Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2024

THẾ GIỚI - VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN: ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH BẮN HẠ UAV TRINH SÁT CỦA “NƯỚC THỨ BA” TRÊN BIỂN ĐEN?

     Gần đây xuất hiện nhiều thông tin về khả năng Nga sẽ bắt đầu bắn hạ máy bay trinh sát không người lái (UAV) của “nước thứ ba” trên Biển Đen!
Nếu thông tin này được xác nhận, bước đi trên có thể trở thành phản ứng nghiêm túc của Nga đối với các hành động của NATO trong khu vực Biển Đen.

Có lẽ quyết định này được đưa ra nhằm đáp lại hoạt động ngày càng tăng của các máy bay không người lái thuộc nhiều quốc gia khác nhau gần biên giới và các cơ sở của Nga.

Kênh Telegram của quân nhân thuộc Trung đoàn bộ binh 105 thuộc Cộng hòa nhân dân Donetsk tự xưng (DPR) đưa tin: “Có tin về việc quyết định đã được đưa ra, đó là bắt đầu bắn hạ UAV trinh sát của 'các nước thứ ba' ở Biển Đen".

Máy bay không người lái này thuộc sở hữu của nhiều quốc gia khác nhau, thường được sử dụng để thu thập thông tin tình báo và theo dõi hoạt động của Quân đội Nga.

Moskva đặc biệt quan ngại về hoạt động của NATO tại khu vực này, vì đây là nỗ lực của phương Tây nhằm tăng cường ảnh hưởng và gây áp lực lên Nga, chưa kể mối liên hệ trực tiếp giữa sự xuất hiện của UAV trinh sát với những cuộc tấn công được Ukraine thực hiện sau đó.

Đặc biệt khi gần đây số lượng chuyến bay trinh sát đã tăng lên đáng kể và điều này làm dấy lên mối lo ngại lớn trong quân đội Nga. Họ tin rằng hoạt động trên là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn của phương Tây nhằm kiềm chế và làm suy yếu Moskva.

Đối diện thách thức này, khả năng ra quyết định bắn hạ UAV trinh sát được coi là biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích quốc gia, đảm bảo an ninh đất nước.

Biển Đen luôn có tầm quan trọng chiến lược lớn đối với Nga, đóng vai trò như một huyết mạch giao thông quan trọng và tạo điều kiện tiếp cận các tuyến đường vận tải thiết yếu.

Ngoài ra Biển Đen còn là khu vực diễn ra các cuộc tập trận và hoạt động quân sự của Nga. Bối cảnh căng thẳng trong quan hệ với phương Tây ngày càng gia tăng khiến địa điểm trên trở thành đấu trường giữa Nga và NATO.

Hoạt động của máy bay không người lái NATO ở khu vực này bị Moskva coi là sự liên quan trực tiếp của phương Tây vào cuộc xung đột, trong khi NATO từ lâu đã chứng tỏ rằng họ công nhận các khu vực đóng cửa trên Biển Đen và sẽ hành động theo ý mình.

Nếu thông tin về ý định bắn hạ UAV của "nước thứ ba" trên Biển Đen được xác nhận, đây có thể trở thành tín hiệu đáng chú ý đối với NATO, nhưng ở chiều ngược lại, Nga nhiều khả năng sẽ hứng chịu những đòn trả đũa trực tiếp của Liên minh quân sự phương Tây, thay vì thông qua Ukraine./.

Yêu nước ST.

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

HẠ THẤP VAI TRÒ, UY TÍN CỦA ĐẢNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN – LUẬN ĐIỆU LẠC LÕNG

 HẠ THẤP VAI TRÒ, UY TÍN CỦA ĐẢNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN – LUẬN ĐIỆU LẠC LÕNG

Trong lịch sử từ khi chính đảng đầu tiên của giai cấp công nhân được thành lập, mối quan hệ giữa Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân là mối quan hệ chặt chẽ, quyết định đến sức mạnh của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, Đảng ta xác định gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân là một nguyên tắc quyết định đến thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thời gian qua, lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, và lợi dụng công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta, các thế lực thù địch đã tung ra những luận điệu chống phá hòng phủ nhận vai trò, hạ thấp uy tín của Đảng, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Những luận điệu lạc lõng trên hoàn toàn thiếu căn cứ.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định, trước khi có đảng cộng sản, phong trào cách mạng đã có các tổ chức công đoàn và các hiệp hội công nhân đóng vai trò là những tổ chức tập hợp, hướng dẫn, động viên công nhân và quần chúng đấu tranh với giới chủ vì quyền lợi của mình. Tuy nhiên, từ khi có đảng cộng sản, đảng cộng sản đã đem lại cho giai cấp công nhân và nhân dân những chuyển biến về chất:

Đảng cộng sản giác ngộ tư tưởng cho giai cấp công nhân và nhân dân về cuộc đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng cộng sản đã giáo dục giai cấp công nhân giác ngộ được nguồn gốc, bản chất bóc lột và tư hữu, ý thức được con đường mục tiêu đấu tranh, nên họ đã tự giác liên kết với quần chúng nhân dân và có hoạt động chính trị rộng rãi, khi đó họ sáng tạo ra cả xã hội. Đảng cộng sản chỉ cho công nhân hiểu, công nhân không chỉ đấu tranh vì các mục đích kinh tế, mà phải tiến lên đấu tranh vì mục đích chính trị là lật đổ chính quyền và chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, thiết lập nên nhà nước vô sản, nền chuyên chính vô sản và chế độ chính trị CSCN, trong đó xác lập quyền thống trị về chính trị của quần chúng nhân dân lao động, nhằm tiến tới xây dựng hình thái kinh tế - xã hội mới Cộng sản chủ nghĩa. Các tổ chức của đảng cộng sản trực tiếp tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân trong phong trào đấu tranh và trong cuộc cách mạng vô sản. Bên cạnh đó, đảng cộng sản với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhân dân, khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời nhân dân, thông qua đó nâng cao vị trí, vai trò của Đảng đối với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.

Ở Việt Nam, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn là nguồn sức mạnh to lớn, làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; thời gian qua đã và đang đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực làm trong sạch đảng, nâng cao uy tín, vị trí của Đảng đối với nhân dân. 

Thực tế đã chứng minh, vị thế, uy tín của Đảng trong lòng nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, nhân dân cần có Đảng để lãnh đạo công cuộc cách mạng, Đảng dựa vào dân để xây dựng và chỉnh đốn. Đó là mối quan hệ quyết định đến thắng lợi cách mạng Việt Nam hiện nay. Đó củng là luận cứ chứng minh những sai lầm, lạc lõng của một số kẻ đội lốt yêu nước mà đi nói xấu đất nước.

.ankhe.

Ảo vọng ‘cờ vàng ba sọc’ và âm mưu Diễn biến hoà bình - hãy cảnh giác!

Chiến tranh đã đi qua ngót nửa thế kỷ nhưng đây đó trên địa cầu vẫn còn có những thế lực, những kẻ ôm mộng “ngày về” Việt Nam bằng ảo vọng “cờ vàng”.

Ngày 30/4/1975 không chỉ là ngày thống nhất đất nước, ngày vui chung của mọi người dân Việt Nam mà còn như dòng lũ cuốn đi những biểu tượng, thể chế không còn đại diện cho nguyện vọng lớn của cả dân tộc. Đó cũng là sự khẳng định dứt khoát của lịch sử mà không một thế lực nào có thể cưỡng lại.

Đất nước ra khỏi chiến tranh, tất cả tập trung cho xây dựng, cho phát triển, cho đổi mới. Vị thế, cơ đồ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng rộng mở. Tiếng nói Việt Nam đang mạnh mẽ đi cùng thời đại.

Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng, quốc kỳ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lá cờ có sức vẫy gọi cổ vũ biết bao thế hệ người Việt Nam đấu tranh xóa bỏ xiềng xích, làm chủ đất nước, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, đã trở thành biểu tượng cho sức sống Việt Nam, vị thế Việt Nam. Đó là chân lý, là logic của thời đại mà không một thế lực nào có thể ngăn cản được.

Ảo vọng ‘cờ vàng ba sọc’ và âm mưu Diễn biến hoà bình - hãy cảnh giác!
Lá cờ đỏ sao vàng- biểu tượng thiêng liêng của đất nước Việt Nam

Nhưng dù thời gian đã trôi đi, lịch sử đã sang trang nhưng trên địa cầu vẫn còn có những thế lực, vẫn còn có những kẻ cố tình không chấp nhận chân lý đó, logic đó để làm nền cho những ảo mộng “ngày về”, ảo mộng ”cờ vàng ba sọc” vốn là biểu tượng của một chính thể đã bị xóa xổ.

Sau những thất bại nhục nhã, tự vạch rõ chân tướng của mình bằng những chiến dịch “chuyển lửa về quê hương” hòng dùng súng đạn để phá hoại hoà bình ở Việt Nam cũng như đang dần không còn đất diễn ngay nơi đứng chân, những kẻ thân xác hiện tại, hồn cốt quá khứ lại cố tô vẽ, dựng lên những “hình ảnh mới, giá trị mới” cho “lá cờ vàng” để “chứng minh” cho những mưu đồ dựng dậy cái thây ma của chế độ nguỵ quyền Sài Gòn trước năm 1975.

Không khó để nhận thấy những mưu mô tung hô hình ảnh lá cờ vàng ba sọc thực chất là để tiếp tục những ý tưởng hằn học, những nỗ lực tuyệt vọng cho việc chống phá Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đe doạ cuộc sống hoà bình của người dân, chống phá quan hệ Việt Nam với các nước, các nền kinh tế đang ngày một thêm rộng mở và phát triển tốt đẹp, phù hợp với nguyện vọng của các đối tác của Việt Nam.

Luyến tiếc những tháng ngày “vàng son” từ dĩ vãng, chúng dùng những lá cờ vàng ba sọc để cổ xuý cho luận điệu rằng, “cuộc chiến hôm qua còn chưa kết thúc trong lòng người Việt”.

Chúng lợi dụng lá cờ vàng ba sọc để xuyên tạc hình ảnh Việt Nam với hy vọng phá hoại mối bang giao giữa Việt Nam và các nước. Thậm chí là tiến hành những vận động để có được cái gọi là tính “chính danh” cho một thứ biểu tượng đã không còn tồn tại, bị ném vào sọt rác của lịch sử.

Cần thẳng thắn điểm mặt chỉ tên như những cái gọi là “Việt Tân”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” không ngớt tung luận điệu “Chính phủ Việt Nam “sợ lá cờ vàng”. Không thể nói gì hơn trong cơn tuyệt vọng ấy, lá cờ vàng ba sọc còn được huy động cho cả những hoạt động xâm hại, vi phạm pháp luật ngay nơi sở tại mà lá cờ vàng ba sọc đang thoi thóp.

Âm mưu lớn nhất của những kẻ đã và đang ôm ảo mộng là phủ nhận thành quả đấu tranh, dựng xây của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mảnh đất “diễn” những kẻ ôm ảo mộng cờ vàng ba sọc những tưởng có thể làm xoay chuyển tình hình, thu hút tâm trí của những người có lương tri không gì khác hơn đang biến thành cái hố ngày một sâu thêm để dần chôn vùi chính những tham vọng phản động, những mưu đồ đen tối đi ngược thời đại.

Không phải chỉ hôm nay, mà ngay từ hôm qua và chắc chắn cả sau này, chính nghĩa Việt Nam, hình ảnh đất nước Việt Nam với biểu tượng lá cờ đỏ sao vàng luôn có sức cảm hoá, sức thu hút những con người Việt Nam chân chính không chỉ ở trên mảnh đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương mà còn ở khắp nơi, lan toả cả đến những người bạn chân thành của chúng ta.

Đó là tài sản tinh thần rất đỗi quý giá, cũng là nguồn động lực để đất nước Việt Nam ngày thêm vững mạnh, sánh bước cùng các nước trên thế giới trong đối mặt và tìm lời giải cho những bài toán lớn của thời đại như biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.

Chúng ta luôn tỉnh táo, không cho phép những kẻ tự coi mình hành động như những con thiêu thân để châm lửa đốt hay phá hỏng tài sản tinh thần đó./.

ST.


Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết: Từ 3 bài học lớn

Thực tiễn lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh đã chứng minh chỉ có đoàn kết chính nghĩa mới đem lại thắng lợi cho cách mạng và mọi điều trong đời sống, xã hội.

Sinh thời, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm, nhắc nhở và nêu gương về đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng. Đây cũng là di sản của Người mà mọi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nghiên cứu, học tập, quán triệt và thực hiện nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đưa đất nước ngày càng phát triển, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh“Muốn thắng lợi thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông người, tức là của tập thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thắng nổi tự nhiên, không sống còn được. Để sống còn, loài người lại phải sản xuất mới có ăn, có mặc. Sản xuất cũng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội. Chỉ riêng lẻ cá nhân cũng không sản xuất được. Thời đại chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”.

Trong sự nghiệp cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước thời đại Hồ Chí Minh cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đoàn kết là một trong những nguyên tắc sống còn được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, thực hành một cách có hiệu quả và được đúc kết trên 3 phương diện gồm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đoàn kết quốc tế.

Ba bài học từ tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết chính là nền tảng của sức mạnh (Ảnh tư liệu)

Trước hết, về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” và “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân là nền tảng của sức mạnh, là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong tiến trình cách mạng cũng như phát triển đất nước.

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nhân nguồn sức mạnh đó lên, Người luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp nhân dân vào hàng ngũ cách mạng, biến ý chí, tư tưởng cách mạng của Đảng thành ý chí, tư tưởng, động lực để phát huy sức mạnh của nhân dân. Người coi nhân dân không phân biệt tầng lớp, giàu nghèo, trai gái, già trẻ là nền gốc của đại đoàn kết. Khi khối đoàn kết này phát huy sức mạnh thì “dời non, lấp bể” đều có thể làm được.

Thực tế, lịch sử đã chứng minh từ thời cha ông ta dựng nước, chỉ có đoàn kết chính nghĩa vì lợi ích chung của dân tộc, đất nước, chúng ta đã giành thắng lợi trong các cuộc khởi nghĩa, chiến thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh, chiến thắng dịch bệnh, thiên tai, mang lại độc lập, tự do, hoà bình và cuộc sống ấm no, bình yên cho Nhân dân. Chính sự đoàn kết, thống nhất đó, Việt Nam đã làm nên nhiều kỳ tích mà không phải quốc gia nào cũng làm được. Các số liệu về xoá đói, giảm nghèo, xoá mù chữ, y tế, phát triển kinh tế, hội nhập là một minh chứng rõ nét.

Thứ hai là giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Trải qua 94 năm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng lớn mạnh. Đảng ta lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm mục tiêu cao nhất.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc xây dựng, duy trì, bảo vệ cho được sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, từ chi bộ cơ sở đến Ban Chấp hành Trung ương có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo, cũng như trước lúc đi xa, Người luôn căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Cũng cần hiểu rằng, đoàn kết, thống nhất trong Đảng không có nghĩa là bao che cho những cái sai, cái chưa đúng của cán bộ đảng viên. Để có được sự đoàn kết, thống nhất, Đảng cũng đã phải thi hành kỷ luật, khai trừ nhiều đảng viên, thậm chí cả lãnh đạo cấp cao ra khỏi bộ máy nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của Nhân dân.

Thứ ba là đoàn kết quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hiểu, thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin về tinh thần đoàn kết quốc tế với khẩu hiệu “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” và trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người cũng hiểu rõ vai trò, tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc hay trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Đương nhiên muốn đoàn kết quốc tế thì phải “bang giao”. Ngay sau khi giành lại được độc lập, bên cạnh việc củng cố, xây dựng chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những hoạt động tích cực mở rộng quan hệ quốc tế, kể cả những quốc gia được cho là đối nghịch như Pháp.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế dựa trên những nguyên tắc cơ bản như: Bình đẳng về lợi ích và trách nhiệm; Thực sự tôn trọng lẫn nhau; Tự lực cánh sinh; Có lý, có tình. Những tư tưởng này đã được Đảng quá triệt, chỉ đạo xuyên suốt cho đến tận ngày hôm nay. Nó cũng được lan toả trên bình diện thế giới, tạo động lực, niềm tin để nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới đoàn kết vì lợi ích chung là hoà bình, phát triển./.

ST.

Phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong Quân đội

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và Quân đội Nhân dân Việt Nam nói riêng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết không chỉ là đường lối chiến lược mà còn là mục tiêu lâu dài của cách mạng. Người chỉ rõ: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.

Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết quốc dân đồng bào để bảo vệ chính quyền cách mạng, chiến thắng thù trong, giặc ngoài. Vì vậy, phải đại đoàn kết dân tộc để làm cho “quần chúng Nhân dân được tự do, độc lập hoàn toàn và cho mọi phần tử quốc dân được hưởng tự do độc lập”.

Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp một lần nữa quay trở lại xâm lược, mở rộng ra các vùng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, quân đội Tưởng tìm cách can thiệp vào chính trị nước ta, hòng thỏa hiệp để xứ Đông Dương trở về tay Pháp. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của Nhân dân Việt Nam, vì vậy phải: “Lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược. Mở rộng Việt Minh cho nó bao gồm mọi tầng lớp Nhân dân…”.

 Cán bộ, chiến sĩ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Gia Lai giúp Nhân dân huyện Kbang dựng lại nhà sau bão (Ảnh: Công Tiến)

Yếu tố then chốt để Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động toàn quốc kháng chiến là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ chủ nghĩa dân tộc truyền thống, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam, thúc giục cả dân tộc đứng lên kháng chiến với lập trường tư tưởng kiên định vì độc lập dân tộc. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã cổ vũ các dân tộc thuộc địa trên thế giới đấu tranh giành lại độc lập, tự do, đồng thời là biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam; của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta: đường lối kháng chiến phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ trương “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập và nhanh chóng phát triển, thu hút được đông đảo quần chúng và được các lực lượng tiến bộ, chính phủ nhiều nước trên thế giới ủng hộ. Cách mạng phát triển mạnh, Đảng ta đã tổ chức xây dựng, thực hiện thế trận chiến tranh Nhân dân trường kỳ, toàn diện đánh dấu bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 - phá hủy chiến lược “Chiến tranh cục bộ” khiến Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris; hay cuộc tập kích chiến lược mang tính hủy diệt bằng B52 đối với miền Bắc và thủ đô Hà Nội năm 1972; đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Chiến thắng 30/4/1975 là minh chứng cho chiến thắng của đại đoàn kết toàn dân tộc vì hòa bình, độc lập và tự do của đất nước dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong giai đoạn mới, Đảng ta khẳng định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

Nghị quyết 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” xác định, nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa người Việt Nam trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.

Sau gần 40 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng, góp phần làm cho “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Nhận thức về tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Phát huy giá trị đại đoàn kết dân tộc trong Quân đội hiện nay

Quân đội Nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với Nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, việc tiếp tục giữ gìn, củng cố, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vừa là yêu cầu nhiệm vụ, vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng liêng của Quân đội. Những năm qua, đội ngũ quân nhân phục vụ trong quân đội luôn nhận thức sâu sắc về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất”, Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc và gương mẫu trong thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trọng tâm là Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Trong giai đoạn 2003 - 2022, các cơ quan, đơn vị trong quân đội đã làm mới, sữa chữa, nâng cấp 145.636 km đường nông thôn; 202.305 km kênh mương nội đồng; cải tạo 3.879 km lưới điện; xây dựng 5.855 nhà văn hóa; 17.926 nhà ở chính sách cho người có công, hộ nghèo; làm 1.072 cầu các loại; 934 công trình nước sạch; xóa gần 3.000 nhà tạm, nhà dột nát.

 Bộ đội Biên phòng Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn ngư dân (Ảnh: Công Tiến) 

Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng đứng chân trên địa bàn chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu, chỉ đạo xử lý thắng lợi các tình huống về quốc phòng, an ninh; chủ động, nhạy bén đấu tranh, làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; xung kích, đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu nạn... nhất là phòng, chống, đẩy lùi dịch COVID-19. Những kết quả trên cho thấy Quân đội đã góp phần củng cố, tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.

Trong bối cảnh mới, sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân chuyên nghiệp phục vụ trong Quân đội cần quán triệt sâu sắc và nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, mối quan hệ, giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Mỗi quân nhân phải rèn luyện nếp sống chính quy, xây dựng chuẩn mực đạo đức, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; tiếp tục giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong nội bộ, đoàn kết quân dân, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, góp phần to lớn vào củng cố, phát triển đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đồng thời, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước; chủ động nắm tình hình, phát hiện từ sớm, từ xa, ngăn chặn, xử lý kịp thời ý đồ chia rẽ Nhân dân với Đảng và Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giúp đỡ Nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, tham gia hiệu quả chương trình xóa đói giảm ngèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, xây dựng đời sống tinh thần vui tươi, lành mạnh; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phát huy truyền thống 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ toàn quân quyết tâm thực hiện các giải pháp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần tăng cường thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân; củng cố nguồn sức mạnh, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

ST.

Nhất quán khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta; là ngọn đuốc soi đường thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và trước mọi luận điệu xuyên tạc, chống phá, cần nhất quán khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thời gian gần đây, nhiều trang mạng như Trung tâm Asia, Chantroimoi media, Danlambao, Tiếng Dân News… thường xuyên đăng tải các thông tin sai trái nhằm xuyên tạc, phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số ý kiến trên các trang mạng này cho rằng, “tư tưởng Hồ Chí Minh là sự du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam”; “Hồ Chí Minh là nhà dân tộc chủ nghĩa” chứ không phải là người cộng sản; “tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều, sao chép, máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời”;…

Bên cạnh đó là những ý kiến cố tình đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin, tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin; hoặc đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh với luận điệu “Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh, không cần chủ nghĩa Mác-Lênin”;…

Trước hết, cần thấy rõ một thực tế đó là tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Cùng với đó là sự tiếp thu, tiếp biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: văn hóa phương Đông và phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin; trong đó, nét đặc sắc chính là sự kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây và tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng những tinh hoa văn hóa được tích lũy, chắt lọc qua thực tiễn.

Đúng như Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.

Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo dân tộc giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; cũng như giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và những thành tựu quan trọng về mọi mặt trong gần 40 năm đổi mới và hội nhập quốc tế.

Mặt khác, cần khẳng định, bản chất của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, cho nên, không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời, cũng không thể đề cao, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh mà phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là càng không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác-Lênin và ngược lại.

Khằng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ".

Trong giai đoạn hiện nay, trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, nhất quán khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là thể hiện thái độ chủ động phòng, chống sự xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhất quán khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch hiện nay. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần thường xuyên quán triệt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân trên địa bàn, cơ quan, đơn vị. Căn cứ vào những yêu cầu thực tiễn đặt ra, cấp ủy, tổ chức đảng ban hành các nghị quyết, chủ trương, biện pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Xây dựng, tổ chức lực lượng và vận động, tổ chức để cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ hai, kiên quyết, chủ động vạch trần mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch. Thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới" gắn với Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Đẩy mạnh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng Hồ Chí Minh; uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin về chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng thời, chủ động đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp.

Thứ ba, chú trọng phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện trong tuyên truyền, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chú trọng phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện trong nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình; tham mưu kịp thời với cấp ủy đảng, chính quyền các nội dung biện pháp đấu tranh ngăn chặn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; cung cấp thông tin, kịp thời định hướng tư tưởng, nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Sử dụng và phát huy hiệu quả các cơ quan báo chí, truyền thông, các thiết chế văn hóa ở cơ sở. Thường xuyên đổi mới nội dung, biện pháp tuyên truyền, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao ý thức cảnh giác, chủ động phát hiện và đấu tranh kịp thời với các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.  

Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, giáo dục và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh trong thực tiễn hiện nay. Đẩy mạnh việc tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về giá trị, tầm vóc, sức sống của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân phải mang tính toàn diện, đồng bộ, tập trung trước hết là giáo dục cho cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, sức mạnh, khả năng tự bảo vệ của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm ở chính kết quả hoạt động của triệu triệu quần chúng, cán bộ, đảng viên cộng sản, khi họ nhận thức sâu sắc sự đúng đắn bản chất cách mạng, khoa học, tin tưởng và làm theo tư tưởng của Người. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng hiện nay. Việc vận dụng có hiệu quả chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay chính là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở thực tiễn có sức thuyết phục nhất để đập tan các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh./.

ST.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được coi là nhiệm vụ sống còn, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ, vì vậy đây chính là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của cả hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay.

1. Nội hàm của “bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Tuy nhiên, ở Việt Nam, cương lĩnh, đường lối của Đảng; chính sách và pháp luật của Nhà nước đều được xây dựng dựa trên nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước trong hơn 35 năm qua chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Do đó, nội hàm của “nền tảng tư tưởng của Đảng” ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn bao hàm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.

Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo vệ” là “chống lại mọi xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn”, “bênh vực bằng lý lẽ để giữ vững ý kiến, quan điểm”[2]. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là việc sử dụng tổng hợp các lực lượng và các biện pháp kiên quyết, kiên trì giữ gìn, duy trì, củng cố bản chất cách mạng và khoa học, phát huy, phát triển sáng tạo những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời chống lại sự xuyên tạc, phá hoại và cả những nhận thức sai trái của các lực lượng bên ngoài và bên trong nhằm làm cho nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng thấm sâu, ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là học thuyết, tư tưởng cách mạng mà còn phải bảo vệ thành tựu và biểu hiện cụ thể của nền tảng tư tưởng đó trong thực tiễn đổi mới đất nước. Với ý nghĩa đó, Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII ngày 11/10/2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã khẳng định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta

2. Bối cảnh mới và yêu cầu đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được đặt ra ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng và trở thành nhiệm vụ xuyên suốt trong suốt hơn 90 năm qua. So với những giai đoạn trước đây, thực tiễn trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi nên đã đặt ra những yêu cầu mới cho nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định, trong những năm qua và cả những năm tiếp theo, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo. Tuy hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ yếu song thế giới đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức như “chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên”[3], các vấn đề an ninh phi truyền thống vẫn đang tiếp diễn, đại dịch Covid-19 vẫn có những diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu… Đặc biệt, “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn”[4].

 Gần đây, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng những “điểm nóng” trên các lĩnh vực của Việt Nam nhằm xuyên tạc tình hình phát triển của đất nước, hướng lái những tư tưởng và hành động sai trái, chống đối, bất tuân, bạo lực và bạo động trong cộng đồng nhân dân và xã hội; từ đó lôi kéo, tập hợp những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước can dự vào công việc nội bộ của Việt Nam. Ngoài ra, chúng móc nối, xâm nhập vào nội bộ của Đảng, tìm cách phân hóa tổ chức để tìm ra “ngọn cờ” tập hợp lực lượng. “Ngọn cờ” mà các thế lực thù địch hướng tới chính là những phần tử ở ngay trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nhưng có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn chính trị.

Trong khi đó, “những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”[5]. Nghiêm trọng hơn, “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”[6]. Đây là những thách thức rất lớn đang đặt ra đối với công tác bảo về nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn hiện nay.

3. Giải pháp tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

Để công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, đồi hỏi của tình hình mới, cần chú trọng đến những giải pháp cơ bản sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Vì bối cảnh thực tiễn đã có nhiều thay đổi, đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết nên để tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu lớn về những vấn đề cơ bản, nền tảng nhằm tiếp tục khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư  tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, cần chắt lọc, đề xuất những vấn đề cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn nước ta giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, kiên trì, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bên cạnh việc khẳng định, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cần tiếp tục đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Trước hết, cần hệ thống hóa các nội dung đang bị các thế lực chống phá, từ đó xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác trên từng vấn đề cụ thể. Đồng thời, chuyển trọng tâm của việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên mặt trận tư tưởng, lý luận truyền thống là chủ yếu sang đấu tranh trên internet và mạng xã hội. Đây là một sự chuyển hướng cần thiết nhằm nắm bắt xu thế tất yếu của thời đại. Đó là sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch trên không gian mạng khiến mạng xã hội trở thành không gian tranh chấp chính trên trận tuyến đặc biệt quan trọng này.

Thứ ba, phát huy thế trận toàn dân, ra sức tập hợp lực lượng tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, các cấp ủy đảng cần chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đấu tranh trọng tâm, sát với sự chỉ đạo của Đảng; dự báo kịp thời với sự phát triển của tình hình; phát huy triệt để các lực lượng xung kích, các chuyên gia khoa học hàng đầu, đội ngũ cán bộ đầu ngành, các nhà khoa học, nhà báo và đông đảo các cộng tác viên nhiệt huyết, có bản lĩnh cùng tham gia đấu tranh. Mỗi cơ quan chuyên ngành, mỗi nhà khoa học, lãnh đạo và quản lý, trước những tư tưởng phản động, thù địch có liên quan đến trực tiếp chuyên ngành, lĩnh vực của mình phụ trách cần chủ động định hướng nội dung và triển khai tổ chức, lực lượng đấu tranh kịp thời.

Thứ tư, kết hợp đa dạng, mở rộng các hình thức đấu tranh với giáo dục, tuyên truyền rộng khắp trong quần chúng nhân dân, làm cho cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là hành động tự giác của nhân dân. Do đó, phải huy động hết thảy những người dân thực sự có tinh thần yêu nước chân chính, có năng lực và dũng khí cùng tham gia đấu tranh trở thành một phong trào toàn dân đấu tranh, áp đảo chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân cần trở thành người chiến sĩ đấu tranh tích cực ngay từ cơ sở, tổ chức nhiều “vệt” đấu tranh tư tưởng, lý luận phục vụ kịp thời cho các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại quan trọng của đất nước.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về truyền thông, báo chí, nhất là internet và mạng xã hội. Có biện pháp quản lý chặt chẽ mạng internet, ngăn ngừa các trang mạng độc hại kết hợp với tăng cường mở mới, đa dạng các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh tư tưởng, lý luận của ta với phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; tăng cường các giải pháp kỹ thuật để ngăn chặn tận “gốc” nguồn tuyên truyền, phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; quản lý chặt chẽ, không để lộ, lọt, sơ hở về đăng tải thông tin theo quy định của Nhà nước; theo dõi, kịp thời xử lý, khống chế có hiệu quả các trang mạng có nội dung phản động; phối hợp cùng các cơ quan tuyên truyền từng bước làm chủ thế trận tiến công về tư tưởng, lý luận trên mạng Internet.

Theo quy luật tất yếu, thực tiễn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Do đó, đòi hỏi công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng cần có sự điều chỉnh, bổ sung theo yêu cầu đặt ra của thực tiễn. Đây tuy là một nhiệm vụ rất khó khăn, nhiều thử thách nhưng với sự kiên trì, kiên định về lập trường tư tưởng; với ý chí, bản lĩnh, sáng tạo và tinh thần quyết tâm, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng sẽ tiếp tục đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong thời gian tới./.

ST.