Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN

Thuật ngữ "nhà nước kiến tạo phát triển" chưa được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến lúc sinh thời, tuy nhiên, vấn đề kiến tạo (kiến thiết) phát triển đất nước (quốc gia) đã được Người đề cập nhiều với các khía cạnh khác nhau trong các tác phẩm, bài viết và bài nói của mình.

Điều này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển nhằm thực hiện mục tiêu "dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đó chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm thực hiện trong suốt cuộc đời cách mạng của mình.
Nói đến nhà nước kiến tạo phát triển là nói đến vai trò trung tâm của Nhà nước trong việc kiến tạo các đường lối, chủ trương, chính sách, tạo môi trường, điều kiện để mọi cá nhân, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có thể phát huy năng lực, sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và cho cả dân tộc. Trong hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua một quá trình tìm tòi, khảo nghiệm sâu sắc nhiều cuộc cách mạng để xác định một thể chế nhà nước thích hợp. Đó là nhà nước kiểu mới có sự thay đổi hoàn toàn về chất so với tất cả các kiểu nhà nước từng có trong lịch sử nước nhà, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân. Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng hoàn toàn chủ động trong việc thiết kế chiến lược phát triển đất nước với đường lối "kiến quốc" trên tất cả các lĩnh vực. Người đã xác lập các cơ sở, nền móng pháp lý tổ chức, hoạt động của một nhà nước liêm khiết, kiến tạo và hành động vì nhân dân. Các cơ sở pháp lý đó là nền tảng tư tưởng để tổ chức, xây dựng, hoàn thiện nhà nước qua các giai đoạn cách mạng của dân tộc.
Nhà nước kiến tạo phải đảm bảo dân là chủ của nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh "Dân là gốc của nước", "nước lấy dân làm gốc" là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức, xây dựng nhà nước. Do vậy, sau khi lãnh đạo toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám "long trời, lở đất", Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay ngay vào xây dựng một nhà nước theo tinh thần dân chủ, tiến bộ "Nhà nước dân chủ, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Quan trọng nhất là nhà nước đó phải do nhân dân bầu ra bằng cuộc bầu cử dân chủ. Với quyết tâm đó, ngay trong những năm tháng đầu tiên của chính quyền nhân dân, dù biết bao công việc đặt ra đối với chính quyền non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên định chủ trương Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu trong cả nước, để cho nhân dân được thực hiện quyền lợi thiêng liêng của mình. Đây là lần đầu tiên, sau hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và gần một trăm năm dưới ách thống trị thực dân, người dân Việt Nam được tự do lựa chọn những người có đủ tài, đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong điều kiện "thù trong, giặc ngoài" đe dọa, nhưng nhân dân ta đã tiến hành Tổng tuyển cử thành công, bầu ra Quốc hội; Quốc hội đã cử ra Chính phủ - một Chính phủ thực sự của nhân dân.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển là ở chỗ Chính phủ, các cơ quan công quyền là công bộc của dân, các cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng". Đã là một nước dân chủ, thì mọi lợi ích đều là của dân, mọi phấn đấu của Chính phủ, của cán bộ đều vì dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Do đó, "quyền hành và lực lượng" của nhà nước đều ở nơi dân.
Mặt khác, Chính phủ do dân bầu ra, dân có quyền bãi miễn Chính phủ, nếu Chính phủ không làm tròn phận sự, không xứng đáng với niềm tin của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ", "Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa".
Nhà nước kiến tạo còn có một nội dung quan trọng là nhân dân có quyền tham gia công việc quản lý nhà nước; sao cho các quyết định của cơ quan nhà nước đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân; phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Mọi nguồn lực mà nhà nước có để hoạt động đều được huy động từ dân. Theo Người, nhà nước của dân, do dân làm chủ phải là nhà nước luôn luôn đặt dưới sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân. Sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước không có nghĩa là bó buộc nhà nước, là nhân dân không tin vào nhà nước; trái lại là để nhà nước ngày càng trưởng thành và lớn mạnh hơn, luôn giữ vững được bản chất cách mạng của mình. Có thể coi đây là tư tưởng độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải là nhà nước "phục vụ quyền lợi nhân dân"
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước lấy sự tự do và hạnh phúc của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của mình. Nhà nước không có mục đích tự thân nào, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, theo phương châm: việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra yêu cầu: Chính phủ là công bộc của dân; các công việc của Chính phủ làm phải nhằm mục đích duy nhất là đem lại tự do, hạnh phúc cho con người; Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi của nhân dân trên hết thảy. Do vậy, ngay sau khi giành được độc lập, đứng trước muôn vàn khó khăn, nhất là nạn đói đang hoành hành, đe dọa trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân, nhưng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách để cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý và bất công của chế độ cũ; đồng thời, phát động phong trào tăng gia sản xuất, khôi phục sản xuất, kinh doanh các ngành kinh tế, giao thông vận tải, v.v. Những thay đổi trong chính sách kinh tế đó thực sự là vì lợi ích dân tộc, bước đầu góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tạo thêm niềm tin tưởng của toàn dân đối với Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ.
Đi đôi với việc giải quyết nạn đói, xây dựng nền kinh tế độc lập, phục vụ lợi ích nhân dân, Chính phủ cũng đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục, trước hết là chống "giặc dốt". Theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, sắc lệnh để xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam mới, theo nguyên tắc: "Đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân tộc".
Bên cạnh xây dựng nền giáo dục mới, Chính phủ nước Việt Nam còn xây dựng các thiết chế văn hóa mới, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phục vụ để đem lại đời sống tinh thần phong phú cho nhân dân, đảm bảo được quyền hưởng thụ văn hóa của nhân dân... Có thể nói, những chính sách lớn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi giành được chính quyền đã mang đầy đủ ý nghĩa xây dựng một xã hội mới. Một xã hội trong đó người dân không chỉ có cơm ăn áo mặc mà còn được hưởng các quyền tự do dân chủ, các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Một xã hội không chỉ quan tâm đến mức sống mà còn quan tâm tới chất lượng cuộc sống. Một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ, đạt tới mục tiêu tự do hạnh phúc cho con người.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải tạo ra được cơ chế, chính sách khuyến khích để các nguồn lực của xã hội được đầu tư cho mục tiêu phát triển.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng một nhà nước kiến tạo cần phải lấy sự ấm no, hạnh phúc của người dân, sự thành công của các doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước làm phương châm hành động của mình. Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 13/3 đến ngày 21/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay... Tất cả phục vụ sản xuất. Tất cả chúng ta, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào, đều phải góp sức làm cho sản xuất phát triển... Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình".
Những năm 70 của thế kỷ XX đã chứng kiến làn sóng cải cách, chuyển đổi từ chính phủ quản lý truyền thống sang "chính phủ kiến tạo phát triển" hoặc "chính phủ doanh nghiệp" phù hợp với xu thế toàn cầu hóa được các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Ca-na-đa... đề xướng và thực hiện. Nhưng trước đó hơn 20 năm, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 01/01/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất triết lý chính phủ doanh nghiệp: "Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, hay bỏ, món gì đáng tiêu, người nào đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận". Triết lý này có vai trò định hướng trong hoạch định chính sách kinh tế và điều hành hoạt động của chính quyền các cấp trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh.
Theo triết lý đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương Chính phủ cần tạo môi trường cho doanh nghiệp và người dân khởi nghiệp để công tư đều lợi, kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Trong cuốn "Thường thức chính trị" xuất bản năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế, thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đường, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho giới công thương và các giới khác. Người cho rằng, quyền tư hữu tài sản của công dân được bảo đảm và Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của những người lao động riêng lẻ. Trong Thư gửi các giới Công Thương Việt Nam, Người khẳng định Chính phủ tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh và người dân làm ăn thuận lợi trong công cuộc ích nước, lợi dân: "Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công - Thương nỗ lực và khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập vào "Công - Thương cứu quốc đoàn" cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân". Điều này đã tác động tích cực đến việc huy động các nguồn lực và tiềm năng to lớn của Nhân dân trong xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước, đồng thời thể hiện tầm chiến lược sâu sắc, cách nhìn biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của nhà nước.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải là nhà nước pháp quyền
Để thực sự nhà nước là kiến tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ là phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước hợp pháp và hợp hiến, được nhân dân tổ chức nên thông qua tuyển cử, được xây dựng và hoạt động theo các nguyên tắc của Hiến pháp. Nó không phải là vũ khí của giai cấp công nhân thống trị xã hội, dùng để trừng trị các giai cấp khác, nó cũng không phục vụ lợi ích cho riêng một tầng lớp người nào, mà nó phục vụ lợi ích của toàn dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý quan trọng nhất là bằng Hiến pháp và pháp luật. Muốn vậy, trước hết, cần làm tốt công tác lập pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện đại. Ở cương vị nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai lần tham gia Ủy ban soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước và pháp luật cũng như nhiều văn bản dưới luật khác. Trong bối cảnh đất nước vừa kháng chiến vừa kiến quốc, sự ra đời của hệ thống luật pháp thể hiện rất rõ nỗ lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác lập pháp.
Cùng với công tác lập pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, rất quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng đến vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng một Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người hướng tới điều thiện làm căn bản. Cho nên, ngay khi thành lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ngay lập tức tuyên bố xóa bỏ mọi luật pháp hà khắc của chính quyền thực dân phản động. Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở quan điểm xử lý các hành vi phạm pháp. Nguyên tắc "có lý, có tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của Người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp và tình huống cụ thể mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải nghiêm túc, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai nhằm ngăn cái xấu, cái ác, phát huy cái tốt, cái thiện chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Người căn dặn: "Không xử phạt là không đúng. Song chút gì cũng trừng phạt cũng là không đúng". Chủ tịch Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng, bao dung nhưng không bao che, khoan hồng nhưng nghiêm khắc, luôn đấu tranh một cách chân thành, thẳng thắn với những khuyết điểm, sai lầm, với những hành vi phạm pháp. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo đức thấm sâu vào trong mọi quy định của pháp luật. Đó là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa "đức trị" và "pháp trị"; trong "đức" có "pháp", và ngược lại. Hành cho tốt đức cũng là hành pháp đúng đắn; hành pháp đúng cũng tức là thực thi đức tốt.
Trong bộ máy nhà nước kiến tạo phát triển, Chính phủ phải liêm khiết, hành động có hiệu quả
Muốn xây dựng được nhà nước kiến tạo, phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng một Chính phủ liêm khiết, có năng lực quản lý, điều hành đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi một Chính phủ có năng lực làm việc thì sẽ giải quyết được nhiều nhiệm vụ của nước nhà, đem lại lợi ích cho quốc gia - dân tộc, cho nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của đất nước, để đủ sức bảo vệ được chính quyền. Ngược lại, nếu Chính phủ yếu kém về năng lực thì sẽ không làm được gì cho dân, thậm chí còn làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc, khó có thể đứng vững trước khó khăn, thử thách. Mặt khác, một Chính phủ kém năng lực lại không liêm khiết thì tất yếu sẽ bị dân bãi miễn trước khi bị kẻ thù phá hoại. Cho nên, muốn bảo vệ được chính quyền thì trước hết phải chăm lo xây dựng chính quyền đó vững mạnh, một chính quyền hợp pháp, do dân cử ra, thực sự vì dân, trong sạch, liêm khiết và có năng lực thực thi công việc.
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH". Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đây là một trong sáu vấn đề khẩn cấp mà Chính phủ lâm thời phải giải quyết sau khi giành được độc lập. Được Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới, tại phiên họp ngày 31/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội: "Tuy trong quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết. Theo lời quyết nghị của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà".
Để xây dựng một Chính phủ liêm chính, hành động có hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng công tác tuyển chọn, giáo dục cán bộ có đủ tài đức, trong đó đạo đức là gốc, cán bộ nhà nước phải là những người công tâm, trung thành, có năng lực làm việc và có uy tín, chứ không chấp nhận việc tuyển dụng, đề bạt cán bộ vì tiền tài, lợi ích nhóm hay vì những lý do không chính đáng khác. Người khẳng định: "Các ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương, phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các ủy ban đó".
Muốn có một chính quyền như vậy, phải có chính sách để thu hút nhân tài tham gia vào bộ máy của Chính phủ. Ngay sau khi thành lập Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi hiền tài tham gia Chính phủ, giúp nước, giúp dân. Người cho rằng, hiền tài của đất nước không thiếu, đang tiềm tàng trong dân, chưa có điều kiện bộc lộ. Muốn thu hút được nhiều hiền tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở rộng cửa Chính phủ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính, tuổi tác. Người viết: "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức". Vấn đề là phải "khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều".
Để xây dựng được một chính quyền mạnh, có đủ khả năng để quản lý, điều hành đất nước và đủ sức mạnh để tự bảo vệ cần phải huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy sức mạnh của chính quyền không những ở sức mạnh của tổ chức bộ máy luôn được kiện toàn, mà còn chủ yếu là ở sức mạnh được huy động từ khối đại đoàn kết toàn dân. Một chính quyền biết quy tụ được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ bảo đảm cho chính quyền đó luôn được xây dựng vững mạnh và bảo vệ vững chắc, không có thế lực nào có thể đánh ngã được.
Dù chỉ duy nhất một lần tuyên bố trước Quốc hội về một Chính phủ liêm khiết, nhưng trong một phần tư thế kỷ (1945-1969), Chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng Chính phủ kiến tạo ở các giai đoạn sau. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Người đã nêu một tấm gương sáng về phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Trải qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta đã không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất. Để xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải khắc phục tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, thiếu dân chủ, ý thức pháp luật kém… của một số cán bộ nhà nước và công dân, nhằm giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Nhà nước ta phải tiếp tục cải cách nền hành chính, cải cách tư pháp, kiên quyết trừng trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi Nhà nước ta phải vận dụng, kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, sâu sắc và toàn diện hơn nữa trên các lĩnh vực, trước hết là cải cách hành chính, hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, đưa đất nước phát triển với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay. Đây có thể được coi là cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng và Nhà nước xác định đúng đắn các mục tiêu, đề ra các giải pháp thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiến tạo sự phát triển quốc gia, thực hiện điều mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"./.
ST.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét