách mạng Việt Nam. Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người căn dặn cán bộ tuyệt đối không được giáo điều, bảo thủ. Trong "Di chúc" để lại, mặc dù không trực tiếp sử dụng khái niệm “đổi mới” nhưng Người đã phác thảo một chiến lược đổi mới trên nét lớn và căn dặn: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Sự nghiệp đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề xướng đã trở lại đúng tinh thần đó và thành tựu do đổi mới mang lại thực sự vĩ đại. Đó là minh chứng cho khả năng dự báo chiến lược của Hồ Chí Minh. Khi thế giới đang phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có như hiện nay, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh càng trở nên ý nghĩa.

Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng cho chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ngay khi nhà nước cách mạng mới ra đời và chưa được quốc gia nào công nhận, chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư đã được Người khẳng định trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” (tháng 12-1946). Trong thương mại quốc tế, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”. Ngày nay, hội nhập quốc tế toàn diện đã trở thành xu thế tất yếu nhưng vào thập niên 1940, chủ trương của Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế với các nước có sự khác biệt về ý thức hệ và thể chế chính trị, thực sự là tư duy hết sức mới mẻ, tiến bộ.

5. Tư tưởng văn hóa-đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc mà còn để lại hình mẫu về văn hóa làm người.
Với Hồ Chí Minh, văn hóa không phải là cái gì quá cao siêu mà phải trở thành “văn hóa đời sống”, tức là văn hóa phải góp phần loại bỏ những gì lạc hậu, dốt nát, phù hoa, xa xỉ trong tập tục và nâng cao dân trí để mỗi người giải phóng hết “năng lực người” của mình.

Hồ Chí Minh rất sâu sắc khi cho rằng, việc tiếp thu văn hóa nhân loại phải song hành với việc quảng bá văn hóa dân tộc vì ngoài vấn đề lợi ích thì đó còn là sự dâng hiến theo tinh thần “mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng”. Hàm chứa những quan điểm hết sức sâu sắc, cho nên, UNESCO đánh giá: Tư tưởng Hồ Chí Minh “là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

Hồ Chí Minh còn là nhà tư tưởng đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Nói về tầm quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đạo đức là cái gốc của con người, là sức mạnh của người cách mạng và Đảng cách mạng, là điều kiện để con người vươn tới tài năng, là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của học thuyết cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cao nhất chính là suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và nhân loại.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giàu sức thuyết phục không chỉ bởi đặc tính khoa học, nhân văn mà còn vì cuộc đời “trong như ánh sáng” và sự hiến dâng trọn vẹn cho dân, cho nước của Người. Không chỉ nhân dân Việt Nam, các trí tuệ lớn của thời đại cũng đã thừa nhận: "Nói tới một con người mà cả cuộc đời mình đã để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Hồ Chí Minh". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh-mẫu mực điển hình về sự trong sáng, cao thượng, luôn hòa quyện trong nhau và có ý nghĩa thời sự rất lớn đối với một thế giới nhiều nghịch lý hiện nay.

Thế giới ngày càng giàu có và hiện đại nhưng do sự phát tác thái quá của chủ nghĩa cá nhân, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các tầng lớp và dân tộc, không ít người đã rơi vào khủng hoảng lẽ sống, niềm tin. Điều đó dẫn đến sự gia tăng bạo lực và lối sống lệch lạc của một bộ phận dân chúng. Đến mức, có người dùng cụm từ “dã man trong văn minh” để nói về thế giới hiện đại. Sinh thời, Thủ tướng Ấn Độ Nêru đã kết luận rất đúng rằng: “Thế giới ngày nay đang trải qua một cuộc khủng hoảng... Cái cần bây giờ là tiếp cận hòa bình, hữu nghị và tình bạn. Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự tiếp cận đó”. Tư tưởng nhân văn-đạo đức Hồ Chí Minh với triết lý nhân sinh “chính tâm và thân dân” sẽ đánh thức phần “thiện” trong mỗi con người, giúp họ tìm ra lẽ sống đúng đắn và cách hành xử hợp đạo lý để có được hạnh phúc đích thực.

Năm tháng trôi qua nhưng Hồ Chí Minh “không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người diệu kỳ cho tất cả mọi thời đại”. Đó là sự đánh giá xác đáng mà nhân loại đã dành cho Bác Hồ của chúng ta./.
Yêu nước ST.

THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN TÂN CƯƠNG: TOÀN QUÂN DUY TRÌ NGHIÊM CHẾ ĐỘ SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU, THEO DÕI NẮM TRẮC TÌNH HÌNH CÁC ĐỊA BÀN TRỌNG ĐIỂM

Sáng 2-2, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì Hội nghị giao ban Bộ Tổng Tham mưu tháng 1 năm 2024.

Tham dự hội nghị các đồng chí Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam: Thượng tướng Huỳnh Chiến Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng; Trung tướng Nguyễn Doãn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng; Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn; Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa và Trung tướng Nguyễn Trọng Bình...
Báo cáo tại hội nghị khẳng định, tháng 1-2024, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo toàn quân triển khai thực hiện hoàn thành tốt các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu, xử lý hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ; phối hợp giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn cả nước và các sự kiện trọng đại của Đảng, Nhà nước và Quân đội.
Điểm nổi bật đã chỉ đạo toàn quân duy trì nghiêm chế độ SSCĐ, nắm chắc tình hình trên không, trên biển, biên giới, nội địa, không gian mạng, nhất là tình hình Biển Đông, biên giới, vùng biển Tây Nam. Theo dõi, quản lý chặt chẽ các tuyến biên giới, tăng cường tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm xuất, nhập cảnh trên tuyến biên giới, hoàn thành việc điều chỉnh tổ, chốt trên các tuyến biên giới phù hợp với tình hình nhiệm vụ.
Chú trọng việc tuyên truyền, tuần tra, xua đuổi, ngăn chặn tàu nước ngoài xâm phạm vùng biển và bảo vệ an toàn hoạt động kinh tế biển của ta; đồng thời tăng cường, đẩy mạnh thực hiện các biện pháp phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định...
Cùng với làm tốt công tác chuẩn bị huấn luyện, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cán bộ các cấp giai đoạn 1-2024, tổ chức hội thi công tác chuẩn bị huấn luyện; củng cố vật chất, mô hình học cụ, thao trường, bãi tập; tổ chức chặt chẽ tập huấn cán bộ huấn luyện các lực lượng diễu binh tại Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ... các đơn vị duy trì nghiêm chế độ ứng trực cứu hộ, cứu nạn ở các cấp, chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu đề xuất xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống; duy trì vững chắc hệ thống kỹ thuật mật mã, chuyển nhận các nội dung chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm bí mật, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống.
Kết luận hội nghị, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương biểu dương những kết quả nổi bật trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của các cơ quan, đơn vị thời gian qua.
Về nhiệm vụ tháng 2-2024 và thời gian tiếp theo, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng yêu cầu toàn quân duy trì nghiêm chế độ SSCĐ, theo dõi nắm chắc tình hình, nhất là các địa bàn trọng điểm, tình hình Biển Đông, biên giới, vùng biển Tây Nam... kịp thời tham mưu, xử lý hiệu quả các tình huống, không để bị động bất ngờ.
Phối hợp với lực lượng Công an giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn cả nước, nhất là dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, Quân đội; thực hiện nghiêm Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về SSCĐ và tổ chức Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024; nghiên cứu, đề xuất tăng cường lực lượng, phương tiện trực SSCĐ tại các vùng biển trọng điểm.
Đồng thời theo dõi, quản lý chặt chẽ các tuyến biên giới, tăng cường tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm về xuất, nhập cảnh trên tuyến biên giới. Chú trọng công tác tuyên truyền, tuần tra, xua đuổi, ngăn chặn tàu nước ngoài xâm phạm vùng biển và bảo vệ an toàn hoạt động kinh tế biển của ta; chuẩn bị tốt các phương án, lực lượng, phương tiện, sẵn sàng xử lý tình huống.
Cùng với đẩy mạnh thực hiện các biện pháp phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định; thực hiện nghiêm các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động bay... Thượng tướng Nguyễn Tân Cương lưu ý, Bộ Tổng Tham mưu cần tăng cường chỉ đạo, theo dõi, quản lý chặt chẽ tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ; tăng cường kiểm soát thông tin trên không gian mạng, bảo đảm kịp thời thông tin liên lạc chỉ đạo, chỉ huy toàn quân.
Các cơ quan, đơn vị tiếp tục làm tốt mọi công tác chuẩn bị huấn luyện năm 2024; quán triệt và chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, duy trì nghiêm chế độ nền nếp chính quy, quản lý kỷ luật, bảo đảm an toàn khi tham gia giao thông; tập trung tăng cường công tác tuần tra canh gác bảo vệ cơ quan, đơn vị và duy trì tốt hoạt động của lực lượng kiểm soát quân sự, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024./.
ST.


SỨC XUÂN CỦA ĐẢNG

Khi những cành đào vừa hé nụ, từng chồi non tơ thức dậy, ấy là khi xuân đã về, mang sức sống đến cho đất trời và vạn vật. Màu hoa xuân hòa cùng màu cờ đỏ thắm tươi trải khắp non sông. Với người Việt Nam, ý niệm về mùa xuân luôn gắn liền với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mặt trời trong đêm tối
Giở lại từng trang sử đau thương của dân tộc những năm đầu thế kỷ XX mới thấy hết công lao to lớn, vĩ đại của Đảng với dân tộc. Nước mất, nhà tan, chế độ thực dân, phong kiến như 2 gọng kìm đè nặng lên đất nước, người dân nô lệ, đói rét, lầm than khổ cực, đúng như trong những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:
Ôi nhớ những năm nào, thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy
Nỗi đau mất nước, lòng thương dân sâu sắc đã khiến bao anh hùng, chí sĩ, trí thức yêu nước loay hoay đi tìm đường cứu nước. Nhưng mọi phong trào đấu tranh đều thất bại vì chưa có một chính đảng đủ sức lãnh đạo, tập hợp quần chúng, vạch ra đường lối đấu tranh đúng đắn. Chỉ đến mùa hè năm 1920, khi người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang ở Pháp tiếp cận được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin đăng trên Báo Nhân đạo (L’Humanité), con đường sáng mới mở ra cho dân tộc.
Luận cương của Lê-nin nhấn mạnh nhiệm vụ của các đảng cộng sản phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa; đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng lao động của tất cả các dân tộc chống kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Tư tưởng đó đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập dân tộc, tự do cho đồng bào. Người đã “rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao”. Sau thời gian hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô và đặt chân đến Quảng Châu, Trung Quốc vào tháng 11/1924 để xây dựng phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam, tiến tới thành lập chính đảng vô sản của giai cấp công nhân. Tháng 6/1925, Người đã sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên - tổ chức cộng sản đầu tiên của nước ta.
Một dấu mốc vô cùng quan trọng đối với lịch sử dân tộc Việt Nam và với toàn thể Nhân dân Việt Nam: Từ ngày 3-7/2/1930, tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội nghị đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chính cương, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3/2/1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào yêu nước và phong trào công nhân của nước ta trong những năm đầu của thế kỷ XX; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng tiên phong, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đảng ra đời như ngọn đuốc soi đường trong đêm tối, mở ra triển vọng về nền độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho Nhân dân. Dẫu chặng đường đi còn chông gai bão tố, nhưng phía chân trời, bình minh đã ló rạng.
Nếu chậm mùa xuân ấy, em ơi!
Từ vô vọng, mênh mông, đêm tối
Người đã đến, chói chang nắng dội
Trong lòng tôi, ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi, hạnh phúc biết bao nhiêu!
Cảm xúc của người thanh niên yêu nước Tố Hữu khi gặp ánh sáng soi đường của Đảng vào mùa xuân năm ấy cũng là tâm trạng, là cảm xúc chung của các chiến sĩ cộng sản và người dân yêu nước khi tìm thấy chân lý, khi có tổ chức cách mạng có thể cứu nguy cho cả dân tộc và cho số phận mỗi con người.
Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng
94 năm kể từ ngày thành lập, Đảng đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của cả dân tộc. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước sau “30 năm ấy chân không mỏi”. Người đã sống tại hang Pác Bó - Cao Bằng lãnh đạo phong trào cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, tại cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến gần 100 năm đè nặng lên đất nước.
94 năm qua, một chặng đường dài lãnh đạo toàn dân giành chính quyền, giữ chính quyền, bảo vệ nền độc lập vô cùng quý giá của dân tộc, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh phẩm chất, vai trò cầm quyền của mình. Đảng đã dẫn dắt, hội tụ và nhân lên sức mạnh toàn dân tộc.
Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng
Tấm lòng son chói sáng nghìn thu
Mặt trời có lúc mây mù
Trái tim ta vẫn đỏ bầu máu tươi
Để đất nước ta hôm nay độc lập tự do, đàng hoàng to đẹp, Nhân dân mọi miền đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hàng triệu anh hùng, chiến sĩ cách mạng, những người yêu nước, các vị lãnh đạo tiền bối kiên trung của Đảng đã chịu đựng gian khổ, xiềng xích tù đày, tra tấn dã man và phải ra pháp trường nhưng tất cả vẫn vẹn nguyên tấm lòng trung thành với Đảng, chí khí chiến đấu chống kẻ thù không lay chuyển, tinh thần lạc quan cách mạng như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Thị Minh Khai, Tô Hiệu, Trường Chinh, Xuân Thủy, Lê Văn Lương, Hà Huy Tập, Hồ Tùng Mậu, Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng... Mỗi ngọn núi, dòng sông, mỗi tấc đất, ngọn cỏ trên đất nước này đều thấm máu, mồ hôi của triệu triệu cán bộ, đảng viên và những người yêu nước có “tấm lòng son chói sáng nghìn thu”, coi sinh mệnh của Đảng, sinh mệnh của dân tộc hơn sinh mệnh của mình.
Trước ngưỡng cửa xuân Giáp Thìn, bồi hồi ôn lại chặng đường tự hào và vinh quang của Đảng, càng thêm trân quý những gì mà đất nước ta đã có được hôm nay. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã viết: “Nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay”. Khép lại năm 2023, trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội và thuận lợi, tình hình thế giới có nhiều diễn biến bất thường, phức tạp, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, nhiều lĩnh vực đạt thành tựu, dấu ấn nổi bật. Tăng trưởng GDP đạt khoảng 5%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao khu vực và thế giới. Chính trị ổn định. Đời sống người dân ngày càng đổi mới theo hướng giàu mạnh, văn minh. Đặc biệt, công cuộc phòng chống tham nhũng quyết liệt, hiệu quả của Đảng càng vun dày thêm lòng tin yêu của dân với Đảng. Mặc cho “mặt trời có lúc mây mù” nhưng đúng như nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Trái tim ta vẫn đỏ dòng máu tươi”. Lòng dân tin yêu Đảng, tin yêu Bác Hồ vững chắc như núi không dễ gì lay chuyển.
Ngày mới thanh tân đang gõ cửa từng ngôi nhà, gõ cửa mỗi tâm hồn. Trên mảnh đất Lam Hồng giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, đón xuân mới Giáp Thìn trong muôn màu hoa lá và hương vị tết cổ truyền dân tộc, lòng dân Hà Tĩnh càng thêm tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại và các vị lãnh tụ của Đảng là những người con quê hương: Trần Phú, Hà Huy Tập; những người anh hùng trên mảnh đất Hồng La như: Lý Tự Trọng, Phan Đình Giót, Võ Triều Chung, Võ Thị Tần...
Dòng máu Xô viết anh hùng chảy trong trái tim, biến thành hành động cách mạng để Đảng bộ và Nhân dân Hà Tĩnh cùng cả nước hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc và hôm nay quyết tâm nỗ lực đưa Hà Tĩnh đi lên, giàu mạnh và phát triển. Dẫu chặng đường đi còn lắm gian nan nhưng khi toàn Đảng, toàn dân đã tin tưởng, chung sức đồng lòng, chắc chắn chúng ta sẽ về tới đích: làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn thiết tha của Bác Hồ kính yêu./.
ST.



KHẮC PHỤC NHỮNG BIỂU HIỆN LỆCH LẠC TRONG HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU, VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH!

         Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, đó là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”!
Quán triệt và triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, việc học tập, nghiên cứu và vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền nếp trong tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả quan trọng, là cơ sở để thực hiện có hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Tuy nhiên, trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn một số biểu hiện nhận thức lệch lạc, thiếu đúng đắn về vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này. Nguyên nhân là do một bộ phận cán bộ, đảng viên ngại học, lười học, lười nghiên cứu; trong nghiên cứu không có phương pháp khoa học, hoặc không nghiên cứu thấu đáo, nghiên cứu lý luận thiếu tính thực tiễn, minh họa đường lối, quan điểm nhưng chưa cắt nghĩa đủ độ sâu sắc với vấn đề thực tiễn đặt ra, dẫn tới hiểu và vận dụng không đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. Loại ý kiến này-hoặc vô tình hay hữu ý-đều có thể tiếp tay cho các quan điểm thù địch, sai trái, cơ hội chính trị lợi dụng nhằm chống phá Đảng.

Để học tập, nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn cách mạng, thích ứng với tình hình mới và đạt hiệu quả thiết thực, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, cần khắc phục những sai lệch sau:
Thứ nhất, khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng; xem nhẹ lý luận, tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của bệnh ngại học, lười học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên, đó là: “Chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện tượng xem thường học tập hoặc là không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa công tác và học tập. Hoặc là sau một thời kỳ học tập tại chức có cán bộ phàn nàn trước những khó khăn của việc đọc tài liệu, khó khăn đào sâu suy nghĩ”.

Nhận thấy những nguy hại của căn bệnh lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên, Đảng ta cũng đã chỉ rõ, lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới cũng là biểu hiện của sự suy thoái. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, đó là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh, phải “khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”.

Thứ hai, khắc phục biểu hiện tách rời lý luận với thực tiễn; không thấy sự thống nhất giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nghiên cứu lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ tư tưởng của Người có nguồn gốc lý luận chủ yếu từ Chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngày 12-7-1946, trả lời phóng viên trong cuộc họp báo tại biệt thự Roayan Môngxô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”. Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập hoặc “tách mình” ra khỏi quan điểm, lập trường tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin để đưa ra các quan điểm riêng, đúng như Người đã nói: “Cố gắng vận dụng những nguyên lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong hoàn cảnh cụ thể của nước mình”.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu của sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi vì Chủ nghĩa Mác-Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, đặc biệt là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, đặt nền tảng vững chắc cho những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm và phương pháp chỉ đạo cách mạng. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc lập trường, quan điểm và phương pháp biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây để hình thành tư tưởng của mình.

Bản chất của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Vì thế, những quan điểm tách rời Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, không nhận thức được sự thống nhất giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin, hoặc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin đều sai trái, có dụng ý xấu.

Thứ ba, khắc phục khuynh hướng cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh “không phải là một hệ thống” mà chỉ là những quan điểm chỉ đạo thực tiễn của Người.
Cần phải khẳng định rằng “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”, nghĩa là bao quát nhiều lĩnh vực, nhưng không phải tất cả mọi vấn đề đều gắn với tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở đây cần hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh như là những tư tưởng chính trị theo nghĩa rộng, gồm tư tưởng về mục tiêu cách mạng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; về mục đích cách mạng: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về lực lượng cách mạng: Toàn dân tộc lấy công-nông làm gốc; về tổ chức cách mạng: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận đoàn kết toàn dân; về phương pháp cách mạng: Động viên toàn dân, tổ chức toàn dân... Do đó, yêu cầu phương pháp luận khi nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên bình diện tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng đó quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do.

Nhận thức như vậy trong nghiên cứu và vận dụng sẽ tránh được các khuynh hướng sai lầm và xuyên tạc cho rằng không có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ một vài phát biểu ngắn gọn hoặc quan điểm chỉ đạo thực tiễn của Người; hoặc cái gì cũng quy về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không hiểu tư tưởng của Người chỉ gắn với những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Thứ tư, khắc phục khuynh hướng đơn giản hóa, tầm thường hóa hoặc đi sâu vào tầm chương trích cú, xa rời thực tiễn cách mạng.
Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn đạt đến sự hòa quyện nhuần nhuyễn lý trí với tình cảm, sự gắn kết rất tự nhiên giữa tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, với bản lĩnh tinh nhạy của một chính khách và sự khoan hòa nhân ái của một lãnh tụ nhân dân. Trong ứng xử cũng như trong cách viết, cách trả lời nhà báo nước ngoài, cách diễn đạt những mệnh đề lý luận của Hồ Chí Minh có sự tinh tế nhuần nhuyễn của những đường nét triết lý phương Đông và văn hóa phương Tây, vừa dân tộc, vừa quốc tế. Đặc điểm nổi bật ấy tạo ra phong thái rất độc đáo của Hồ Chí Minh không trộn lẫn vào đâu được. Nhờ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi tầng lớp nhân dân một cách dễ dàng vì nó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của họ, vừa rất truyền thống, vừa rất hiện đại.

Khi nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh thì vấn đề quan trọng là ở chỗ nhận ra đâu là nét đích thực của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua việc làm, qua cách sống, qua lời nói, qua bài viết, qua sự nghiệp cách mạng của Người. Đừng cố tìm và không nên tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có sẵn, vì như vậy cũng vô hình trung là xuyên tạc, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Thứ năm, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều; đồng thời bảo vệ, phát triển và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Sức sống mãnh liệt của Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ ở những nguyên lý, những quan điểm do các lãnh tụ nêu lên mà còn ở sự vận dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển của các thế hệ tiếp theo. Chính sự vận dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển đó làm cho Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trường tồn và ngày càng có sức mạnh to lớn.

Có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh là một nhà lý luận-thực tiễn. Người xây dựng lý luận, vạch cương lĩnh, đường lối, chủ trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Và từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Người tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát triển, cho nên tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh luôn sáng tạo, không lạc hậu, giáo điều. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ vào các tác phẩm, bài viết mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người đứng đầu.

Hơn nữa, Hồ Chí Minh có một phong cách nói và viết rất ngắn gọn không theo lối viết kiểu hàn lâm. Vì vậy, chỉ căn cứ vào bài viết, bài nói, tác phẩm của Người là chưa đầy đủ, mà phải thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của Người. Vấn đề đặt ra là để phù hợp với chính những lời nói và việc làm của C.Mác, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh, trong nghiên cứu khoa học cũng như vận dụng vào hoạt động thực tiễn, chúng ta cần chú trọng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ: Tuyệt đối trung thành, vận dụng sáng tạo, bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và xét lại, chủ nghĩa giáo điều.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trên con đường xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao trình độ tư duy lý luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, năng lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ cách mạng của Đảng và Nhà nước ta trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng. Điều đó đặt ra yêu cầu mới là tăng cường nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nhất thiết phải nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng đó phù hợp, gắn bó sống động với công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình mới./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU: LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 30/01

“Mục đích của chúng ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nâng cao không ngừng đời sống nhân dân và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Nói chuyện tại hội nghị phổ biến nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ ba về kế hoạch nhà nước năm 1961, đăng trên Báo Nhân dân, số 2509, ngày 31-1-1961; trong bối cảnh đế quốc Mỹ đang tăng cường cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc.
Trong bài nói chuyện, Hồ Chí Minh khẳng định mục đích cao nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: Nâng cao không ngừng đời sống nhân dân, đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương thành kế hoạch hoạt động cụ thể, làm cho Nghị quyết của Đảng, kế hoạch của Nhà nước thấm sâu vào thực tiễn, tạo ra nhiều thắng lợi. Lời bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đại biểu dự Hội nghị quán triệt, tiếp thu nghiêm túc và nhanh chóng tuyên truyền, triển khai, cụ thể hóa thành kế hoạch hoạt động thiết thực, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch, thúc đẩy công cuộc xây dựng miền Bắc phát triển lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Lời nói chuyện của Bác tại buổi phổ biến Nghị quyết Trung ương ba khóa III, được các cấp ủy đảng trong Quân đội lĩnh hội, tổ chức học tập, quán triệt và triển khai chặt chẽ. Quân đội ta đã khẩn trương xây dựng kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965); tập trung xây dựng Quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại; chủ động xây dựng các binh đoàn chủ lực có khả năng cơ động nhanh, sức chiến đấu mạnh và các binh chủng kỹ thuật... Với phương hướng xây dựng đúng đắn, quyết tâm cao, tổ chức thực hiện tốt, Quân đội ta đã nâng cao một bước sức mạnh chiến đấu; đồng thời, đã tạo ra những cơ sở thuận lợi cho việc mở rộng lực lượng, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thấm nhuần sâu sắc lời của Người năm xưa, Đảng, Nhà nước, quân đội ta vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tập trung thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; toàn quân đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
ST.

BẢN SẮC KHÔNG THỂ MẬP MỜ, LỊCH SỬ KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC!

         Thời gian gần đây, bám vào một số sự kiện văn hóa, văn học nghệ thuật (VHNT) gây ồn ào trên không gian mạng, nhiều phương tiện truyền thông phát tiếng Việt ở hải ngoại và các tài khoản cá nhân trên mạng xã hội có tư tưởng thù địch ra sức cổ xúy cho cái gọi là “nói khác”, “nói ngược”...
Họ kích động rằng, muốn nổi tiếng thì các tác giả phải “nói khác”, “nói ngược” trong lao động nghệ thuật. Thực chất, đó là chiêu bài nguy hiểm nhằm kích động, lôi kéo môi trường VHNT đi ngược lại định hướng của Đảng.

THẤY GÌ TỪ THÁI ĐỘ ÁM CHỈ, BÓNG GIÓ
Lợi dụng đời sống VHNT để truyền bá tư tưởng phản động, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc... không phải là thủ đoạn mới mẻ gì. Nó xuất hiện, tồn tại lâu nay và các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, khai thác nhằm kích động, lôi kéo công chúng. Những năm gần đây, khi không gian mạng trở thành một “thế giới thứ hai” của đời sống con người và xã hội, âm mưu, thủ đoạn lợi dụng VHNT, thị trường giải trí để chống phá đất nước trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa của các thế lực thù địch lại càng diễn biến phức tạp. Để tạo hiệu ứng đám đông, họ sẵn sàng dựng lên một “mẫu hình” nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng từ những đối tượng cực đoan, bất mãn, suy thoái... và ra sức tô vẽ thành “thần tượng” để dụ dỗ, lừa bịp công chúng. Chẳng hạn một nhà văn Việt Nam suy thoái tư tưởng, đã rời bỏ Tổ quốc ra nước ngoài sinh sống, lại được Viện Hàn lâm Pháp trao cho cái giải thưởng văn học hồi tháng 4 vừa qua là một ví dụ. Từ chuyện này, một số tổ chức truyền thông có tư tưởng thù địch với Việt Nam ở hải ngoại đã thực hiện các chiến dịch tô vẽ “thần tượng”; xuyên tạc môi trường VHNT trong nước, bôi xấu, hạ bệ những nhà văn yêu nước. Họ tuyên truyền rằng, văn nghệ sĩ Việt Nam muốn nổi tiếng, muốn thành danh thì phải học cách “nói ngược”, “nói khác” với quan điểm, chủ trương của Đảng. Họ suy diễn về tự do sáng tạo, về tư duy “khai phóng”, vượt khỏi những rào cản, định kiến để vươn tầm quốc tế...

Nhìn lại những diễn biến chính của đời sống VHNT trong thời kỳ đổi mới, nhất là giai đoạn gần đây, chúng ta thấy rõ những dấu ấn đột phá của hội nhập. Nhờ đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, hội nhập theo định hướng của Đảng mà đời sống VHNT có sự khởi sắc đáng ghi nhận. Chẳng hạn ở lĩnh vực điện ảnh. Nhiều đạo diễn Việt kiều nổi tiếng trở về nước làm phim, mang đến luồng gió mới. Nhiều bộ phim có giá trị nội dung, nghệ thuật tốt, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc; phản ánh đậm nét những góc nhìn cận cảnh về lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc; ca ngợi vẻ đẹp đất nước, nền văn hóa, con người Việt Nam... thông qua những lát cắt điển hình, được đông đảo công chúng hào hứng đón nhận. Thành quả đó đã tạo động lực, khích lệ văn nghệ sĩ trong nước phải vượt lên, tự đổi mới, làm mới bản thân để cạnh tranh với các đồng nghiệp Việt kiều và các sản phẩm quốc tế nhập khẩu.

Tuy nhiên, sự hội nhập của VHNT cũng là môi trường được các thế lực thù địch, thông qua truyền thông và không gian mạng, gieo rắc, lèo lái tư tưởng phản động, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Cách đây 10 năm, khi còn sống, nhà văn Lê Văn Thảo, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, trong một lần trả lời phỏng vấn Báo Quân đội nhân dân, đã nhấn mạnh rằng, điều ông và các nhà văn đã từng lăn lộn qua chiến tranh lo ngại nhất chính là sự xuất hiện của thái độ “ám chỉ” trong sáng tác VHNT. Lợi dụng vào tính hư cấu của VHNT, không ít tác giả đã bày tỏ khuynh hướng sáng tạo đi ngược lại quan điểm, đường lối của Đảng bằng kiểu ám chỉ, do họ bị tiêm nhiễm, kích động, ảnh hưởng bởi các luồng tư tưởng thù địch từ bên ngoài. Hệ lụy của lối tư duy “ám chỉ” đó là một số văn nghệ sĩ đã suy thoái về tư tưởng chính trị, rời bỏ quê hương ra nước ngoài sinh sống, sử dụng chính ngòi bút, vốn sống, cảm xúc nội tại để “nói ngược”, “viết ngược”, làm phương hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Thậm chí, đã có một số ít nghệ sĩ nổi tiếng, bị lôi kéo tham gia vào những bộ phim có nội dung xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bóp méo, bôi đen hình tượng Bộ đội Cụ Hồ trong chiến tranh...

Nếu như trước đây, cách nói, cách viết, cách thể hiện nhân vật theo lối “ám chỉ” được thể hiện một cách trực cảm, trực giác... thì nay, trước làn sóng dư luận đa chiều, họ cổ xúy kiểu thái độ bóng gió, mập mờ... Với hình thức thể hiện này, trong không ít tác phẩm VHNT, bản sắc văn hóa dân tộc, sắc thái vùng miền, lịch sử quê hương, đất nước hiện lên méo mó, lai căng, biến dạng. Trên phương diện luật pháp, rất khó để bắt bẻ kiểu tư duy bóng gió, mập mờ này. Nhưng, dưới góc nhìn của công tác tư tưởng-văn hóa, khi mỗi thứ lệch lạc đi một chút, mỗi thứ méo mó, lai căng đi một chút... thì hệ lụy lâu dài đối với văn hóa dân tộc và tương lai thế hệ trẻ là rất khó lường...

Thời gian gần đây, trong đời sống VHNT và thị trường giải trí xuất hiện một số tác phẩm có biểu hiện như vậy. Dư luận truyền thông thể hiện những góc nhìn đa chiều. Những tranh cãi nổ ra không chỉ trên các diễn đàn không gian mạng mà còn kéo theo sự vào cuộc của đông đảo chuyên gia, nhà quản lý, phân tích, mổ xẻ dưới nhiều góc nhìn, góc độ khác nhau. Thậm chí, trong một số trường hợp, những ồn ào trên không gian mạng về vấn đề này còn trở thành chủ đề trên bàn nghị sự của Quốc hội.

TỪ THỊ HIẾU THẨM MỸ ĐỂ ĐẾN BẢN LĨNH THẨM MỸ
Nhìn vào những diễn biến đời sống văn hóa, VHNT mỗi khi có tác phẩm, sản phẩm gây “sốt”, chúng ta thấy rõ những tác động toàn diện của hiệu ứng không gian mạng. Nó thể hiện rõ tính hai mặt của một vấn đề. Thứ nhất là, hội chứng đám đông từ những cơn “lên đồng” tập thể, nó có thể tạo sức hút vô cùng mạnh mẽ kéo theo mọi thứ, mọi thành phần trong dòng chảy ấy vào cuộc. Nếu đó là một khuynh hướng tốt, có ích cho đời sống xã hội, phục vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc, sẽ rất có lợi cho công tác tuyên truyền, giáo dục, quảng bá những giá trị tốt đẹp đến với người dân và du khách quốc tế. Nhưng, nếu đó là một sản phẩm có chứa đựng yếu tố gây hại, sự mập mờ trong quan điểm nghệ thuật giống như một loại virus gây bệnh, xâm nhập vào tư duy, thị hiếu của công chúng, nguy hiểm khôn lường. Thứ hai là, chính nhờ hiệu ứng mạnh mẽ của không gian mạng sẽ giúp các tác giả và giới chuyên gia, nhà quản lý nhìn nhận vấn đề dưới những góc nhìn đa chiều, từ đó có sự sàng lọc, thẩm định, định hướng sáng tạo theo quan điểm của Đảng.

Trong những năm tới, đất nước ta có nhiều ngày lễ lớn, trong đó có kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và đại lễ mừng 50 năm đất nước thống nhất. Trên lĩnh vực văn hóa, VHNT, các thế lực thù địch đã và đang tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch tuyên truyền, tung ra các sản phẩm xấu độc; sử dụng truyền thông và không gian mạng cổ xúy, lôi kéo các tác giả “nói ngược”, “nói khác” nhằm bóp méo, bôi đen, làm méo mó hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ và lịch sử đấu tranh cách mạng. Họ sử dụng các phương thức ám chỉ, bóng gió, mập mờ, so sánh Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh với các thành phố lớn đã và đang xảy ra xung đột vũ trang trên thế giới... để xuyên tạc lịch sử, văn hóa vùng đất Nam Bộ và cuộc đấu tranh của đồng bào Nam Bộ, góp phần to lớn giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là những biểu hiện nguy hiểm nhằm kích động hận thù dân tộc, âm mưu chia tách lịch sử, văn hóa Nam Bộ ra khỏi nền văn hóa và lịch sử dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ. Một trong những biểu hiện phổ biến hiện nay là họ cổ xúy, ca ngợi công lao của Nguyễn Ánh (Chúa Nguyễn, Vua Gia Long), coi nhân vật “cõng rắn cắn gà nhà” trong lịch sử dân tộc như là một “anh hùng”, “cụ tổ” của lịch sử, văn hóa Nam Bộ. Đáng tiếc là đã có một số người trong giới sáng tác có biểu hiện dao động, bị cuốn theo lối tư duy này nên trong một số tác phẩm VHNT, đã thổi phồng, thần thánh hóa công lao, che mờ tội của Chúa Nguyễn (Vua Gia Long), làm sai lệch lịch sử, làm mập mờ, méo mó sắc thái văn hóa và bản chất tốt đẹp của con người Nam Bộ. Từ góc nhìn sai lệch về nhân vật này, các thế lực thù địch áp dụng lối tư duy liên tưởng để dụ dỗ, dẫn dắt công chúng hiểu sai lệch lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong lòng dân Nam Bộ.

Để tạo tiềm lực văn hóa tinh thần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hóa, VHNT, chúng ta phải bám sát quan điểm của Đảng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ: “Chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại”...; “Nâng cao vai trò của văn hóa, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam, nhất là trong thế hệ trẻ”... Như vậy, giải pháp căn bản và lâu dài là chúng ta phải chủ động nâng cao sức đề kháng, nói cách khác chính là củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trẻ. Muốn định hướng thị hiếu thẩm mỹ, phải xây dựng được bản lĩnh thẩm mỹ. Với chức năng hướng đến “chân, thiện, mỹ”, dù thể hiện dưới góc nhìn nào thì trong đời sống văn hóa, VHNT, bản sắc dân tộc là giá trị không thể mập mờ, cương thổ quốc gia, lịch sử dân tộc là giá trị không thể xuyên tạc, đảo ngược.

Quy luật sàng lọc, tiếp thu, tiếp biến và đào thải của văn hóa chính là cán cân công bằng, là thước đo công tâm để khẳng định giá trị đích thực của tác phẩm, sản phẩm VHNT. Những người làm văn hóa, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa và giới chuyên gia thẩm định chất lượng sản phẩm VHNT các cấp cần bám sát tính quy luật, nhất quán quan điểm của Đảng để đưa ra những nhận xét, nhận định, dự báo; từ đó có giải pháp định hướng dư luận và định hướng sáng tạo, lao động nghệ thuật một cách đúng đắn. Không nên bị dẫn dắt bởi dư luận đám đông dẫn đến “đẽo cày giữa đường”, tạo cớ cho các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá, cũng không nên chỉ dựa vào các quy định của pháp luật để bày tỏ chính kiến một cách cực đoan, võ đoán, máy móc...
Yêu nước ST.

CẢNH GIÁC TRƯỚC ÂM MƯU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Tòa án nhân dân tỉnh Ðắk Lắk vừa đưa ra xét xử công khai 100 bị cáo trong vụ khủng bố nhằm chống lại chính quyền nhân dân xảy ra vào đêm 10, rạng sáng 11/6/2023 trên địa bàn huyện Cư Kuin. Theo dõi phiên tòa, đồng bào các dân tộc ở Ðắk Lắk đồng tình với mức án của Hội đồng xét xử tuyên phạt đối với từng bị cáo theo đúng quy định pháp luật.

Qua vụ án đã giúp đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên nhận thức rõ về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác và tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chung sức, đồng lòng cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng Tây Nguyên giàu đẹp và bình yên.
Bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
Trong thời gian Tòa án nhân dân tỉnh Ðắk Lắk mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai các bị cáo trong vụ án khủng bố nhằm chống lại chính quyền nhân dân xảy ra ở huyện Cư Kuin, hằng ngày già làng Y Dhêc Ayun ở buôn Kwăng A, xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ đều dành thời gian theo dõi diễn biến phiên tòa trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Bản án cũng thể hiện sự khoan hồng của Ðảng, Nhà nước đối với các đối tượng đã nhận ra việc làm sai trái, vi phạm pháp luật và ăn năn hối cải. “Vụ án này là bài học xương máu, là sự cảnh tỉnh đối với những ai còn mộng tưởng về một “Nhà nước Ðêga” như các đối tượng phản động tuyên truyền, rêu rao”, già Y Dhêc chia sẻ.
Ông Y Ngoét Kbuôr ở buôn Bông, xã Cư Êbur, thành phố Buôn Ma Thuột cho rằng, bản án dành cho các bị cáo là hợp tình, hợp lý, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, nếu các bị cáo mà tỉnh táo, cảnh giác, suy nghĩ thấu đáo, không nghe, không tin, không làm theo sự tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục, kích động của các đối tượng phản động lưu vong ở nước ngoài thì không có sự việc đau lòng như ngày hôm nay.
Trong lúc đất nước ta đang ổn định, kinh tế phát triển và đời sống người dân nói chung, trong đó có người đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên ngày càng đi lên, vậy mà chỉ vì sơ suất mất cảnh giác, nhẹ dạ cả tin, nghe theo lời dụ dỗ, xúi giục của các đối tượng phản động lưu vong ở nước ngoài, các bị cáo đã có những hoạt động vi phạm pháp luật, phá hoại cuộc sống bình yên của buôn làng để mang tội với Ðảng, Nhà nước và nhân dân.
Ðến nay, vụ án đã được xét xử, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và tính nhân văn, nhân đạo của Ðảng và Nhà nước ta. Mong rằng, đồng bào các dân tộc ở Ðắk Lắk nói riêng, Tây Nguyên nói chung luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Tây Nguyên ngày càng giàu đẹp, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trực tiếp tham dự phiên tòa với tư cách đại diện cho cơ quan bị hại, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Ea Ktur (huyện Cư Kuin) Nguyễn Kim May cho rằng: Việc đưa các bị cáo ra xét xử và bản án phán xét của tòa đối với từng bị cáo là phù hợp, đúng người, đúng tội, vừa thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, vừa thể hiện sự khoan hồng, tính nhân văn của Ðảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra cũng như lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thì vừa thấy giận, lại vừa thương. Giận vì các bị cáo đã gây ra hậu quả hết sức nặng nề, để lại sự đau thương, mất mát không có gì bù đắp được cho các gia đình bị hại. Thương vì phần lớn các bị hại đều ở vùng sâu, vùng xa, trình độ, nhận thức còn hạn chế, đời sống kinh tế khó khăn nên bị các đối tượng phản động lưu vong lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục, kích động, thậm chí một số bị cáo bị đe dọa buộc phải tham gia vụ việc.
Tại phiên tòa, các bị cáo đều nhận ra việc làm vi phạm pháp luật của mình, ăn năn, hối cải, xin lỗi các gia đình, cơ quan, đơn vị bị hại và Ðảng, Nhà nước, mong pháp luật khoan hồng giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ với gia đình, làm lại cuộc đời. Nhiều bị cáo đã lên tiếng kêu gọi các đối tượng đang còn lẩn trốn ở nước ngoài hãy thức tỉnh và quay về chịu trách nhiệm trước các hành vi tội ác đã gây ra, xóa bỏ tư tưởng “li khai tự trị” để giữ gìn khối đại đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam…
Luật sư Dương Lê Sơn, Ðoàn Luật sư tỉnh Ðắk Lắk tham gia bào chữa cho một số bị cáo cho rằng, pháp luật đã quy định, ai có công thì được thưởng, ai có tội thì bị xử lý. Ðối với những kẻ khủng bố, có âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân là phản bội đất nước, phản bội nhân dân, cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật. “Qua theo dõi trực tiếp phiên tòa và mức hình phạt đối với các bị cáo, theo tôi là đúng người, đúng tội, đúng luật pháp.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã cân nhắc, xem xét từng tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo biết ăn năn hối cải, biết nhận ra sai phạm của mình, đã thể hiện sự nhân văn, tạo cơ hội làm lại cuộc đời cho các bị cáo. Chính sự công minh, sáng suốt, công tâm của phiên tòa, các bị cáo đã tâm phục, khẩu phục và được dư luận đồng tình với án phạt mà các bị cáo gây ra”, Luật sư Dương Lê Sơn khẳng định.
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
Theo kết quả điều tra cũng như lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy, chỉ vì trình độ học vấn thấp, nhận thức lạc hậu và những khó khăn trong đời tư mà các bị cáo đã nghe theo lời xúi giục, kích động của các đối tượng Fulro lưu vong ở nước ngoài thành lập cái gọi là “Lính Ðêga” rồi dụ dỗ, lôi kéo một số đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ, cả tin gia nhập tổ chức phản động này để hoạt động nhằm chống lại chính quyền nhân dân.
Theo sự chỉ đạo của các đối tượng lưu vong ở nước ngoài, các đối tượng trong nước đã thành lập tổ chức, xây dựng lực lượng, vừa nhận tiền từ nước ngoài gửi về, vừa vận động những người tham gia góp tiền để mua vũ khí, huấn luyện, chờ cơ hội để hoạt động chống phá với mục đích lật đổ chính quyền nhân dân để thành lập cái gọi là “Nhà nước Ðêga”. Chỉ vì với mộng tưởng “li khai tự trị” mà nhóm đối tượng đã liều lĩnh, manh động tấn công khủng bố vào trụ sở xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, gây ra hậu quả hết sức nặng nề, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của cán bộ, người dân, phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Ðắk Lắk, gây phẫn nộ trong nhân dân.
Mục sư Y Tuân Mlô, Trưởng ban đại diện Hội thánh Tin lành miền nam Việt Nam tỉnh Ðắk Lắk cho biết, qua theo dõi kết quả phiên tòa xét xử các đối tượng tham gia gây ra vụ việc ở huyện Cư Kuin trên các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiến hành điều tra, truy tố và xét xử công khai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Với vai trò là một mục sư, hơn ai hết, mục sư Y Tuân Mlô hiểu rất rõ về bản chất, nguồn cơn dẫn tới tội ác mà nhóm bị cáo đã gây ra vào tối 10, rạng sáng 11/6/2023 tại huyện Cư Kuin. “Bất kể ai khi tham gia khủng bố, gây ra tội ác, không phân biệt thành phần dân tộc, tôn giáo... đều phải bị xử lý theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, khung hình phạt bản án đưa ra cho thấy vừa thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, vừa thể hiện được tính ưu việt, nhân văn, nhân ái, sự khoan hồng của Ðảng, Nhà nước và pháp luật cho những người biết nhận ra lỗi lầm, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, mục sư Y Tuân Mlô chia sẻ.
Cũng theo mục sư Y Tuân Mlô, để xảy ra sự việc đáng tiếc ở huyện Cư Kuin có một phần trách nhiệm của các mục sư trong Ban đại diện Hội thánh Tin lành miền nam Việt Nam tỉnh Ðắk Lắk vì chưa sâu sát với tín đồ của mình. Quan điểm của Ban đại diện Hội thánh Tin lành miền nam Việt Nam tỉnh Ðắk Lắk là kịch liệt lên án và không chấp nhận những việc làm vi phạm pháp luật như vậy.
Ðường hướng của Hội thánh Tin lành miền nam Việt Nam đề ra là “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc”. Vì vậy, ngay sau khi xảy ra vụ việc, Ban đại diện Hội thánh Tin lành miền nam Việt Nam tỉnh Ðắk Lắk yêu cầu mục sư quản nhiệm các chi hội, điểm nhóm Tin lành trên địa bàn tỉnh cần sâu sát hơn với các tín đồ, tuyên truyền, vận động tín đồ nêu cao tinh thần cảnh giác, không nghe, không tin, không làm theo sự xúi giục, kích động của các đối tượng phản động; đồng thời chấp hành các chủ trương, đường lối, pháp luật của Ðảng, Nhà nước; tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo phát triển kinh tế gia đình, chung sức, đồng lòng cùng với cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể thi đua thực hiện thắng lợi các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương, bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng cuộc sống buôn làng bình yên, ấm no, hạnh phúc.
Trong những ngày cuối năm Quý Mão này, đi trên những con đường nhựa, đường bê-tông rộng rãi, sạch đẹp băng qua những nương rẫy cà-phê trổ hoa trắng xóa thơm ngát dẫn về các buôn làng ở Ðắk Lắk, không khí chuẩn bị đón Tết cổ truyền Giáp Thìn 2024 đã rộn ràng. Năm nay, giá cà-phê tăng cao cho nên gia đình nào cũng chuẩn bị đón Tết tươm tất, phấn khởi.
Trong câu chuyện với chúng tôi, các già làng cũng như mục sư Y Tuân Mlô đều khẳng định, từ sau ngày đất nước được giải phóng đến nay, Ðảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và chăm lo đời sống về mọi mặt cho đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên. Nhờ đó đến nay, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, thôn, buôn nào cũng có đường nhựa, đường bê-tông; xã nào cũng có trạm y tế, trường học được xây dựng kiên cố, khang trang; phần lớn các gia đình xây dựng được nhà cửa kiên cố và có máy cày, xe máy, nhiều gia đình mua sắm được ô-tô phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Cùng với chăm lo đời sống vật chất, Nhà nước cũng đã có Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, tôn trọng công dân có quyền theo hoặc không theo bất kỳ tôn giáo nào, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, không vì một lý do gì mà người dân nghe theo các đối tượng phản động lưu vong ở nước ngoài lôi kéo, xúi giục, kích động nhằm chống lại chính quyền nhân dân và phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc và cuộc sống bình yên của đồng bào mình, đất nước mình./.
ST.