Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2020

Canh giacs truoc am muu truoc them dai hoi Dang XIII

Những âm mưu chống phá trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XIII

       Có thể nói, chủ nghĩa đế quốc là lực lượng đi đầu thúc đẩy chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam rất quyết liệt, nhưng không ra mặt trực diện, mà hoạt động ngấm ngầm thông qua lôi kéo, liên kết, hợp tác để từng bước “thẩm thấu, chuyển hóa” (hợp tác để chuyển hóa), sử dụng thế lực phản động ngoài nước câu kết với nhóm phản động và những kẻ cơ hội trong nước để chống phá cách mạng Việt Nam. Ngoài ra, một số đảng viên thoái hóa, biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cũng hùa theo các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động, hòng làm cho tình hình an ninh chính trị ở Việt Nam trở nên phức tạp.
       Hiện nay, họ đang sử dụng thủ đoạn là tập trung tác động vào nhận thức, tâm lý, tình cảm, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bôi đen hình ảnh, thành tựu của đất nước, hình ảnh lãnh tụ. Họ thường lợi dụng những hạn chế, thiếu sót của ta để “chính trị hóa” các vấn đề về kinh tế-xã hội, từ đó tác động, làm thay đổi nhận thức về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Một mặt, họ ra sức kêu gọi thúc đẩy “dân chủ đa nguyên”, thay đổi thể chế chính trị, đổi tên Đảng, tên nước, sửa cương lĩnh, hiến pháp, “phi chính trị hóa” quân đội, công an; thực hiện “tam quyền phân lập” ở Việt Nam. Thúc đẩy, kích động phong trào “bất tuân dân sự”, tuần hành, biểu tình, bạo động, khiếu kiện, gây điểm nóng về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; mặc cả, đối kháng chính quyền, coi đây là sự “tập dượt” cho “cách mạng màu”. Thời gian qua, họ luôn cho rằng, các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, an sinh xã hội, đất đai, cơ sở thờ tự, môi trường, giao thông, giáo dục, Biển Đông... là những vấn đề nhạy cảm có thể lợi dụng để chống phá. Hiện nay, họ triệt để lợi dụng công tác phòng, chống tham nhũng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các sự kiện chính trị, các vấn đề phức tạp, nhạy cảm về an ninh chính trị để phân hóa, chia rẽ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, hòng làm cho đảng viên và nhân dân hiểu sai lệch, hoài nghi, thiếu niềm tin vào bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ cũng tìm cách thẩm thấu, cấy sâu vào trong xã hội Việt Nam tư tưởng chia rẽ đường lối đối ngoại của Đảng, nhất là trong quan hệ với các nước lớn, nước láng giềng, khu vực. Về phương tiện, họ triệt để lợi dụng công cụ truyền thông, báo chí, không gian mạng và coi đây là ưu thế, mũi nhọn, phương tiện, chất xúc tác để chuyển hóa, gây rối loạn nhận thức tư tưởng, thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, dẫn dắt phong trào “bất tuân dân sự” chống Đảng, chống Nhà nước XHCN...
       Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên. Ảnh minh họa: tuyengiao.vn.
Chính vì vậy, đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước việc chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên. Để công tác đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có hiệu quả, các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
       Một là, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, ban chỉ đạo, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; quan tâm lãnh đạo toàn diện lý luận chính trị, tư tưởng, văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí; tích cực đấu tranh trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Tức là phải phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong xây dựng lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu, nhất là cơ quan nghiên cứu, cơ quan báo chí, các học viện, nhà trường, đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên. Duy trì, tổ chức thực hiện tốt việc đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng, lấy các cơ quan báo chí làm nòng cốt để vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, đồng thời định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, thiết lập các trang, nhóm, tài khoản mạng xã hội nhằm tiếp cận, chia sẻ thông tin tham gia đấu tranh phản bác trên internet, mạng xã hội với các hình thức, phương pháp linh hoạt; chú trọng chia sẻ thông tin tích cực, bài viết chuyên sâu của các cơ quan báo chí, học viện, nhà trường tạo “dòng chủ lưu” thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy thông tin tích cực đẩy lùi thông tin tiêu cực”.
       Hai là, thường xuyên bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trong mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã hội.Với phương châm chỉ đạo công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu; không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, Cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo 35 các cấp cần quan tâm biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo, xây dựng ngân hàng comment làm tài liệu phục vụ tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho các lực lượng. Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp các cán bộ có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động.
      Ba là, thường xuyên tổ chức các cuộc tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm giữa các lực lượng chức năng, lực lượng nòng cốt chuyên sâu, các hội nghị rút kinh nghiệm và các cuộc “diễn tập” đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Với phương châm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội nghị rút kinh nghiệm theo hướng thiết thực, hiệu quả, “cầm tay, chỉ việc”. Chú trọng tổ chức một số cuộc “diễn tập” đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội làm cơ sở cho các lực lượng hoàn thiện, phát triển kỹ năng đấu tranh. Lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu phải thường xuyên được trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, bổ sung kinh nghiệm thực tiễn. Các thông tin đấu tranh phải trung thực, khách quan, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, của đất nước, mang tính Đảng, tính khoa học, tính xây dựng cao.
      Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị điện tử phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Ở tầm vĩ mô: Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin phong phú, hiện đại, có khả năng tiếp cận, xử lý và khuếch tán vào dòng thông tin truyền thống quốc tế với lượng thông tin đủ lớn, đủ mạnh để tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.
Ở tầm vi mô: Cần tăng cường và đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm phát huy tính hiệu quả của các cơ quan báo chí truyền thông, hòa nhập vào trình độ kỹ thuật thông tin thế giới. Các bộ, ngành chức năng, các cơ quan, đơn vị liên quan cần nghiên cứu, tổ chức triển khai hệ thống giải pháp kỹ thuật phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế để phục vụ việc đấu tranh ngăn chặn, xử lý các nguồn tán phát thông tin tiêu cực, xấu độc, sai sự thật, nhằm tạo môi trường thông tin trung thực, khách quan.
      Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên cần được triển khai đồng bộ, có hệ thống các chủ trương, giải pháp. Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên sẽ góp phần ngăn chặn hữu hiệu, giảm tác hại từ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, nhất là khi Đảng ta chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.

Lua chon nguoi tai duc

Lựa chọn người tài đức - chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam

      Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, thu hút và trọng dụng người tài đức trở thành quốc sách, thành đạo đức và thấm sâu vào quan niệm sống của nhân dân ta. Kế thừa truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ và thu hút người tài đức để xây dựng, kiến thiết đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển”. Trong tuyển chọn, bố trí cán bộ, Người nhấn mạnh, không được thiên tư, thiên vị, không phân biệt là người trong hay ngoài Đảng mà lựa chọn những người thật sự có đức, có tài, hết mình phấn đấu cho cách mạng. Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết chăm lo phát hiện người tài đức, phải biết đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng họ hợp lý và phải làm thường xuyên, liên tục, như: “Người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Người cũng khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”, đó chính là cuộc vận động chính trị quan trọng nhằm phát huy vai trò làm chủ thật sự của nhân dân trong xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người căn dặn: “khéo dùng cán bộ là phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”,“dụng nhân như dụng mộc”, “phải dùng người đúng chỗ, đúng việc”, biết dùng đúng năng lực sở trường của họ, bảo đảm tính kế thừa và phát triển, chú ý tạo nguồn và bồi dưỡng cán bộ kế cận cho đời sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt phê bình nghiêm khắc việc dùng cán bộ là người thân, anh em quen biết hay dùng những kẻ khéo nịnh dẫn đến hiện tượng ô dù, công thần, kéo bè cánh. Người yêu cầu phải tuyệt đối tránh hiện tượng địa phương cục bộ trong công tác cán bộ; phải xử lý nghiêm bệnh địa phương trong công tác này.
       Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ, coi đó chính là khâu "then chốt của nhiệm vụ then chốt". Vì vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng chỉ đạo công tác này. Không chỉ các hội nghị Trung ương, mà ngay trong văn kiện đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thể hiện rõ những chủ trương, giải pháp quan tâm, chăm lo đến nhiệm vụ xây dựng, bồi dưỡng cán bộ, như: Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18-6-1997 của Bộ Chính trị khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng người có đức, có tài; tạo bước chuyển căn bản trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài; xây dựng chiến lược quốc gia về nhân tài; coi đó là giải pháp quan trọng trong thực hiện chiến lược cán bộ”, “lựa chọn những người thực sự có đức, có tài giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”(1). Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng đã khẳng định một chủ trương rất mới và tích cực trong việc lựa chọn, bố trí người tài, đức vào các vị trí lãnh đạo: “Thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý”; Văn kiện Đại hội XII tiếp tục nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Bộ Chính trị khóa XII cũng ban hành Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4-8-2017 về “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quy định số 90-QĐ/TW ngày 4-8-2017 về “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”; Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19-12-2017 của Bộ Chính trị quy định về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Bộ Chính trị về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng...
        Trong đó, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 là nghị quyết rất quan trọng và cấp thiết trong xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế và phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Việc ban hành hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý về công tác cán bộ thể hiện quyết tâm chính trị to lớn của Đảng, Nhà nước nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực, hạn chế trong công tác này ngay từ khâu đánh giá, lựa chọn cán bộ và thu hút người có đức, tài vào hệ thống chính trị của nước ta.
        Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, đội ngũ cán bộ chiến lược các cấp đã trưởng thành mọi mặt, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Việc lựa chọn, bầu vào các vị trí quan trọng của hệ thống chính trị đã được đổi mới, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, công tâm, khách quan, có sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội. Trong công tác cán bộ, việc chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương luôn đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để khuyến khích đổi mới, sáng tạo của cán bộ và tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi các tiêu cực.
       Thời gian qua, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc trong đấu tranh chống tham nhũng, xử lý nghiêm minh trước pháp luật những cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật, kể cả đương chức hoặc đã nghỉ hưu theo tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những cán bộ yếu kém, không đủ phẩm chất, năng lực, quan liêu, sách nhiễu nhân dân đã củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp của Đảng được thực hiện trên cơ sở phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đại hội là dịp để ta sàng lọc cán bộ chứ không chỉ bàn phương hướng. Ai xứng đáng thì làm, không thì thôi, không sợ thiếu cán bộ”(2). Công tác nhân sự được thực hiện đúng điều lệ, quy chế, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; cán bộ phải tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Việc bầu ra cơ quan lãnh đạo các cấp được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm tạo môi trường thực sự dân chủ trong quá trình chuẩn bị nhân sự và trong bầu cử tại đại hội... chứ không thể để gia tăng tình trạng  “con vua thì lại làm vua” hay là việc “củng cố hay thâu tóm quyền lực” như các thế lực thù địch đã rêu rao, xuyên tạc.
       Tuy nhiên, cũng phải nghiêm túc nhìn nhận, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định trong công tác cán bộ thời gian qua. Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt công tác cải cách hành chính, đổi mới công tác đánh giá, thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ, nhưng kết quả chưa đạt yêu cầu đặt ra. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ đạt được nhiều kết quả tốt, nhưng trên thực tế có nhiều cán bộ có đức, có tài, có triển vọng chưa được đưa vào quy hoạch. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn quy hoạch theo chức danh. Việc sắp xếp, bố trí giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc hoặc bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người thân, họ hàng của lãnh đạo còn diễn ra ở một số bộ, ngành, địa phương. Công tác giám sát của các cơ quan chức năng và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên ở một số nơi còn lỏng lẻo nên vẫn còn có cán bộ lãnh đạo, quản lý thoái hóa, biến chất, tham nhũng, hách dịch với nhân dân chưa được xử lý kịp thời.
       Thực tế đó đòi hỏi các cơ quan chức năng cần tiếp tục xây dựng được đội ngũ cán bộ chiến lược “vừa hồng, vừa chuyên”, có đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để lãnh đạo thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của cách mạng. Để đạt được mục tiêu này, cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong công tác cán bộ. Cần xây dựng bộ khung tiêu chuẩn cho tất cả chức danh trong bộ máy hành chính nhà nước, cấp nào ràng buộc tiêu chuẩn chức danh ấy. Trong đánh giá cán bộ, phải lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ làm thước đo chủ yếu. Cần tiếp tục thực hiện cơ chế thi tuyển các chức danh bổ nhiệm bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng và cạnh tranh lành mạnh, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhiều cơ quan chức năng và nhân dân để lựa chọn những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo. Có cơ chế tranh cử đối với các chức danh bầu cử bằng cương lĩnh, chương trình hành động thuyết phục. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực như "chạy chức", "chạy quyền" hoặc hình thức, chiếu lệ trong lựa chọn, bố trí cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải đúng nguyên tắc, dân chủ, minh bạch, công khai, công tâm, khách quan. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cải tiến chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ hợp lý bảo đảm cho cán bộ, đảng viên sống tốt bằng thu nhập chính đáng của mình. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ cốt cán theo hướng hiện đại, chuẩn hóa chuyên sâu; coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành; gắn đào tạo cơ bản tại trường và bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn để đánh giá, tuyển chọn, tạo nguồn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất đạo đức để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cần gắn kết chặt chẽ đào tạo với sử dụng đúng chuyên môn được đào tạo. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý, sử dụng cán bộ, qua đó kịp thời xử lý tiêu cực, đồng thời phát hiện, thay thế cán bộ yếu kém bằng những người có đức, có tài, có đủ phẩm chất, năng lực.

Phat trien ben vung nhung khong de van de moi truong loi dung

Phát triển bền vững nhưng không để vấn đề môi trường bị lợi dụng

        Có không ít thông tin đã bị kẻ xấu lợi dụng, xuyên tạc, bóp méo, kích động chống phá Đảng, Nhà nước. Vì vậy, dư luận kiến nghị, cần nhận diện rõ sự thật, quan tâm xử lý nghiêm túc những bất cập về môi trường để phát triển bền vững nhưng cũng phải cảnh giác, kịp thời xác minh, làm rõ và xử lý nghiêm những hội, nhóm, trang mạng núp bóng vấn đề môi trường để phá hoại an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Báo QĐND xin trích đăng một số ý kiến phản hồi sau bài báo.
         Câu chuyện các nhóm đối tượng lợi dụng vấn đề về môi trường để xuyên tạc làm mất ổn định trong nước đã quá rõ và không còn mới. Bài học cho thấy chúng thường núp bóng dưới cái mác bảo vệ môi trường (BVMT) để xuyên tạc nhiều vụ việc làm phức tạp tình hình. Ví như, các đối tượng làm bản báo cáo đánh giá môi trường ven biển miền Trung gửi đến Quốc hội, trong đó có những thông tin không chính xác, thậm chí còn sử dụng cả hình ảnh cá chết ở Mỹ để kích động. Và đó là những nguyên nhân dẫn đến biểu tình, đập phá… gây mất ổn định.
         Đối với vấn đề phát triển kinh tế và môi trường, chúng ta đã có chủ trương, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, xã hội, con người, BVMT một cách tương xứng, hài hòa. Nhưng cũng cần tỉnh táo không để kẻ xấu lợi dụng vấn đề này để xuyên tạc chống phá. Hiện nay, các dự án kinh tế triển khai đều phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, về đầu tư, BVMT, được các bộ, ngành thông qua trước khi Chính phủ quyết định. Do đó, nếu phản biện phải có căn cứ, không nên chụp mũ, làm nản lòng các nhà đầu tư, cản trở sự phát triển chính đáng.
       Chúng ta lại thấy một kịch bản quen thuộc khi trong hai tuần qua có hơn 4.000 trang mạng tán phát các thông tin xuyên tạc, bóp méo sự thật liên quan đến các dự án sinh thái du lịch ở Vĩnh Phúc, Đà Nẵng. Báo QĐND đã có bài viết chỉ rõ, sự việc có bàn tay của các tổ chức phản động. Vì vậy, để ngăn ngừa những “bàn tay đen” núp bóng BVMT, tôi cho rằng, các cơ quan chức năng, trước hết là cơ quan công an cần vào cuộc điều tra, tìm ra các đối tượng liên quan để xử lý nghiêm minh, giữ gìn kỷ cương phép nước.
        Tôi hoan nghênh quan điểm giải quyết hài hòa thỏa đáng giữa phát triển bền vững với đấu tranh ngăn ngừa hiện tượng lợi dụng vấn đề môi trường để phá hoại các dự án đầu tư trong bài viết trên Báo QĐND. Trung bình mỗi năm, nước ta có khoảng 2.000 dự án tác động đến môi trường và đòi hỏi phải có đánh giá tác động môi trường. Khi triển khai đòi hỏi phải tuân thủ đúng các quy định định của pháp luật về đầu tư, BVMT, phản biện một cách khách quan, trung thực, có căn cứ trước khi trình Chính phủ phê duyệt. Tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20-8-2019 của Bộ Chính trị cũng đặc biệt coi trọng việc quản lý môi trường và trở thành tiêu chí hàng đầu cùng với công nghệ cao, an ninh, quốc phòng.
Tuy nhiên vừa qua, cũng có một số dự án làm chưa tốt, làm theo hình thức, gây hậu quả nghiêm trọng, như dự án Formosa Hà Tĩnh. Nhưng đáng lo hơn là xung quanh vụ việc này, nhiều vấn đề đã bị lợi dụng nhằm kích động người dân, gây phức tạp tình hình chứ không còn thuần túy về môi trường. Theo đó, cùng với việc xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng vấn đề môi trường để kích động, chúng ta cần phải có một cơ quan với hệ thống kết nối nhằm tiếp nhận thông tin về môi trường và BVMT, nhất là kiến nghị của người dân để tránh bị các đối tượng lợi dụng, kích động.
        Bài viết “Ngăn ngừa những “bàn tay đen” núp bóng bảo vệ môi trường” của tác giả Hà Thành đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng, có ý nghĩa cảnh báo, cảnh tỉnh độc giả, dư luận trước những âm mưu đen tối của kẻ xấu.
Lựa chọn chiêu bài “bảo vệ môi trường” để tập hợp, lôi kéo lực lượng chống phá Đảng là một âm mưu rất thâm độc, bởi người dân ai cũng yêu môi trường. Do đó, nếu hồn nhiên nghĩ rằng, theo tổ chức này hay tổ chức nọ chỉ để BVMT, hay đơn thuần bảo vệ một dòng sông, một ngọn núi, một di sản thiên nhiên... mà không nhận ra đó chính là chiêu trò “dựng ngọn cờ” để tập hợp lực lượng thì rất dễ dính bẫy. Vì thế, tuyên truyền để nhân dân nhận thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch là hết sức cần thiết. Trong quá trình phát triển, việc công nghiệp hóa, đô thị hóa, xây dựng các công trình, cơ sở kinh tế để thu ngân sách, là điều mà địa phương nào cũng phải tính đến. Tuy nhiên, do năng lực hạn chế, do hệ thống cơ chế chưa hoàn thiện, nên trong công tác quản lý nhà nước về môi trường không thể tránh khỏi những sai sót. Đây là điều mà kẻ xấu lợi dụng để làm vống lên, để chính trị hóa các sai sót.
        Ở miền Trung, chúng tôi đã có nhiều bài học kinh nghiệm về các vụ việc lợi dụng vấn đề BVMT để tụ tập đông người, kéo người dân xuống đường gây cản trở giao thông, kích động gây rối, đập phá, thậm chí gây chết người, để lại hậu quả khôn lường, kìm hãm sự phát triển. Có nhiều vụ việc liên quan đến ô nhiễm môi trường đã giải quyết xong hậu quả, nhưng kẻ xấu vẫn lợi dụng để tụ tập gây rối, vi phạm pháp luật.
        Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ khả năng nhận biết. Do vậy, rất cần các cơ quan thông tấn, báo chí vào cuộc một cách quyết liệt và có trách nhiệm. Đối với báo chí, nhà báo viết về môi trường phải có cái tâm vì cộng đồng, đồng thời phải tỉnh táo trước dư luận MXH. Báo chí nếu đăng tải thông tin về các dự án có ảnh hưởng đến môi trường thì phải điều tra, xác minh cho chính xác, không nên chỉ dựa vào thông tin trên mạng; thậm chí đăng tải thông tin từ những trang mạng xấu độc gây hoang mang dư luận. Nhiều cá nhân vừa qua đã bị xử phạt do đăng tải thông tin sai sự thật trên MXH thì những trường hợp báo chí đăng tải thông tin sai sự thật từ MXH cũng cần phải làm rõ, xử lý nghiêm minh và công bằng…

Kong de ke xau kich dong

Không để kẻ xấu lợi dụng "bất tuân dân sự" để kích động, chống phá

       Thuật ngữ "bất tuân dân sự" (hay còn gọi là chống đối chính phủ dân sự) lần đầu tiên xuất hiện trong một bài luận với nhan đề "Dân sự bất hợp tác" của nhà văn người Mỹ, Henry David Thoreau vào tháng 5-1849. Nội dung cơ bản của bài luận bàn về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước.
       Đến thế kỷ 20, quan điểm của Thoreau về "bất tuân dân sự" phát triển thành phương thức đấu tranh bất bạo động và trở thành một mũi tiến công quan trọng trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc nhằm lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó có Việt Nam và những nước không cùng phe với họ. “Phương thức hoạt động” này được áp dụng trong cuộc "cách mạng màu", "cách mạng đường phố" ở Đông Âu và Liên Xô vào những năm cuối thế kỷ 20; làn sóng "Mùa xuân Ả Rập" ở các nước Trung Đông và Bắc Phi đầu những năm 2010, phong trào biểu tình nhằm lật đổ chính phủ ở Venezuela (từ năm 2017 đến nay); phong trào chống sửa đổi dự luật dẫn độ tại Hồng Công (Trung Quốc) năm 2019...
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, "bất tuân dân sự" có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức “xã hội dân sự”. Với lập luận, “xã hội dân sự” là “đối quyền của quyền lực nhà nước” để tập trung đòi thực hiện trách nhiệm xã hội, chia sẻ quyền lực chính trị cho “xã hội dân sự”; thực chất là cổ vũ tư tưởng coi nhà nước đối lập với “xã hội dân sự”; kích động thái độ vô chính phủ hòng từng bước đưa “xã hội dân sự” thành lực lượng đối trọng với nhà nước; chủ nghĩa đế quốc coi hình thành “xã hội dân sự” là điều kiện, tiền đề cho việc cổ xúy tự do cá nhân, lấy "bất tuân dân sự" làm phương thức cơ bản để lật đổ chính quyền nhà nước.
Xét trên phương diện đó, có thể thấy "bất tuân dân sự" có một số đặc điểm cơ bản như sau:
       Là hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý các quy định của pháp luật hoặc cản trở việc thực thi chính sách, pháp luật của nhà nước; gây áp lực buộc nhà nước phải thay đổi chính sách, pháp luật. Những người tham gia “bất tuân dân sự" thể hiện sự phản kháng, không tuân thủ pháp luật thông qua hình thức đấu tranh “ôn hòa, bất bạo động”. Tuy nhiên, tính chất “bất bạo động” có thể chuyển hóa thành bạo động rất nhanh chóng trong những hoàn cảnh cụ thể; khi gặp thời cơ thuận lợi và đủ điều kiện chín muồi.
Mục đích và hình thức thể hiện: Thông qua việc từ chối tuân theo hay cản trở việc thực thi pháp luật, gây áp lực đối với nhà nước, các đối tượng thực hiện “bất tuân dân sự" nhằm mục đích cuối cùng là vô hiệu hóa hoạt động của chính quyền, tiến tới lật đổ nhà nước, thay thế bằng một chế độ chính trị mới theo mô hình của chủ nghĩa tư bản. Để che giấu mục đích đó, các thế lực thù địch thường che đậy, ngụy trang dưới những vỏ bọc khác nhau, như: Tụ tập, tuần hành nhằm “phản kháng ôn hòa”, “phản kháng bất bạo động”, “biểu tình ôn hòa”. Đối với Việt Nam, chúng triệt để lợi dụng các vấn đề “dân chủ, nhân quyền”,“dân tộc, tôn giáo” hoặc lợi dụng các sự kiện chính trị-xã hội phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quyền và lợi ích của con người để lôi kéo, kích động, thu hút đông đảo người dân tham gia các hoạt động, như: Đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường, phản đối đặt trạm thu phí, bảo vệ chủ quyền biển, đảo... thực chất là để thực hiện “bất tuân dân sự” nhằm chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Chủ thể tiến hành là những cá nhân, tổ chức phản động như: “Việt Tân”, “Hội anh em dân chủ”, “Hội văn đoàn độc lập Việt Nam”, “Hội nhà báo độc lập Việt Nam”, “Mạng lưới Blogger Việt Nam”... giữ vai trò chỉ đạo, tài trợ kinh phí, chỉ đạo đường lối, đào tạo, huấn luyện phương thức hoạt động cho các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, đối tượng hình sự trong nước... trở thành cộm cán thu hút, lôi kéo, tập hợp người dân tham gia các hoạt động “bất tuân dân sự”. Số đối tượng trong nước ráo riết thu thập tình hình, phát triển lực lượng, hình thành các hội nhóm hoạt động “bất bạo động”. Chúng thông qua mạng xã hội, internet, rải truyền đơn, tờ rơi... để tuyên truyền, vận động thu hút, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động do chúng chỉ đạo.
         Hậu quả của “bất tuân dân sự” để lại rất nặng nề, kéo dài không chỉ về kinh tế-xã hội mà còn gây ảnh hưởng đến ANCT-TTATXH, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. Điển hình như vụ người dân phản đối trạm BOT Cai Lậy (Tiền Giang) năm 2017, vụ người dân tại Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai... xuống đường phản đối Dự thảo Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc và Luật An ninh mạng năm 2018... các đối tượng đã kích động người dân đập phá trụ sở chính quyền, gây cản trở giao thông, đốt phá tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, làm bị thương nhiều cán bộ thực thi nhiệm vụ, gây ngừng trệ hoạt động của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và người dân, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân và xã hội.
        Thực tế ở Việt Nam những năm qua đã cho thấy, để thực hiện “bất tuân dân sự”, các thế lực thù địch ra sức cổ xúy quyền tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực xã hội và liên kết hình thành các hội, nhóm “xã hội dân sự” với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ... thu hút các tầng lớp xã hội tham gia, như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”… Chúng lợi dụng sơ hở của chính quyền trong thực thi pháp luật để lôi kéo người tham gia phát triển lực lượng hoạt động theo kiểu “bất bạo động” xâm phạm ANCT-TTATXH. Đặc biệt, các đối tượng thù địch tìm cách lôi kéo, mua chuộc cán bộ, đảng viên và người dân tích cực tham gia phản biện chính sách, phản biện xã hội, tác động và gây sức ép đòi thay đổi chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp nhằm chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam.
         Cần khẳng định rằng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền của người dân được bày tỏ quan điểm một cách công khai đối với các chủ thể khác mà đặc biệt là với Nhà nước trên cơ sở pháp luật; đồng thời, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm hoạt động lợi dụng quyền và tự do cơ bản của con người để gây mất ổn định. Mọi công dân đều phải chịu sự quản lý của Nhà nước, không cá nhân nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm và xử lý nghiêm bất kỳ ai tham gia “bất tuân dân sự” cản trở thực thi pháp luật, chống đối chính quyền, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân.
Để đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả với hoạt động này, cần thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
       Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng “bất tuân dân sự” xâm phạm ANCT-TTATXH nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng phương thức này chống phá Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về bản chất của “bất tuân dân sự”, về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động “bất tuân dân sự” chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội Việt Nam, coi đó là trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
       Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình, phân tích, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... kích động, lôi kéo nhân dân tham gia "bất tuân dân sự" để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để tham mưu, đề xuất các cơ quan chức năng giải quyết triệt để, thỏa đáng trên cơ sở pháp luật. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu đặt ra theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không gây sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
      Ba là, tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... ở nước ta. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, trang bị các phương tiện thiết bị hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý, kiểm duyệt, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, internet… đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động "bất tuân dân sự".
      Bốn là, cần quán triệt tinh thần giải quyết vấn đề tụ tập đông người, biểu tình, đình công theo đúng cơ chế: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện; chính quyền quản lý, điều hành; lấy vận động thuyết phục là chính, kiên quyết thu hẹp vụ việc, không để lây lan, kéo dài. Khi phát hiện có tuần hành, tụ tập đông người hay biểu tình, đình công, cần nhanh chóng đánh giá đúng tính chất, mức độ, xác định rõ nguyên nhân của vụ việc; thực hiện phân hóa số đối tượng cốt cán, cầm đầu với quần chúng bị dụ dỗ, lôi kéo; tuyên truyền vận động, thuyết phục quần chúng giải tán; kiên quyết xử lý theo pháp luật số đối tượng cầm đầu, chủ mưu, cốt cán kích động, lôi kéo người dân tham gia "bất tuân dân sự".
       Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích của người dân trên cơ sở pháp luật; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định ANCT-TTATXH. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tăng cường đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Chính quyền các cấp phải nêu cao vai trò, trách nhiệm phục vụ nhân dân, vì nhân dân; tăng cường đối thoại, giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc của nhân dân trên cơ sở pháp luật.

truyen thong tot dep, ban chat QDNDVN

  “Kỷ luật thép” là truyền thống cao quý, bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam

        Theo tôi, thủ đoạn của các thế lực thù địch hết sức thâm độc và xảo quyệt. Cứ mỗi lần chúng ta tổ chức đại hội đảng là các thế lực thù địch lại ra sức chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều chiêu trò thâm độc, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận và tổ chức cán bộ. Điều nguy hiểm nhất là các phần tử lợi dụng sai phạm của một số sĩ quan, tướng lĩnh bị xử lý để bôi nhọ và hạ thấp vai trò của quân đội, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với LLVT. Việc làm này, mới đầu, không ít người cho rằng họ chỉ tập trung nói về một vài cá nhân nào đó, nhưng thực chất là nói xấu, xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
       Thế nên, để đấu tranh, ngăn ngừa những luận điệu này, chúng ta cần phải tỉnh táo, phân biệt rõ đúng-sai, từ đó tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với những hành vi chống phá của các thế lực thù địch, không để các luồng thông tin xấu độc này thẩm thấu vào trong các cơ quan, đơn vị quân đội. Muốn vậy, trước hết, đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần phải có biện pháp quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng cán bộ, chiến sĩ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng nhận thức rõ tính hai mặt của thông tin mạng, trên cơ sở đó nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị; tuyệt đối nghiêm cấm các hành vi tán phát tài liệu xấu độc trong đơn vị. Trường hợp nào vi phạm thì phải xử lý nghiêm minh.
        Thực tế trong thời gian qua, nhờ phát huy tinh thần cảnh giác cách mạng, quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng, nên các cơ quan, đơn vị thuộc LLVT Quân khu 5 chưa để xảy ra tình trạng thông tin xấu độc xâm nhập vào nội bộ đơn vị. Các cơ quan, đơn vị chủ động tạo “sân chơi” cho bộ đội; đội ngũ cán bộ các cấp thường xuyên duy trì chặt chẽ các chế độ trong ngày, trong tuần; kịp thời nắm bắt tình hình, định hướng tư tưởng, duy trì nghiêm kỷ luật trong mọi hoạt động...
       Lịch sử hơn 75 năm xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã khẳng định chân lý: Kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ “kỷ luật là động lực giữ sức mạnh của bộ đội”. Điều này thể hiện rõ ở việc, tất cả vụ việc sai phạm từ nhỏ đến lớn đều được đưa ra xem xét, xử lý thấu đáo theo phân cấp. Trong quá khứ cũng như hiện tại, chúng ta từng xử lý nghiêm khắc những cán bộ, quân nhân có sai phạm. Như vậy, tính kỷ luật không chỉ thể hiện trong thời chiến tranh mà cả thời bình hiện nay. Thế nhưng vừa qua, lợi dụng sự nghiêm minh của "kỷ luật thép", những cán bộ vi phạm được các phương tiện truyền thông công khai rộng rãi, các thế lực thù địch đã chủ ý cấu kết với các đối tượng cơ hội chính trị tung ra nhiều chiêu trò chống phá, xuyên tạc sự thật, hòng làm sai lệch bản chất và truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam. Vì lẽ đó, bài viết: “Kỷ luật thép” là truyền thống cao quý, bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam" đăng trên Báo QĐND kịp thời đấu tranh với các quan điểm sai trái, chống phá Quân đội ta. Cũng qua bài viết này, chúng tôi thấy rằng, thời gian tới cần nêu cao hơn nữa trách nhiệm cán bộ, chỉ huy các cấp, tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, lợi dụng các vụ việc sai phạm của cán bộ quân đội để xuyên tạc, gây xói mòn lòng tin trong nhân dân, cán bộ, chiến sĩ, nhằm thực hiện “tự diễn biến", "tự chuyển hóa”. Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy các cấp phải kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với cán bộ có sai phạm. Đồng thời, cán bộ các cấp phải luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, tự mình soi xét, tu dưỡng. Cấp ủy, chỉ huy các cấp tăng cường kiểm tra, kiểm soát tài sản công, không để xảy ra tham ô, tham nhũng, không để “con sâu làm rầu nồi canh”, qua đó giữ vững niềm tin, hình ảnh của Bộ đội Cụ Hồ.

Giu gin ban sac van hoa timh than dan toc

Giữ gìn bản sắc văn hóa-bảo vệ nền tảng tinh thần xã hội

      
       Năm 1991, Liên bang Xô viết chính thức sụp đổ. Đó là mất mát vô cùng lớn lao đối với phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Tuy nhiên, đó cũng là bài học kinh nghiệm rất có giá trị đối với những đất nước tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường CNXH như Việt Nam. Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc Liên bang Xô viết sụp đổ là sự xâm thực về văn hóa, dẫn tới thay đổi về nền tảng tinh thần xã hội.
       Cuối năm 1958, Liên Xô và Hoa Kỳ thống nhất việc tổ chức hai cuộc triển lãm tại thành phố New York và thủ đô Moscow nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa và sự hiểu biết lẫn nhau. Đây được coi là một sự kiện gây chấn động thế giới, bởi hai quốc gia siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ đối nghịch về nền tảng chính trị và có những khác biệt rất lớn về văn hóa. Sau này, triển lãm của Liên Xô tại thành phố New York không được đề cập nhiều nhưng triển lãm của Hoa Kỳ lại gây tiếng vang đáng kể.
        Tại công viên Sokolniki ở thủ đô Moscow, Hoa Kỳ đã quảng bá văn hóa, công nghệ cũng như các sản phẩm tiêu dùng, từ ô tô, đồ uống đến nghệ thuật, thời trang và kiến trúc. Nhiều nhà tài trợ và doanh nghiệp lớn nổi tiếng của xứ cờ hoa, như: Disney, Dixie Cup Inc, IBM, Pepsi… đều có gian hàng trưng bày sản phẩm. Ngày 24-7-1959, trước khi triển lãm Moscow chính thức khai mạc, Phó tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã mời nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev tham quan các gian hàng. Họ dừng lại trước một căn bếp-nơi trở thành “hiện trường” cho cuộc tranh luận nổi tiếng trong chiến tranh Lạnh. Căn bếp này do các nhà thiết kế Hoa Kỳ dựng lên với đầy đủ tiện nghi, như: Máy rửa bát, lò nướng bánh mì, máy xay sinh tố… dường như là để “khoe” mọi người dân Mỹ đều có thể sở hữu căn bếp như thế. Lãnh đạo Liên Xô tỏ ý không vừa lòng, nói rằng các gia đình Liên Xô cũng có những thứ này. Cuộc tranh luận bắt đầu, chủ đề được mở rộng đến các vấn đề chính trị như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản (CNTB), chiến tranh hạt nhân... Ngày hôm sau, "Cuộc tranh luận trong bếp" là tin tức xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo ở Hoa Kỳ. Và điều thú vị nhất của “Cuộc tranh luận trong bếp” là sau khi nó kết thúc, Nixon và Khrushchev cùng uống Pepsi. Một nhiếp ảnh gia đã bắt được khoảnh khắc Nixon và Khrushchev đứng cạnh nhau trong khi nhà lãnh đạo Liên Xô thưởng thức nước ngọt có ga của một thương hiệu… phương Tây.

       Cùng các cuộc chiến về chính trị, ngoại giao, văn hóa là mũi nhọn được các thế lực thù địch phương Tây sử dụng nhằm tiêu diệt nhà nước Nga Xô viết. Dưới thời nhà lãnh đạo Khrushchev, các thế lực chống cộng và chính quyền phương Tây căn cứ vào tình hình đã tăng cường thực thi “diễn biến hòa bình”, âm mưu phương Tây hóa, phân hóa Liên Xô. Đến thời Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan (hai nhiệm kỳ-1981-1989), Chính phủ Hoa Kỳ càng đẩy mạnh chủ trương ngoại giao cân bằng, thẩm thấu tư tưởng, văn hóa với Liên Xô và các nước Đông Âu qua truyền bá quan điểm phương Tây về tự do, nhân quyền với hạt nhân là lợi ích cá nhân. Reagan cho rằng, trong cuộc đấu tranh giữa CNTB và CNXH, nhân tố quyết định cuối cùng không phải là đọ sức đạn hạt nhân và tên lửa mà là cuộc đọ sức của ý chí và tư tưởng.
       Ở chiều ngược lại, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là Mikhail Gorbachev lại ra sức cổ súy cho cái gọi là tư duy mới chính trị quốc tế. Lợi dụng thời cơ đó, các thế lực chống cộng ở phương Tây tài trợ cho một số cơ quan nghiên cứu lập phương án đánh vào những tình cảm nhân dân Liên Xô dành cho Lênin và Stalin. Các tác phẩm chống Lênin, Stalin xuất hiện đầy rẫy trên báo, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh... Họ kích động nhân dân Liên Xô đề nghị mai táng thi hài Lênin. Phương Tây còn ca tụng tư duy cải tổ của Gorbachev, nhằm làm suy yếu và hủy bỏ uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), tuyên truyền cho cái gọi là cuộc sống tươi đẹp ở phương Tây và tính ưu việt của chế độ tư bản. Phương Tây rất chú trọng dùng lối sống tiêu dùng để tác động và ảnh hưởng đến đông đảo người dân Liên Xô, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên.
       Sau này, tổng kết về “thắng lợi” của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Liên Xô và Đông Âu, năm 1988, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã xuất bản cuốn sách “1999-Chiến thắng không cần chiến tranh”. Trong đó, R.Nixon xác định: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng!".

nhung ban tay den khay dao phap luat VN

Những “bàn tay đen” hòng khuấy đảo luật pháp Việt Nam

        Do tính chất phức tạp của vụ án nên ban đầu, tòa dự kiến tiến hành xét xử trong 10 ngày. Nhưng mới bước sang ngày thứ 4 thì toàn bộ các bị cáo đã nhận tội và xin được sự khoan hồng của pháp luật. Nhiều bị cáo đã nói rõ trước tòa, điển hình là bị cáo Lê Đình Doanh: “Trong thời gian nằm trong trại tạm giam đã nghĩ về hành động của mình và nhận ra lỗi lầm mà mình đã gây nên, do đó bị cáo thành tâm sám hối. Đề nghị các luật sư thôi không bào chữa cho bị cáo nữa...”. Đây là chuyện rất bình thường trong các vụ án, bởi sau những đêm nằm ngẫm nghĩ và khi được tòa phân tích thì các bị cáo đã nhận ra tội lỗi của mình, mong muốn sửa chữa, chuộc lại lỗi lầm, bỏ con đường tối, tìm về đường sáng.
        Theo dõi vụ việc và vụ án này, chúng tôi nhận thấy, trong suốt thời gian diễn ra vụ việc cho đến khi vụ án xảy ra, một số cơ quan báo chí nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam và một số trang mạng xã hội được điều hành bởi một số người cơ hội chính trị, mang danh “đấu tranh cho dân chủ” đã đăng tải nhiều bài viết xuyên tạc về tính chất vụ việc và vụ án. Họ cho rằng sự việc xảy ra rạng sáng 9-1-2020 là sự “đàn áp” của chính quyền đối với những người gọi là “nông dân” (vấn đề này chúng tôi sẽ nêu rõ trong các bài viết sau), rồi từ đó kêu gọi các tổ chức quốc tế tham gia điều tra, can thiệp, tác động... hòng chính trị hóa vụ án hình sự này nói riêng và các vụ án hình sự ở nước ta nói chung. Họ hy vọng với sự tham gia, can thiệp, tác động của một số tổ chức quốc tế tới chính quyền của một số nước thì có thể sẽ làm thay đổi hệ thống pháp luật và nền tư pháp, dẫn tới sự thay đổi về thể chế chính trị của Việt Nam.
        Cần phải khẳng định rằng, trong quá trình điều tra vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, các nghi can không hề bị “ép cung”, hay “mớm cung” như một số hãng tin, cơ quan báo chí nước ngoài và một số trang mạng thiếu thiện chí với Việt Nam đã rêu rao. Bởi trước khi phiên tòa chính thức diễn ra, trong buổi cung cấp thông tin cho báo chí, Đại tá Nguyễn Thanh Tùng, Phó giám đốc Công an TP Hà Nội đã nêu rõ: “Trong quá trình điều tra, khi thẩm vấn các nghi can, các điều tra viên đã làm đúng quy định của pháp luật. Các cuộc thẩm vấn đều được ghi âm, ghi hình, có sự tham gia trực tiếp của đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội (sau đây gọi là Viện Kiểm sát), luật sư bào chữa do các nghi can mời và luật sư do cơ quan chức năng chỉ định theo quy định của pháp luật...”. Thực tế khi ra tòa, cũng có một số bị cáo đã khai một số nội dung khác với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Nhưng ngay buổi xét xử sau đó, chính họ đã tự đính chính lời khai của mình, thống nhất với bản luận tội của Viện Kiểm sát, bởi chính họ nhận ra việc khai khác đi là dối trá, không có cơ sở và hoàn toàn trái với thực tế, trái lương tâm. Vậy thì tại sao một số cơ quan báo chí nước ngoài như RFA, RFI, BBC... và một số trang mạng vẫn cố tình xiên xẹo tính chất và bản chất vụ án? Đã từ nhiều năm nay, các cơ quan báo chí này thường xuyên đăng tải những bài viết sai sự thật về tình hình thực hiện quyền dân chủ và việc thực thi pháp luật ở Việt Nam. Họ thường đăng tải các bài viết có quan điểm trái chiều, rồi cuối bài viết bao giờ cũng kèm theo câu “bài viết thể hiện quan điểm cá nhân...”. Đọc lướt qua thì thấy, có vẻ đây là sự “dân chủ” kiểu như “chúng tôi đăng tải cả các bài viết tích cực và tiêu cực, cả bài viết đồng thuận và trái chiều”, để thể hiện sự “công bằng, minh bạch”.
         Nhưng theo dõi kỹ sẽ thấy rõ, trong số các bài viết về tình hình thực thi dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam mà các cơ quan báo chí này đăng tải thì hầu hết là các bài viết có tính chất tiêu cực, võ đoán, phản ánh sai (hoặc cố tình hướng lái, cố tình phản ánh sai) sự thật tại Việt Nam. Sở dĩ nói thế là vì, các bài viết đều theo thiên hướng lấy một vài sự việc cá biệt để diễn giải, quy chụp nhằm ngụy tạo hệ thống, từ đó phủ nhận những thành quả mà Việt Nam đã và đang đạt được. Chẳng hạn trong lĩnh vực tư pháp và duy trì pháp luật ở Việt Nam, họ thường chỉ đăng tải bài viết của một số người được cho là đang “đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam”. Hầu hết bài viết của các tác giả này tập trung vào phân tích các vụ án có một vài sai sót trong quá trình điều tra, xét xử, rồi từ đó quy chụp, cho rằng hệ thống pháp luật của chúng ta “có vấn đề”, cho rằng nền tư pháp của chúng ta “chưa minh bạch”. Họ cố tình không hiểu rằng, trong số hàng chục nghìn vụ án do các cấp tòa xét xử mỗi năm, khó có thể “mười phân vẹn mười”. Nguyên nhân bắt nguồn cả từ sự khách quan và chủ quan. Về khách quan, có những vụ án thiếu nhân chứng cụ thể, hiện trường bị xáo trộn, phía bị hại hợp tác chưa đầy đủ... Về chủ quan, diễn biến vụ án nào cũng phức tạp, kẻ phạm pháp cơ bản là ngoan cố, quanh co, chối tội, vì vậy tạo ra lực cản cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Thế nên, đã có một số vụ án xét xử chưa đúng với diễn biến và tính chất vụ án, gây ra thiệt hại cho một số công dân như chúng ta đã thấy trong thực tế. Tuy nhiên các vụ án này đã được khắc phục, người bị oan đã được minh oan, các cá nhân gây nên sự việc đã bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Còn lại, hàng vạn vụ án đã được xét xử bảo đảm đúng người, đúng tội, công minh, công bằng, góp phần tích cực vào việc trấn áp tội phạm, duy trì an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm cuộc sống an toàn và lợi ích chính đáng của nhân dân, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thượng tôn pháp luật, bảo đảm cho Việt Nam luôn là điểm đến an toàn, thân thiện. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận của hệ thống pháp luật và nền tư pháp xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
         Việc góp ý với Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp trong thực thi dân chủ, nhân quyền là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người dân. Vấn đề này đã được xác định trong Hiến pháp năm 2013 (thể hiện cụ thể từ Điều 14 đến Điều 49 của Hiến pháp) và trong Quy chế dân chủ ở cơ sở, cùng nhiều bộ luật khác. Trong thực tế, các quyền chính đáng của nhân dân như: Tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội, quyền được biết, được bàn... đều có thể thực hiện theo quy định của pháp luật.
        Hiện nay, hầu hết người dân Việt Nam, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, tôn giáo... đều được tham gia trong các hội, hiệp hội, các tổ chức chính trị xã hội, tôn giáo... mà mình thấy phù hợp. Họ được phát biểu chính kiến và bảo lưu chính kiến thông qua người/tổ chức đại diện của mình và các cơ quan chức năng, để ý kiến của mình được chuyển tới nơi cần đến. Có lần trao đổi với chúng tôi, đồng chí Hà Đăng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương đã nói rằng: “Việc thực thi dân chủ của chúng ta ngày càng rộng rãi và công minh, công bằng và thực sự làm chuyển biến tình hình thực hiện dân chủ ở cơ sở, góp phần tích cực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân...”. Còn đối với vụ án xảy ra ở thôn Hoành, xã Đồng Tâm, ông Lê Đình Lưỡng, Bí thư Chi bộ thôn Hoành, khi trả lời các nhà báo cũng đã nói rõ: “Từ ngày những người gây rối bị cơ quan chức năng bắt giữ, thôn Hoành đã có cuộc sống yên bình trở lại. Không như trước đây, cuộc sống của bà con lúc nào cũng nơm nớp vì bị một số người trong “tổ đồng thuận” đe dọa...”. Như vậy, không thể nói “Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền” để đến nỗi một số người mang danh “hoạt động vì dân chủ” kêu gọi các tổ chức quốc tế vào cuộc hòng “cải cách nền tư pháp” của Việt Nam.
        Theo cứ liệu của cơ quan chức năng, trong vụ án xảy ra ở xã Đồng Tâm đã thấy rõ dấu hiệu trục lợi trái pháp luật của một số người trong “tổ đồng thuận”. Nghĩa là họ cứ nghĩ rằng, nếu “đấu tranh” chiếm được đất quốc phòng ở Đồng Sênh thì có thể tự chia nhau để hưởng. Và họ đã cố tình hành động theo suy nghĩ ấy. Từ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án xảy ra tại thôn Hoành, lại thấy thêm một số người khác muốn lợi dụng những người trong “tổ đồng thuận” để chiếm một phần lợi ích. Việc hứa “chia đất” của đối tượng Lê Đình Kình cho những người trong “tổ đồng thuận” và một số người khác, một phần dựa vào những cam kết có tính hậu thuẫn của một số người được cho là có hiểu biết nhất định về pháp luật. Vì thế, khi vụ án xảy ra, sự thật đã rõ mười mươi, nhưng một số đối tượng thuộc loại “cố đấm ăn xôi” vẫn cứ cố tình tập hợp những cứ liệu rời rạc, rồi chắp ghép, ngụy tạo ra những bản tin lòng vòng để đánh lừa dư luận. Tất cả những cuộc “phỏng vấn” của BBC, RFA, RFI... đối với một số người về vụ việc và vụ án xảy ra ở thôn Hoành, đã được, đăng/phát trên các trang của họ, đều thiếu tính thuyết phục. Bởi những nhân vật phỏng vấn và trả lời phỏng vấn thậm chí còn không biết thôn Hoành ở đâu và chưa từng “thực mục sở thị” những gì đã diễn ra tại thôn Hoành cả trước, trong và sau sự việc diễn ra ngày 9-1-2020. Sự suy diễn và “đoán mò” của họ chỉ có thể lừa phỉnh trong chốc lát đối với những người thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về pháp luật, thiếu khả năng phân tích, nhận định về những tiến bộ, đổi mới đang diễn ra ở Việt Nam.
        Từ những hành vi và mưu mô của một số người được cho là đang “đấu tranh cho dân chủ” ở Việt Nam, có thể thấy, họ chỉ là những kẻ lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp luật của số ít người dân để kích động họ vướng vào vòng lao lý. Chúng ta đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, trong đó điều cơ bản và đầu tiên là toàn quyền xử lý các vấn đề có tính nội bộ của mình, thông qua hệ thống pháp luật đã được toàn dân thừa nhận và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Uy tín, vị thế của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được củng cố, nâng cao bằng các hoạt động có trách nhiệm đối với các tổ chức, công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Như vậy có thể thấy, Việt Nam xây nên và khẳng định vị thế, uy tín đối với thế giới bằng thực lực của chính mình. Do đó, mọi hành vi xuyên tạc của thế lực thù địch và cơ hội chính trị, hòng làm chuyển hóa hệ thống pháp luật, nền tư pháp và thể chế chính trị ở Việt Nam, đều là những hành động hão huyền, phi thực tế và không thể lừa phỉnh được ai.

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2020

KHÔNG THỂ ĐỂ CHO GIANG HỒ MẠNG HOÀNH HÀNH



Những hiện tượng giang hồ mạng trong thời gian vừa qua liên tục gây ra những bất bình trong dư luận về những phát ngôn, hành động mang tính dạy đời nhưng thực chất chỉ là những lời nói xáo rống nhằm che đi bộ mặt thật của bọn chúng. Cơ quan chức năng đã và đang kiểm tra và tóm đi từng thằng một từ Khá Bảnh tới Đường Nhuệ, tuy nhiên “thầy Huấn Hoa Hồng” vẫn đang nhởn nhơ chưa biết sợ là gì.

ĐỒNG TÂM VÀ SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI



Nhân vụ việc Đồng Tâm vừa đưa ra bản án sơ thẩm, tôi thấy trên mạng xuất hiện những “anh hung bàn phím” ra rả các loại rác ngôn từ “ưu ái” cho chế độ sở hữu đất đai của VN. Rằng thì là do người nông dân chỉ được sử dụng đất nông nghiệp mà không được sở hữu nên không thương đất rồi tàn phá đất? rồi thà đất nước bị xâm lăng mà đất không bị hủy diệt hơn là đất nước độc lập mà đất bị chính người dân bóc lột tận cùng và hủy diệt đến tận cùng!. “Anh hung” này đã tự vả vào mình khi gõ những điều đặt điều nói ác cho những người dân lương thiện, đa số cày cấy làm màu mỡ cho đất đai ruộng vườn.

"Bản án Đồng tâm" - bản án của tình người và nghĩa nước non

 Bản án  sơ thẩm về vụ việc Đồng Tâm đã khép lại! Bản án giành cho những người vi phạm coi thường pháp luật, bất chấp đạo lý, lương tri đã thực sự thuyết phục được đông đảo nhân dân và dư luận trong nước, quốc tế. 

Với Việt Nam điều ấy hết sức bình thường, bình dị. Vì con người Việt Nam,pháp luật Việt Nam là thế, nghiêm minh, nghiêm khắc với hành vi phạm tôui, nhưng rất nhân đạo, nhân vănm nhân nghĩ với người biết thành thực nhận rõ lỗi lầm, hối cải và mong được có cơ hội chuộc lỗi lầm của mình. Vì vậy, dù nhìn nhận ở góc nào thì  bản án ấy là thắm đượm của tình người và nghĩa nước đã dành cho những người phạm tội.

MLN


Luật Biên phòng Việt Nam là sự thống nhất ý chí và hành động để bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia

 Luật Biên phòng Việt Nam  là sự thống nhất ý chí và hành động để tạo sức mạnh tổng hợp to lớn góp phần để bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia , bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

Việt Nam  bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp. Do đó, bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng, mọi địa phương. Tuy nhiên, mỗi lực lượng, mỗi bộ phận đều có vị trí, vai trò của mình. Tất cả các lực lượng, các hoạt động đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân, lực lượng biên phòng là chuyên trách và nòng cốt vững chắc. Sự chung tay, góp sức này phản ánh bản chất chế độ XHCN, vai trò làm chủ nhân dân và sứu mạnh tổng hợp của cả dân tộc. 

Thứ Năm, 17 tháng 9, 2020

NHỮNG KẺ KHỐN NẠN

 Đó là những kẻ dân chủ nửa mùa, ba cây bọ gậy, vẫn luôn cho rằng mình là "tân tiến", là "văn minh, là "hiểu rõ mọi chuyện" và "biết mọi thứ"... Chúng tràn vào trang cá nhân chị vợ của một chiến sĩ đã hi sinh tại Đồng Tâm, chúng xúc phạm chị và cháu, chế ảnh tùm lum bậy bạ. Chúng nói rằng cái chết của chiến sĩ chồng chị là giả tạo, chị được "thuê để khóc"...

Chúng báo cáo trang cá nhân của chị, gửi những dòng tin nhắn xúc phạm đến gia đình anh chị. Chúng vào tận trang cá nhân của chị, tìm ra địa chỉ cơ quan, rồi vào tận trang cá nhân cơ quan của chị và đe dọa.

Chính những kẻ đó, sau phóng sự của VTV24 về nỗi đau những người ở lại, chúng dọa rằng sẽ tìm đến nơi gia đình các chiến sĩ ở, sẽ "vạch trần nỗi đau giả tạo". Chúng luôn cho rằng cái chết của các anh là "giả tạo", là "che giấu", phóng sự của VTV là tạo dựng.

Đó là một cô ca sĩ, rất thích chính trị và rất nhân văn. Cô ấy nói rằng việc một trường tư không chấp nhận việc phụ huynh "nộp thiếu học phí", cho rằng giáo dục rời xa hai chữ "nhân văn". Trước đó, chính cô ca sĩ này, khóc nức nở, mắt mờ đi và phải đeo kính đen để tưởng nhớ "một ông già ở Đồng Tâm chống lại bạo quyền". Vậy nhân văn ở đây là gì? Là phải trừng trị kẻ phạm tội, ghi nhớ công lao của những người đã hi sinh vì Tổ Quốc. Chứ không phải là mượn danh ca sĩ, thể hiện mình là người có tầm ảnh hưởng, rồi muốn viết cái chết tiệt gì cũng được. Nhân văn kiểu gì? Mà lại đi ca ngợi tội phạm và xúc phạm các chiến sĩ - những người vì dân vì nước?

Đó là kẻ, tự nhận là nhân sĩ "dân chủ", cho rằng lũ người chống phá không phải là tội phạm, không phải là khủng bố vì "không giam giữ con tin, không phạm tội nghiêm trọng"... Nhưng, tàng trữ vũ khí trái phép, chế tạo bom xăng, vật liệu nổ, nói trực tiếp lên mạng rằng sẽ "giết tất", "đốt hết"... Luật pháp nào cho phép người dân chế tạo bom xăng? Người bình thường nào tự dưng đào hào, chuẩn bị vũ khí tự chế? Không khủng bố thì là gì?

Thế nào là khủng bố? Theo Quốc hội Úc, thì đây là các hành vi đe dọa bằng hành động, lời nói... được tính toán hoặc dàn xếp từ trước. Các hành vi khủng bố có thể được thực hiện một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Quan trọng hơn, hành vi khủng bố còn gây ám ảnh bởi tính đại chúng, những kẻ thực hiện khủng bố cố tình muốn đưa các thông tin khủng bố để khiến dân chúng sợ hãi.

Vậy hãy nhìn lại cái cách mà lũ tội phạm ở Đồng Tâm đang làm xem. Đó là hành vi dàn xếp "trận địa" nhằm chống đối cơ quan chức năng, lên kế hoạch phạm tội từ trước, chế tạo vũ khí trái phép, âm mưu giết người và lan truyền hình ảnh đe dọa chống đối cơ quan chức năng, dọa sẽ đoạt mạng hàng trăm chiến sĩ.

Tại sao không cắt điện nước, bao vây và ném lựu đạn hơi cay? Đúng là cái kiểu trí thức nửa mùa. Đây là đời thực chứ không phải là chơi Call of Duty hay PUBG. Khu vực lũ tội phạm "dàn binh" nằm ở gần khu dân cư, rất có thể lũ tội phạm này sẽ gây thiệt hại cho dân lành bằng vũ khí của chúng. Không loại trừ chúng thực hiện các hành vi phạm tội hướng đến người dân lành tại Đồng Tâm nhằm gây sức ép cho các chiến sĩ. Ngoài ra, trong bao nhiêu ngày trước đó, không biết bao nhiêu lần mà cơ quan chức năng yêu cầu đối thoại, làm việc, nhưng lũ tội phạm đó đáp lại như thế nào?

Tại sao phải bắn kẻ chủ mưu, trong khi kẻ chủ mưu què chân, già yếu, trong khi có thể sử dụng hơi cay? Vấn đề là kẻ chủ mưu này cầm mìn trên tay trong khi đó hơi cay không có tác động ngay lập tức. Trong thời gian đợi hơi cay tác động, không loại trừ trường hợp tên này sẵn sàng dùng mìn tự sát hoặc ném vào phía các chiến sĩ, lúc ấy, thiệt hại sẽ không còn là nhỏ nữa, tính mạng các chiến sĩ khác cũng sẽ bị đe dọa. Lúc phạm tội, thì lại đưa các yếu tố như già yếu, què chân ra để bao biện, nhưng què chân hay già yếu thì ảnh hưởng gì đến việc cầm mìn? Què chân chứ có cụt tay đâu?

Nhân văn với lũ tội phạm khủng bố? Đòi quyền sống cho tụi ấy, tại sao không nhân văn với các chiến sĩ - những người đã hi sinh khi làm nhiệm vụ? Đồng cảm với người nhà lũ tội phạm, nhưng lại khốn nạn với người nhà của các chiến sĩ đã hi sinh?

Những tên tội phạm còn có may mắn đứng trước vành móng ngựa, còn được ăn uống và hít khí giời, còn được nhìn mặt trời buổi sáng và thấy sao trời buổi đêm, còn được nói lời xin lỗi và khoan hồng, nhiều kẻ còn mong được sống. Nhưng có những chiến sĩ không còn có thể lắng nghe những lời xin lỗi ấy được nữa./.


ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ

 Sau 8 ngày xét xử, nghị án, phiên toà sơ thẩm xét xử các đối tượng trọng vụ án giết người và chống người thi hành công vụ đặc biệt nghiêm trọng tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội với sự chú ý đặc biệt của dư luận đã kết thúc sau Toà án nhân dân Hà Nội tuyên phạt các bị cáo vào chiều 14.9.

Nhìn vào bản án mà Toà sơ thẩm TAND Hà Nội đã tuyên với các bị cáo chúng ta có thể thấy được tính nhân đạo, nhân văn, khoan hồng của pháp luật cũng vừa thấy được sự nghiêm minh của luật pháp.

Hai bị cáo Lê Đình Công, Lê Đình Chức, những kẻ được xác định chủ mưu trong vụ án giết người khiến 3 chiến sĩ công an hy sinh ở Đồng Tâm bị tuyên án tử hình. Lê Đình Doanh bị tuyên phạt mức án chung thân.

Các bị cáo Bùi Viết Hiểu bị tuyên 16 năm tù, Nguyễn Quốc Tiến 13 năm tù, Nguyễn Văn Tuyển 12 năm tù. 19 bị cáo khác, dù hành vi đủ yếu tố cấu thành tội giết người nhưng trên tinh thần nhân đạo, khoan hồng đã được thay đổi tội danh để có cơ hội được sống, được làm lại cuộc đời, trở thành người có ích cho xã hội.

Tại toà, hội đồng xét xử nhận định, hành vi của các bị cáo Lê Đình Công, Lê Đình Chức, Lê Đình Doanh… là vô cùng tàn ác, các bị cáo khi thực hiện hành vi có sự bàn bạc phân công, chuẩn bị kỹ lưỡng phương tiện hành vi phạm tội. Các bị cáo thực hiện đến cùng, hành vi tàn bạo đến mức thi thể bị hại không xác định được phải giám định ADN. Việc thực hiện các hành vi mất hết tính người của các bị cáo đã cấu thành tội danh giết người.

Với bị cáo Lê Đình Doanh, bản án cũng xác định Lê Đình Doanh trực tiếp ném gạch đá bom xăng về phía lực lượng chức năng, cùng bị cáo Lê Đình Chức đổ xăng ra chậu đốt gạt xuống hố. Doanh là một trong những người trực tiếp gây ra cái chết của 3 chiến sĩ. Bị cáo có thân nhân xấu, 3 lần bị xét xử về các tội khác nhưng không ăn năn mà còn tiếp tục phạm tội với tính chất nghiêm trọng hơn.

Hội đồng xét xử cho rằng lẽ ra cần áp dụng hình phạt loại bỏ bị cáo Doanh ra ngoài xã hội nhưng xét thấy bố và chú ruột đã bị tuyên án tử hình, tại tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên cần phạt tù vĩnh viễn để đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung. Tòa tuyên bị cáo Doanh mức án chung thân.

Bị cáo Bùi Viết Hiểu khi phạm tội là người già cao tuổi, không trực tiếp gây ra cái chết cho 3 chiến sĩ nên có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Đối với 19 bị cáo còn lại trong nhóm bị cáo bị truy tố tội giết người, Hội đồng xét xử cho rằng họ bị ông Kình, Công, Hiểu lôi kéo tham gia khiếu kiện hứa hẹn chia đất Đồng Sênh nên đã tham gia tổ đồng thuận chống đối lực lượng chức năng. Một số bị cáo họp bàn mua xăng, làm bom xăng, làm bùi nhùi, góp 33 triệu mua lựu đạn và vận chuyển về nhà ông Kình. Hầu hết các bị cáo có mặt tại nhà ông Kình tối 8-1 để họp bàn phương thức chống đối.

Tòa nhận thấy các bị cáo đều là nông dân chất phác, thiếu hiểu biết pháp luật nên đã bị ông Kình, Công, Hiểu lôi kéo. Họ đều không trực tiếp thực hiện hành vi gây ra cái chết cho 3 nạn nhân. Các bị cáo cũng ăn năn thừa nhận hành vi phạm tội, không tham gia cùng Chức, Doanh đổ xăng làm chết 3 chiến sĩ, tại tòa đã thành khẩn gửi lời xin lỗi đến gia đình 3 chiến sĩ công an. Hội đồng xét xử đồng quan điểm với viện kiểm sát việc thay đổi tội danh với họ từ "giết người" sang "chống người thi hành công vụ". Thực chất là để nhằm giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, tạo điều kiện cho các bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

Pháp luật của Nhà nước ta luôn rất nghiêm minh, trừng trị thích đáng những kẻ gây ra tội ác, nhưng cũng luôn luôn rất nhân văn, khoan hồng với những người ăn năn hối cải. Đó cũng chính là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị của Nhà nước ta.


Việt Nam phản hồi Đại sứ quán Mỹ thay hình ảnh bản đồ

 


Bộ Ngoại giao Việt Nam tái khẳng định chủ quyền ở Biển Đông khi Đại sứ quán Mỹ đăng bản đồ có Trường Sa và Hoàng Sa nhưng sau đó xoá bỏ.

"Việt Nam nhất quán lập trường coi Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Lập trường nhất quán và xuyên suốt đó đã được bày tỏ nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau, kể cả ở Liên Hợp Quốc, được nhiều quốc gia tôn trọng, ủng hộ", bà Lê Thị Thu Hằng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói trong họp báo thường kỳ chiều 17/9 tại Hà Nội.

Bà Hằng trả lời câu hỏi về phản hồi của Việt Nam sau khi Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội đăng hình ảnh bản đồ Việt Nam trên Facebook có Hoàng Sa và Trường Sa ngày 9/9, nhưng sau đó được thay thế bằng hình ảnh khác không có hai quần đảo này.

Bài viết của Đại sứ quán Mỹ được đăng tải nhân dịp khai mạc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 53 (AMM 53) và các hội nghị liên quan, gồm cả các nội dung hợp tác với Việt Nam, điểm lại quan hệ đối tác trong 25 năm qua.

"Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình với Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với luật quốc tế", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói.


NGUYỄN VĂN THANH CÓ XỨNG LÀM QUẢN XỨ

 

Được biết đến là một xứ đạo bình yên có tiếng thuộc xã Diễn Tân, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; bà con nơi đây cũng có tiếng về đức tin, đức vâng với bề trên. Chính khung cảnh thanh bình, cách mục vụ ôn hoà của các cha tiền nhiệm đã làm cho Phú Linh có được dáng vẻ như cái tên đầy kiêu hãnh của mình...

Nhưng rồi, về Phú Linh nay, cảm nhận dễ thấy ở bất cứ ai khi đến với xứ đạo này là sự xô bồ, tính vụ lợi đang được nhân lên trong đời sống cộng đoàn, mối quan hệ với người lương cũng như chính quyền các cấp đã phai nhạt đi nhiều; thay vào đó là những chuyện xung đột xung quanh đất cát và những nguồn lợi khác mà trong đó vai trò của cha Quản xứ Anton Nguyễn Văn Thanh là lớn hơn cả...

Từ tháng 2/2017 đến nay, sau khi về làm quản xứ Phú Linh, Cha Antôn Nguyễn Văn Thanh đã kéo giáo dân giáo xứ Phú Linh vào hàng loạt hành vi vi phạm. Cha chính là người đã gây mất đoàn kết trong nội bộ giáo dân giáo xứ Phú Linh.

Trong thánh lễ đứng trên bục giảng lẽ ra lời Cha phải là lời Chúa, giảng tin mừng của Chúa, dẫn dắt chúng con sống “phúc âm” đó cũng là hoạt động mục vụ mà giáo luật Thiên chúa chúng ta đặt ra hàng ngàn năm nay. Thế nhưng, sau những sự việc đó xảy ra trên, đứng trước thánh đường Thiên chúa, Cha Antôn không tập trung rao giảng lời Chúa mà chỉ chăm chăm chửi bới con chiên, chỉ đạo giáo dân chuyển nhượng đất đai nông nghiệp đang sản xuất của các hộ giáo dân giáo họ Hậu Hòa, giáo họ Phú Linh để phục vụ cho lợi ích cá nhân

Nhiều giáo dân không đồng tình với cách hành xử của Cha Antôn nhưng không dám lên tiếng vì họ sợ bị cô lập hoặc bị Cha khủng bố tinh thần.

Với bản tính tham lam, quyền thế của mình và cậy thế là nghĩa tử của Đức Cha già Phaolo Maria Cao Đình Thuyên nên Cha đã vô pháp vô thiên, xem chúng con chẳng ra gì.

Thiết nghĩ, với những gì được phản ánh và đặt ra những nghi hoặc, đã đến lúc Đức cha Anphong chủ chăn địa phận cùng các quý cha cần có sự kiểm tra và có những biện pháp chặn đứng những việc làm không đúng của Anton Nguyễn Văn Thanh. Đó cũng là cách trả lại cho xứ đạo này sự yên bình vốn có lâu nay.




Thượng tôn pháp luật để ngăn chặn âm mưu “bẻ cong” pháp luật

 

Sự gia tăng các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông từ đầu năm đến nay làm tình hình khu vực hết sức căng thẳng, các nước ASEAN hết sức lo ngại. Trung Quốc hết cho tàu Hải cảnh đâm chìm tàu cá Việt Nam, Philippines, lại liên tiếp có các hành động khiêu khích như hướng radar điều khiển vũ khí vào tàu chiến của Philippines, cản trở hoạt động tàu khảo sát địa chấn của Malaysia, đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, điều tàu đánh cá có tàu Hải cảnh đi cùng vào vùng biển Natuna của Indonesia… Những hành động trên của Trung Quốc đã tạo ra sự nghi ngờ ngày càng lớn của các nước trong khu vực, đặc biệt là Philippines, Malaysia và Indonesia đối với ý đồ của Trung Quốc, buộc các nước này phải điều chỉnh thái độ.

Philippines đã rút lại quyết định hủy bỏ Thỏa thuận thăm viếng quân sự (VFA) với Mỹ bởi lo ngại trước những hành động gây căng thẳng của Trung Quốc. Điều này cho thấy Philippines có sự điều chỉnh trong mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, theo hướng duy trì liên minh với Mỹ trong khi làm chậm lại xu hướng thân thiện với Trung Quốc. Indonesia thì đã lên tiếng một cách rõ ràng trong vấn đề vùng biển Naruta.

Với ASEAN, dù không phải không còn những khác biệt, nhưng điểm nổi lên là các nước đều chủ trương tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982. Điều này thể hiện rõ trong bản Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 nhân hội nghị kết thúc hồi tháng 6-2020. Các lãnh đạo ASEAN đã khẳng định các bên phải “giải quyết hoà bình các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982”.

Trước đây, các tuyên bố chung của ASEAN chỉ đề cập chung chung là phải “phù hợp với luật pháp quốc tế”, nhưng nay vai trò của UNCLOS 1982 được đề cao và bất cứ chỗ nào trong văn bản có nhắc đến luật pháp quốc tế thì đều đi kèm với Công ước này. Điều này có ý nghĩa quan trọng bởi lâu nay, các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông là không phù hợp với UNCLOS.

Bằng việc gắn luật pháp quốc tế với UNCLOS 1982, ASEAN đã gián tiếp bác bỏ những yêu sách của Trung Quốc, cũng như thể hiện thái độ ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Các nước ASEAN cũng thống nhất trong quan điểm về sự cần thiết đẩy nhanh việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), đồng thời cho rằng đây sẽ là khuôn khổ quy phạm chuẩn mực cho cách ứng xử giữa các quốc gia trên vùng biển này, giúp ngăn ngừa sự cố và xây dựng niềm tin giữa các bên về vấn đề Biển Đông.

Dù các tranh chấp lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng vấn đề chính ở Biển Đông là trật tự quốc tế dựa trên luật pháp đã bị vi phạm nghiêm trọng. Việc ASEAN chọn thượng tôn pháp luật khác với lập trường “bẻ cong” pháp luật của Trung Quốc đang tạo ưu thế cho ASEAN về dư luận quốc tế, mở đường cho sự ủng hộ từ các nước như Mỹ, EU, Australia, Nhật Bản, Ấn Độ... đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền bằng biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

 

Chiến thuật “chia rẽ và chinh phục” của Trung Quốc tại Biển Đông

 

Theo ông Aan Kurnia - Giám đốc cơ quan an ninh hàng hải Indonesia, nước này sẽ tăng cường các hoạt động tuần tra đảm bảo an ninh hàng hải quanh quần đảo Natuna (ở Biển Đông) sau khi tàu Hải cảnh Trung Quốc xâm phạm vùng biển này. Động thái trên của Indonesia là diễn biến mới nhất cho thấy thái độ cứng rắn trong thời gian gần đây, kiên quyết không đàm phán với Trung Quốc về Biển Đông.

Quan điểm của Indonesia là nước này và Trung Quốc không có tuyên bố chủ quyền chồng chéo nào trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia. Thái độ kiên quyết của Indonesia cũng khẳng định xu hướng là nhiều nước ASEAN ngày càng mạnh mẽ công khai quan điểm phản đối các hành động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Không những thế, các nước ASEAN còn bác bỏ đề nghị đàm phán song phương mà Trung Quốc đưa ra, đồng thời coi tranh chấp Biển Đông là vấn đề đa phương.

Lâu nay, để giảm bớt bất lợi khi phải đương đầu với các nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông hoặc với toàn khối ASEAN, Bắc Kinh luôn tìm cách tiếp cận theo công thức “1-1” với các bên, thay vì đối thoại với cả nhóm hay toàn bộ khối. Trong các cuộc tiếp xúc về tình hình Biển Đông, Trung Quốc thường đề nghị thúc đẩy các cuộc gặp với Việt Nam, Malaysia và Philippines theo thể thức song phương. Mục tiêu của Bắc Kinh là khi ASEAN bị chia rẽ, không coi Biển Đông là vấn đề chung của Hiệp hội mà chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với từng nước, thì Trung Quốc có thể dễ đạt được các thỏa hiệp có lợi nhất. Bắc Kinh hy vọng có thể “đục nước béo cò” nếu như tình đoàn kết và thống nhất giữa các nước ASEAN về vấn đề Biển Đông bị chia rẽ.

Để làm được việc đó, Trung Quốc tìm cách khai thác một số quan điểm khác nhau trong lập trường của một số nước ASEAN để tạo ra sự chia rẽ nội khối. Bắc Kinh cũng luôn thổi phồng các vụ va chạm do tình trạng đánh bắt hải sản trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước để khoét sâu mâu thuẫn trong ASEAN. Chiến thuật “chia rẽ và chinh phục” này đã từng có lúc khiến ASEAN thiếu thống nhất. Với từng nước ASEAN, Philippines dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte hầu như không nhắc đến phán quyết của Tòa Trọng tài, mặc dù phán quyết này có lợi cho Philippines. Có thời điểm, Philippines còn nhắc đến chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” mà Trung Quốc gợi ý với các nước ASEAN. Indonesia trước đây cũng thường im lặng, hầu như không nhắc đến tranh chấp Biển Đông.

Năm 2012, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 45 đã không ra được Tuyên bố chung sau khi nước chủ nhà Campuchia không chấp nhận đưa vấn đề tranh chấp lãnh hải giữa Việt Nam, Philippines với Trung Quốc vào văn bản này. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 49 năm 2016 cũng không ra được Tuyên bố chung của ASEAN về vấn đề tranh chấp trên Biển Đông vì Campuchia phủ quyết dự thảo nhắc đến đến việc Tòa Trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc, bác bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông./.


Xâm thực về văn hóa, dẫn tới thay đổi về nền tảng tinh thần xã hội

 

Năm 1991, Liên bang Xô viết chính thức sụp đổ. Đó là mất mát vô cùng lớn lao đối với phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Tuy nhiên, đó cũng là bài học kinh nghiệm rất có giá trị đối với những đất nước tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường CNXH. Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc Liên bang Xô viết sụp đổ là sự xâm thực về văn hóa, dẫn tới thay đổi về nền tảng tinh thần xã hội.

Năm 1958, Liên Xô và Hoa Kỳ thống nhất việc tổ chức hai cuộc triển lãm tại thành phố New York và thủ đô Moscow nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa và sự hiểu biết lẫn nhau. Đây được coi là một sự kiện gây chấn động thế giới, bởi hai quốc gia siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ đối nghịch về nền tảng chính trị và có những khác biệt rất lớn về văn hóa. Sau này, triển lãm của Liên Xô tại thành phố New York không được đề cập nhiều nhưng triển lãm của Hoa Kỳ lại gây tiếng vang đáng kể.

Tại công viên Sokolniki ở thủ đô Moscow, Hoa Kỳ đã quảng bá văn hóa, công nghệ cũng như các sản phẩm tiêu dùng, từ ô tô, đồ uống đến nghệ thuật, thời trang và kiến trúc. Nhiều nhà tài trợ và doanh nghiệp lớn nổi tiếng của xứ cờ hoa, như: Disney, Dixie Cup Inc, IBM, Pepsi… đều có gian hàng trưng bày sản phẩm. Ngày 24-7-1959, trước khi triển lãm Moscow chính thức khai mạc, Phó tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã mời nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev tham quan các gian hàng. Họ dừng lại trước một căn bếp-nơi trở thành “hiện trường” cho cuộc tranh luận nổi tiếng trong chiến tranh Lạnh. Căn bếp này do các nhà thiết kế Hoa Kỳ dựng lên với đầy đủ tiện nghi, như: Máy rửa bát, lò nướng bánh mì, máy xay sinh tố… dường như là để “khoe” mọi người dân Mỹ đều có thể sở hữu căn bếp như thế. Lãnh đạo Liên Xô tỏ ý không vừa lòng, nói rằng các gia đình Liên Xô cũng có những thứ này. Cuộc tranh luận bắt đầu, chủ đề được mở rộng đến các vấn đề chính trị như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản (CNTB), chiến tranh hạt nhân... Ngày hôm sau, "Cuộc tranh luận trong bếp" là tin tức xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo ở Hoa Kỳ. Và điều thú vị nhất của “Cuộc tranh luận trong bếp” là sau khi nó kết thúc, Nixon và Khrushchev cùng uống Pepsi. Một nhiếp ảnh gia đã bắt được khoảnh khắc Nixon và Khrushchev đứng cạnh nhau trong khi nhà lãnh đạo Liên Xô thưởng thức nước ngọt có ga của một thương hiệu… phương Tây.

Cùng các cuộc chiến về chính trị, ngoại giao, văn hóa là mũi nhọn được các thế lực thù địch phương Tây sử dụng nhằm tiêu diệt nhà nước Nga Xô Viết. Dưới thời nhà lãnh đạo Khrushchev, các thế lực chống cộng và chính quyền phương Tây căn cứ vào tình hình đã tăng cường thực thi “diễn biến hòa bình”, âm mưu phương Tây hóa, phân hóa Liên Xô. Đến thời Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan (hai nhiệm kỳ-1981-1989), Chính phủ Hoa Kỳ càng đẩy mạnh chủ trương ngoại giao cân bằng, thẩm thấu tư tưởng, văn hóa với Liên Xô và các nước Đông Âu qua truyền bá quan điểm phương Tây về tự do, nhân quyền với hạt nhân là lợi ích cá nhân. Reagan cho rằng, trong cuộc đấu tranh giữa CNTB và CNXH, nhân tố quyết định cuối cùng không phải là đọ sức đạn hạt nhân và tên lửa mà là cuộc đọ sức của ý chí và tư tưởng.          

Ở chiều ngược lại, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là Mikhail Gorbachev lại ra sức cổ súy cho cái gọi là tư duy mới chính trị quốc tế. Lợi dụng thời cơ đó, các thế lực chống cộng ở phương Tây tài trợ cho một số cơ quan nghiên cứu lập phương án đánh vào những tình cảm nhân dân Liên Xô dành cho Lênin và Stalin. Các tác phẩm chống Lênin, Stalin xuất hiện đầy rẫy trên báo, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh... Họ kích động nhân dân Liên Xô đề nghị mai táng thi hài Lênin. Phương Tây còn ca tụng tư duy cải tổ của Gorbachev, nhằm làm suy yếu và hủy bỏ uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), tuyên truyền cho cái gọi là cuộc sống tươi đẹp ở phương Tây và tính ưu việt của chế độ tư bản. Phương Tây rất chú trọng dùng lối sống tiêu dùng để tác động và ảnh hưởng đến đông đảo người dân Liên Xô, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên.

Sau này, tổng kết về “thắng lợi” của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Liên Xô và Đông Âu, năm 1988, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã xuất bản cuốn sách “1999-Chiến thắng không cần chiến tranh”. Trong đó, R.Nixon xác định: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng!"./.

Nguy cơ “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng

 

Từ năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cùng với âm mưu xâm lăng nước ta bằng quân sự, các nước đế quốc còn thực hiện âm mưu xóa bỏ những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Cuộc đấu tranh này ở nước ta, theo thời gian, theo sự phát triển của xã hội ngày càng diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt.

Nguy cơ “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng diễn ra từ hai góc độ: Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và xu hướng “tự chuyển hóa” của những đối tượng yếu kém bản lĩnh chính trị trước sự biến động của xã hội.

Ở góc độ chống phá của các thế lực thù địch, biểu hiện rõ nét nhất là hoạt động xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN, ra sức du nhập văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản thực dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Cùng đó, các thế lực thù địch luôn khuyến khích khuynh hướng đòi văn hóa, văn nghệ hoạt động độc lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này.

Trong nhiều năm qua, đã có không ít văn nghệ sĩ lạc đường, từ bỏ lợi ích của quốc gia, dân tộc, chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng văn hóa, nghệ thuật phương Tây, hạ thấp, coi rẻ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, khuyến khích các giá trị văn hóa cá nhân cực đoan, đề cao giá trị dân chủ, tự do tư sản. Thậm chí, đã xuất hiện những sáng tác miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta mang một màu đen tối, chết chóc, bi kịch, vô nghĩa; phủ định những sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ chiến tranh, coi đó là “minh họa”, là tô hồng, là cao hơn, là đứng trên hiện thực. Chúng ta không phủ nhận những hạn chế lịch sử của mảng văn học, nghệ thuật trong chiến tranh nhưng không thể nhân danh đổi mới để bôi nhọ cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc bằng việc chỉ miêu tả mặt đen tối, sự chết chóc và tha hóa con người trong chiến tranh. Khuynh hướng này chỉ là phiến diện, chưa trung thực với lịch sử. Với vai trò văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những sản phẩm đội danh văn hóa này đặc biệt nguy hiểm, có nguy cơ làm tha hóa thế hệ trẻ, tạo ra một thế hệ “mất gốc”, phủ nhận các giá trị truyền thống dân tộc, thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển.

Ở góc độ chủ quan những người “tự chuyển hóa”, khi đất nước mở cửa sâu rộng với thế giới, những yếu tố có khả năng tác động tới sự biến đổi về xã hội ùa vào theo là vấn đề tất yếu. Đó bao gồm hai sản phẩm cơ bản: Văn hóa và tiêu dùng. Cả hai sản phẩm này, dù được nhập khẩu chính ngạch nhưng đều mang tính hai mặt, đặc biệt với sản phẩm văn hóa. Những sản phẩm văn hóa được phép lưu hành đều mang những giá trị nhất định về chân-thiện-mỹ, cổ vũ lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Tuy nhiên, đi kèm theo đó là việc phổ biến những giá trị văn hóa, hình ảnh xã hội khác biệt, thậm chí đi ngược với những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt. Dưới góc độ hội nhập, chúng ta không thể không tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế giới nhằm bổ sung, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nếu việc tiếp thu thiếu chủ động, không đủ bản lĩnh, năng lực để chỉ lựa chọn cái tốt, cái có ích cho đời sống văn hóa thì quá trình hội nhập về văn hóa sẽ trở thành nguy cơ làm “biến màu” nền văn hóa bản địa.

Những tác động của văn hóa lên nền tảng tư tưởng xã hội thường không mang tính chất tức thời mà là một quá trình “mưa dầm thấm lâu”. Tuy nhiên, sự chuyển biến chậm rãi đó lại có khả năng thay đổi bền vững tư duy, tình cảm của mỗi người. Vì thế, nếu thiếu cảnh giác, để những tác động tiêu cực của văn hóa ngoại lai du nhập, thẩm thấu sâu vào đời sống xã hội Việt Nam, chúng ta sẽ phải trả cái giá rất đắt. Thậm chí, có thể là cả việc lạc mất con đường tiến lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn./.