Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH

 

Sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã là một nhiệm vụ lớn đang được các địa phương thực hiện. Núp dưới danh nghĩa phản biện xã hội, không ít đối tượng xấu đã tung ra những thông tin sai lệch, phiến diện, xuyên tạc về việc sắp xếp đơn vị hành chính để kích động sự bất ổn xã hội.

Sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã đang là nội dung nhận được sự quan tâm lớn từ dư luận. Bên cạnh đại đa số ý kiến tán thành, còn một số ý kiến băn khoăn về vấn đề này. Lợi dụng điều này, các đối tượng xấu đã tung ra nhiều luận điệu độc hại, sai trái, xuyên tạc như: “Nhiều địa danh lịch sử trên cả nước sắp bị biến mất do các tỉnh nhập tách đơn vị hành chính. Nếu rảnh rỗi quá thì nên đọc lại sách tiểu học để cập nhật kiến thức và khỏi tốn thời gian làm chuyện ruồi bu”, “sắp xếp lại đơn vị hành chính là điều không cần thiết, gây phiền hà cho người dân, tốn kém ngân sách”, “xét về văn hóa, xóa bỏ tên làng, xã, huyện còn dã man hơn cả giặc phương Bắc ngày xưa đập bia, đốt sách nước Nam”, “việc sắp xếp đơn vị hành chính được thực hiện nóng vội, chủ quan, không phù hợp với thực tiễn”… Bằng những giọng điệu tiêu cực như nêu trên, các đối tượng xấu đang cố tình kích động sự hoang mang, bất đồng trong xã hội.

Xuất phát từ thực trạng nhiều đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã quy mô quá nhỏ, không gian phát triển bị chia cắt, gây nhiều khó khăn, cản trở trong việc phát triển kinh tế - xã hội, làm phân tán nguồn lực đầu tư, tạo ra tổ chức bộ máy cồng kềnh…, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24-12-2018 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Mục tiêu của việc sắp xếp đơn vị hành chính là để tổ chức hợp lý đơn vị hành chính các cấp phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước; bảo đảm hoàn thiện thể chế về đơn vị hành chính, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, góp phần phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.Quá trình triển khai việc sắp xếp đơn vị hành chính được thực hiện thận trọng, theo từng lộ trình rõ ràng. Tổng kết việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019-2021 cho thấy, việc sắp xếp này đã góp phần tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, giảm chi ngân sách nhà nước, mở rộng không gian phát triển, phát huy tiềm năng, lợi thế của các địa phương. Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, ngày 30-1-2023, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 48-KL/TW về tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. Đến ngày 12-7-2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. Đây là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để triển khai việc sắp xếp đơn vị hành chính.

Việc sắp xếp đơn vị hành chính được thực hiện một cách dân chủ, đúng quy định pháp luật. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân được chú trọng, góp phần tạo sự đồng thuận, ủng hộ, thống nhất cao từ cộng đồng. Đồng thời, việc tổ chức lấy ý kiến cử tri trên địa bàn được triển khai bảo đảm công khai, minh bạch. Mặt khác, nghị quyết của Quốc hội cũng quy định rõ việc đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp phải bảo đảm đoàn kết dân tộc, phù hợp các yếu tố lịch sử, truyền thống, văn hóa của địa phương và tôn trọng ý kiến của đa số cử tri. Đây là những căn cứ quan trọng bác bỏ luận điệu xuyên tạc, chống phá đang được các đối tượng xấu rêu rao.

Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã là vấn đề khó, phần nào ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Tuy nhiên, đây là việc cần thiết phải tiến hành để các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã phù hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

NHIỆM VỤ THIÊNG LIÊNG CAO CẢ

 

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và gắn bó chặt chẽ với quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Điều 1, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 chỉ rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”.  Điều 11 Hiến pháp cũng khẳng định: “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”. Để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác có hiệu quả với những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái, lợi dụng vấn đề lãnh thổ, chủ quyền, biên giới của các thế lực thù địch, chúng ta cần làm tốt một số giải pháp sau: 

 

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về tầm quan trọng của việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia hiện nay. Đây là giải pháp mang tính nền tảng và phải được đặt lên hàng đầu bởi sức mạnh của nhân dân luôn là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại. Do đó, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, hiểu rõ những quy định pháp lý về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của Việt Nam; về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ động, tích cực tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là quần chúng nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thế hệ trẻ nhận thức rõ, hiểu đúng, đủ mục đích, dã tâm, âm mưu, thủ đoạn, cũng như các quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để chống phá, xuyên tạc vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của Đảng, Nhà nước ta hiện nay… Qua đó, tạo “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn đó cho nhân dân.

Hai là, đề cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong chủ động, tích cực đấu tranh làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, phản động về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Cụ thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch. Kịp thời đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá, mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, kích động di dân tự do; âm mưu chia rẽ giữa cấp ủy, chính quyền địa phương với nhân dân, chia rẽ đồng bào các dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân. Quan tâm, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm cuộc sống, lao động, sản xuất ổn định, được thụ hưởng các giá trị văn hóa tốt đẹp cho đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới. Nâng cao trình độ dân trí, cung cấp đầy đủ, khách quan, kịp thời những thông tin cần thiết để người dân ở khu vực biên giới thuận lợi trong việc tiếp nhận, nắm, biết rõ mọi vấn đề.

Ba là, đa dạng các hình thức tuyên truyền, vận động. Kiên quyết xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, xuyên tạc về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia và quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Chủ động, tích cực đăng tải các bài viết trên những phương tiện thông tin, nhất là trên internet, mạng xã hội, thể hiện rõ lập trường, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đối với những vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.  Tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin, các giải pháp kỹ thuật để tìm kiếm, ngăn chặn, bóc gỡ những thông tin độc hại về tình hình chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Xử lý kiên quyết các đối tượng đăng tải, bình luận sai lệch, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phản động chống phá quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

 

 Bốn là, bố trí, sắp xếp đưa dân ra khu vực biên giới, quy hoạch thành các cụm, điểm dân cư, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Xây dựng, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa cấp ủy, chính quyền địa phương với các đơn vị quân đội, công an trên địa bàn khu vực biên giới. Cấp ủy, chính quyền các địa phương trên khu vực biên giới cần tăng cường rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, đồng thời bố trí lại dân cư trên tuyến biên giới. Có chính sách đặc thù về dân số, phát triển dân số khu vực biên giới; ưu tiên việc phát triển dân cư tại chỗ kết hợp với đưa dân cư từ các địa bàn khác đến khu vực biên giới, hình thành các cụm dân cư, như: “Điểm dân cư liền kề chốt dân quân biên giới”, “điểm dân cư liền kề đồn, trạm và chốt biên phòng”, tiến tới hình thành thôn, bản, phum, sóc biên giới ổn định, bền vững. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành các trung tâm dân cư trên toàn tuyến biên giới để xây dựng lực lượng bảo vệ, chiến đấu tại chỗ, tạo thế vững chắc cho địa bàn biên giới phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh, tạo thế trận biên phòng toàn dân bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; là vấn đề cực kỳ thiêng liêng, nhưng cũng hết sức khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Các luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động về vấn đề này, bản chất là những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, mục đích nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, chúng ta phải luôn cảnh giác, đồng thời, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn thâm độc của chúng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

TẠM ĐÌNH CHỈ CÔNG TÁC: CÔNG CỤ HỮU HIỆU TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG THAM NHŨNG VÀ TIÊU CỰC

 

Thứ nhất, biện pháp tạm đình chỉ công tác là một công cụ hữu hiệu để ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực ngay từ giai đoạn đầu. Khi một cán bộ bị tạm đình chỉ công tác, họ sẽ bị tước bỏ quyền lực tạm thời, không thể tiếp tục các hành vi tiêu cực hoặc tác động lên quá trình điều tra, xác minh. Điều này giúp bảo vệ tính minh bạch, công khai và bảo đảm quá trình điều tra được diễn ra một cách khách quan và chính xác. Việc tạm đình chỉ công tác cũng tạo ra sức ép tâm lý lên các cán bộ, công chức, khiến họ nhận thức rõ ràng hơn về hậu quả của các hành vi vi phạm và từ đó có ý thức chấp hành tốt hơn các quy định pháp luật và đạo đức công vụ. Hơn nữa, theo Điều 81 của Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2019), tạm đình chỉ công tác là biện pháp hành chính được áp dụng khi cán bộ, công chức có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc cần điều tra làm rõ sự việc, cho thấy đây là biện pháp được luật pháp công nhận và sử dụng để bảo đảm sự minh bạch và công bằng.

Thứ hai, biện pháp tạm đình chỉ công tác không phải là một hình thức kỷ luật cuối cùng, mà là một bước đầu trong quy trình xử lý vi phạm của cán bộ, công chức. Sau khi bị tạm đình chỉ, các cơ quan chức năng sẽ tiến hành điều tra, xác minh hành vi vi phạm của cán bộ. Nếu phát hiện vi phạm nghiêm trọng, họ sẽ áp dụng các hình thức kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo đến cách chức hoặc khai trừ khỏi Đảng theo Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Điều này cho thấy, tạm đình chỉ công tác không phải là điểm dừng mà là khởi đầu cho một quy trình xử lý nghiêm túc và toàn diện. Những chỉ trích cho rằng tạm đình chỉ công tác chỉ là cơ hội để cán bộ nghỉ ngơi và du lịch là thiếu căn cứ, bởi lẽ sau khi bị tạm đình chỉ, cán bộ vẫn phải đối mặt với quá trình điều tra và có thể bị xử lý kỷ luật nếu vi phạm.

Thứ ba, tạm đình chỉ công tác là biện pháp được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, cho thấy tính khả thi và hiệu quả của nó trong quản lý công chức. Ở Singapore, một trong những quốc gia nổi tiếng với hệ thống hành chính công trong sạch và hiệu quả, biện pháp tạm đình chỉ công tác được áp dụng để điều tra các cán bộ bị nghi ngờ vi phạm nghiêm trọng. Điều này, giúp bảo đảm tính minh bạch, công khai và công bằng trong quá trình điều tra, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc trong sạch và lành mạnh. Việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác tại Việt Nam cũng nhằm mục đích tương tự, góp phần xây dựng một nền hành chính công vụ trong sạch, vững mạnh.

Những ý kiến chỉ trích biện pháp này thiếu căn cứ vững chắc và không xem xét toàn diện các khía cạnh của vấn đề. Chúng ta cần nhận diện rõ các luận điệu xuyên tạc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội tại Việt Nam, bản chất xấu xa và mục đích đen tối của các thế lực thù địch, từ đó kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới./.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG TRÀO THI ĐUA

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước là hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, được hình thành trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng và truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc, đường lối và thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ nội dung của “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” thể hiện nổi bật tư tưởng của Người về thi đua ái quốc như sau:

Một là, quan điểm thi đua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Theo Người, thi đua là một trong những biện pháp của quá trình vận động cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc, rộng lớn, thi đua không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân con người, nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, làm cho già, trẻ, gái, trai và tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội đều hướng tới mục đích chung.

Hai là, mục đích thi đua yêu nước nhằm khơi dậy, phát huy được tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân, làm cho mọi người đều hăng hái, tích cực, sáng tạo, ngày càng làm được nhiều điều tốt hơn trong xã hội… Như vậy, đời sống của nhân dân sẽ ngày càng đầy đủ, no ấm, đất nước sẽ ngày càng giàu lên, quân đội sẽ ngày càng vững mạnh và sẽ hoàn thành được mục tiêu của cách mạng đề ra.

Ba là, nội dung thi đua yêu nước phải toàn diện, phải xuất phát và phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng, phải thiết thực, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước, gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng ngành, từng cấp, hướng vào cải tạo và xây dựng con người mới, hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản, thiết thực của nhân dân; thi đua phải gắn với công việc hằng ngày của mỗi người.

Bốn là, cách tổ chức phong trào thi đua yêu nước: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”; các phong trào thi đua yêu nước cần phải đa dạng, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự giác, sáng tạo và sức lực của các tầng lớp nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng. Trong quá trình thi đua, Người thường lưu ý, phải coi trọng sáng kiến, tổng kết kinh nghiệm. Từ những sáng kiến và kinh nghiệm trong từng ngành, lĩnh vực, ở một địa phương, cơ quan, đơn vị… sẽ được phổ biến, lan rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều cơ quan, cho đến cả nước; phải coi những sáng kiến, kinh nghiệm là tài sản vô giá, cần được phát huy và phổ biến.

Năm là, phương châm thi đua yêu nước, Người chỉ rõ “thi đua chứ không phải ganh đua” nên cần phải đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau để đạt thành tích cao; “giúp đỡ những người và những nhóm còn kém theo kịp mức cao hiện nay”; thi đua phải gắn liền với công tác khen thưởng; khen thưởng là kết quả của phong trào thi đua; khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục. Như vậy, thi đua để tăng cường đoàn kết, mà đoàn kết lại đẩy mạnh thi đua.

Sáu là, lực lượng thi đua, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng của phong trào thi đua yêu nước là toàn thể nhân dân: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”. Từ đó, Người nhận định: “Với lòng nồng nàn yêu nước và lực lượng vô cùng tận của nhân dân ta, cuộc Thi đua ái quốc nhất định sẽ thành công to”.

Ngày nay, cách mạng nước ta đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào thi đua yêu nước vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Để vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về ý nghĩa và tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; tăng cường giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường, tự hào dân tộc và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo nên sự đồng thuận thực hiện phong trào thi đua ngày càng phát triển. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thi đua khen thưởng.

“Sáng kiến và kinh nghiệm cũng như những con suối nhỏ chảy vào sông to, những con sông to chảy vào bể cả. Không biết quý trọng sáng kiến và phổ biến kinh nghiệm tức là lãng phí của dân tộc” - Chủ tịch Hồ Chí Minh./. 

Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM

 

Gần đây, có một số luận điệu xuyên tạc và thiếu khách quan về tình hình sinh viên Việt Nam, đặc biệt là về ý thức chính trị và khả năng phản biện của họ. Trên trang “thongluan-rdp” đăng tải nội dung “Vì sao sinh viên Việt Nam luôn cam chịu?” của đối tượng Mạc Văn Trang. Bài viết đưa ra những luận điệu lệch lạc, xuyên tạc, cho rằng sinh viên thiếu ý thức chính trị, cam chịu và im lặng trước những bất công trong xã hội. Đây là các quan điểm mang tính chất quy chụp, vô căn cứ và không phản ánh đúng bản chất của sinh viên Việt Nam.

Trước hết, cần phải khẳng định sinh viên Việt Nam luôn có ý thức chính trị mạnh mẽ và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội. Một số người cho rằng sinh viên Việt Nam thiếu ý thức chính trị và không tham gia vào các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngược lại. Sinh viên Việt Nam luôn có ý thức chính trị và tinh thần yêu nước sâu sắc. Họ tham gia tích cực vào nhiều phong trào và hoạt động xã hội khác nhau, từ thiện nguyện đến các hoạt động bảo vệ môi trường. Các hoạt động này không chỉ diễn ra trong phạm vi trường học mà còn lan rộng ra toàn xã hội. Ví dụ, trong những đợt thiên tai lũ lụt, sinh viên là lực lượng nòng cốt trong các chiến dịch cứu trợ và hỗ trợ đồng bào vùng bị ảnh hưởng.

Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn tích cực tham gia vào các diễn đàn và cuộc thi quốc tế, thể hiện bản lĩnh và tài năng của mình trên nhiều lĩnh vực. Họ không ngừng học hỏi, nghiên cứu và sáng tạo, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Các hoạt động này cho thấy sinh viên Việt Nam không hề thờ ơ với những vấn đề xã hội mà ngược lại, họ luôn quan tâm và sẵn sàng đóng góp sức mình để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Các hoạt động tiêu biểu mà sinh viên Việt Nam đã và đang tham gia trong thời gian qua có thể kể đến như chương trình “Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc”, cuộc vận động “Sinh viên Việt Nam, những câu chuyện đẹp”, chương trình “Tuổi trẻ Việt Nam – Câu chuyện hòa bình”, chương trình “Tiếp sức mùa thi”, chiến dịch sinh viên tình nguyện “Mùa hè xanh”, cuộc thi ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp sinh viên “Start-up Student Ideas” lần thứ I, hội thi “Thủ lĩnh sinh viên” toàn quốc…

Thay vì cho rằng sinh viên Việt Nam cam chịu và im lặng, chúng ta cần nhìn nhận rằng họ đang thể hiện quan điểm và bảo vệ quyền lợi của mình thông qua nhiều hành động cụ thể và hiệu quả. Sinh viên Việt Nam không chỉ thụ động chấp nhận những bất công mà họ chọn cách đấu tranh thông minh và bền vững. Họ tham gia vào các phong trào, tổ chức, và các diễn đàn để bày tỏ ý kiến và đưa ra các giải pháp cho những vấn đề xã hội.

Những luận điệu xuyên tạc về sinh viên Việt Nam thiếu ý thức chính trị, cam chịu và im lặng trước những bất công là không có cơ sở và không phản ánh đúng bản chất của sinh viên Việt Nam. Thực tế cho thấy, sinh viên Việt Nam có ý thức chính trị mạnh mẽ và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội; họ đã và đang có những hành động cụ thể để thể hiện quan điểm và bảo vệ quyền lợi của mình. Sinh viên Việt Nam không chỉ có khả năng phản biện mà còn biết cách hành động để tạo ra sự thay đổi tích cực trong xã hội, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển, phồn vinh, hạnh phúc; thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

NHẬN ĐỊNH SAI SỰ THẬT “VIỆT NAM CÓ RẤT ÍT TIẾN BỘ TRONG LĨNH VỰC NHÂN QUYỀN”

 

Đây là nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Bởi lẽ, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Tính đến năm 2023, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Khi nói về vấn đề nhân quyền, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Tính riêng năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh vấn đề nhân quyền ở Việt Nam có nhiều tiến bộ, thể hiện rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Điển hình cho sự tiến bộ ấy là Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người