MỘT
SỐ SỰ KIỆN LỊCH SỬ NỔI BẬT CỦA NGÀY 09 THÁNG 10
* Tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam họp tại Hương Cảng (Trung Quốc).
Hội
nghị đã thông qua Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo. Luận
cương Chính trị đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam và Đông Dương, vạch ra con đường Cách mạng chống đế
quốc và phong kiến một cách triệt để và toàn diện, đáp ứng những đòi hỏi của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt nam.
Hội
nghị đã bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, và quyết định đổi tên Đảng thành
Đảng cộng sản Đông Dương nhằm đoàn kết thống nhất các lực lượng yêu nước và
Cách mạng của ba dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia trong cuộc chiến đấu chống
kẻ thù chung của đế quốc Pháp xâm lược.
*
Nữ sĩ Lê Hằng Phương, bút danh Hằng Phương sinh ngày 9-10-1908,
quê ở tỉnh Quảng Nam, qua đời năm 1983 ở Hà Nội.
Bà là con gái học giả Lê Dư và là vợ nhà
văn Vũ Ngọc Phan.
Sau cách mạng
tháng Tám, bà Hằng Phương hoạt động trong Hội phụ nữ cứu Quốc và tham gia kháng
chiến chống Pháp, rồi làm việc ở Ban nghiên cứu Văn- Sử- Địa. Thời kỳ chống Mỹ,
tuy tuổi đã cao, bà vẫn đến các nơi tuyến lửa.
Nữ sĩ Hằng Phương có các tập thơ đã xuất bản:
- Hương xuân
(năm 1943, in chung với Vân Đài, Anh Thơ, Mộng Tuyết).
- Mùa gặt (năm
1961).
- Hương đất nước
(năm 1974).
Thơ Hằng Phương
êm dịu, ngọt ngào, tình cảm trong sáng, nhân hậu, quan tâm nhiều đến số phận
người phụ nữ, lời thơ giản dị, hồn nhiên.
* Ngày 9-10-1921 đã diễn ra
cuộc họp đầu tiên của "Hội Liên hiệp thuộc địa" tại Pari.
Hội do đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng với
một số bạn chiến đấu người Angieri, Tuynidi, Marốc, Mangasơ...sáng lập. Mục
đích của Hội là giải phóng các dân tộc thuộc địa. Cơ quan tuyên truyền của Hội
là tờ báo LơParia (Người cùng khổ). Hội tập hợp được gần 100 hội viên là những
người yêu nước.
"Sự ra đời của Hội là một sự kiện chính trị quan trọng đối
với các dân tộc bị áp bức. Hội chỉ hoạt động đến 1926 nhưng đã góp phần vào
việc xây dựng tình đoàn kết giữa nhân dân các nước thuộc địa. Thông qua Hội,
chủ nghĩa Mác Lênin đã được truyền bá đến các thuộc địa.
* Ngày 9 - 10 - 1983, tại Hà Nội đã khai
mạc Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc lần thứ nhất.
Đây là đại hội thể dục thể thao cả nước, lớn nhất, đầu tiên của
học sinh nước ta.
* Ngày 9-10-1967, Ênextô
Ghêvara đã hy sinh tại Bôlivia. Ông sinh năm 1928 ở Áchentina.
Ghêvara sớm bộc lộ khí chất táo bạo và
quả cảm của một nghệ sĩ khao khát tự do, giải phóng cho dân tộc bị áp bức.
Ênextô Ghêvara đã sát cánh cùng Phiđen Cátxtrô tiến hành cuộc
Cách mạng Cuba. Tài năng cộng với tính cách quả cảm của ông lẫy lừng, người dân
châu Mỹ la tinh đã đặt tên cho Ghêvara là Chê (thành ngữ Áchentina có nghĩa là
bạn thân).
Hoài bão của Chê thể hiện qua những câu
nói nổi tiếng: "Tiến hành kháng chiến đến thắng lợi ở tất cả các nước đang
còn nằm dưới ách thống trị của đế quốc, sao cho mỗi nước châu Mỹ la tinh là một
Việt Nam". Chê được tôn vinh là anh hùng du kích.
Sau 30 năm tìm kiếm, tháng 7-1997, hài cốt của Chê đã được đem
về đất nước Cu Ba - Tổ quốc thứ hai - Quê hương Cách mạng của ông.
* Tháng 9-1874, đại diện 22 nước họp tại thành phố Bon (Thuỵ Sĩ)
đã nhất trí lấy ngày 9-10 hàng năm làm ngày Bưu chính thế giới (gọi tắt là
UPU).
Hiện nay có 189 nước tham gia UPU. Việt Nam là thành viên của
liên minh Bưu chính thế giới từ năm 1951.
NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN CHỐNG
PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Âm mưu chuyển hóa
chế độ XHCN ở Việt Nam luôn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của các thế lực
thù địch. Trong đó, trọng điểm là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Điều đó lý giải cho việc tại sao cứ ngay
trước, trong và sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, hoạt động chống phá của chúng lại được
tăng cường, ngày càng ráo riết, bằng những thủ đoạn tinh vi, thâm hiểm trên tất
cả các lĩnh vực: Chính trị, tư tưởng, tổ chức và trong mọi mặt công tác, hoạt
động của Đảng, nhất là công tác cán bộ. Đại hội lần thứ XIII này của Đảng cũng
không phải là ngoại lệ. Vì thế, việc nêu cao cảnh giác, chủ động đấu tranh, làm
thất bại các thủ đoạn đó của chúng, là hết sức quan trọng, cấp thiết, không chỉ
đảm bảo thành công của Đại hội, mà còn củng cố trận địa tư tưởng của Đảng, niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN ở nước ta. Nội dung và thủ đoạn
chống phá của chúng thường tập trung vào một số vấn đề lớn sau:
Thứ
nhất, về chính trị: Đây là lĩnh vực trọng tâm mà các thế
lực thù địch, phản động hướng tới, nhằm làm thay đổi, sai lệch quan điểm, đường
lối chính trị của Đảng và chệch hướng CNXH ở nước ta. Với thủ đoạn, thổi phồng,
bóp méo, khoét sâu những khuyết điểm, hạn chế về vài trò lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý điều hành của Nhà nước và Chính phủ, nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội, trực tiếp là xuyên tạc, phủ nhận các văn kiện
trình Đại hội XIII của Đảng;
Thứ
hai, về tư tưởng: Chúng sẽ tập trung chống phá nền tảng
tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tập trung
tung ra những luận điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, rằng: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, lạc hậu”, “tư tưởng Hồ Chí
Minh chỉ là sự cộng lại giữa học thuyết của C.Mác và Nho giáo”, “con đường Bác
Hồ chọn là con đường dân tộc, không phải CNXH”. Và rằng, theo con đường đó sẽ
là “sai lầm vô vọng”….
Thứ
ba, về tổ chức và công tác cán bộ: Chống phá về tổ
chức, là một trong những phương thức cơ bản mà các thế lực thù địch đã sử dụng
trong các đợt sinh hoạt dân chủ rộng rãi của toàn dân và các tổ chức chính trị
– xã hội. Do vậy, trước Đại hội lần thứ XIII của Đảng, chúng sẽ lợi dụng việc
lấy ý kiến đóng góp vào các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, để lôi kéo
các phần tử chống đối, bất mãn với chế độ ký tên tập thể đòi yêu sách, gây sức
ép, nhằm thay đổi những vấn đề có tính nguyên tắc của Đảng ta. Thủ đoạn nham
hiểm này của chúng nhằm dụ dỗ, mua chuộc những cán bộ, đảng viên có biểu hiện
thoái hóa, biến chất để làm công cụ xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, đường lối
của Đảng.
Ngoài ra, các thế lực thù địch triệt
để lợi dụng Internet để tán phát các bài viết, lời kêu gọi có nội dung xuyên
tạc, đả kích về công tác chuẩn bị Đại hội của Đảng. Các luận điệu chống phá
thường tập trung vào bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Chẳng hạn như, chúng tung tin số cán bộ cao cấp này sở hữu “hàng loạt ngôi biệt
thự khủng”; vị lãnh đạo ngành kia cho con cháu đứng tên hàng chục “lô đất
vàng”, nhưng không xuất trình được giấy chứng nhận quyền sở hữu… Bên cạnh đó,
thêu dệt nên các câu chuyện về mâu thuẫn, phe cánh, đấu đá nội bộ nhằm gây chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết. Nào là đưa ra phương án về nhân sự “tứ trụ”, nào
là trong Đảng đã có sự phân chia sâu sắc về “phe cánh”, có “phe cánh” nghiêng
về quan hệ mật thiết với Trung Quốc, có “phe cánh” ngả về thân thiết quan hệ
với Mỹ; việc bầu bán nhân sự mới của Đảng diễn ra trong tình thế “giằng co
quyết liệt” giữa các “nhóm lợi ích 3 miền”, “giữa phe Đảng, Chính phủ và Quốc
hội”… Đáng chú ý là những thông tin này không có nguồn gốc, hay nói cách khác
tính xác thực của thông tin là điều không thể chứng minh bằng chứng cứ rõ ràng.
Để tăng tính thuyết phục cho những
luận điệu sai trái này, chúng xây dựng những trang web, trang fanpage (mua
lượng truy cập tự động cao) để tung những văn bản giả có dấu mật để thêu dệt,
bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước bằng những câu chuyện ly kỳ, rồi chúng còn tổ
chức ra cuộc tọa đàm dẫn lời một số nhân vật tự nhận là “Giáo sư”, “Tiến sĩ”,
“Luật sư”, “học giả”, “nhà nghiên cứu chính trị – xã hội”… khoác dưới vỏ bọc
“yêu nước”, “đóng góp trung thực, thẳng thắn vì nhân dân, vì đất nước” nhưng
thực chất là số đối tượng chống cộng cực đoan ở Hải Ngoại và những đối tượng
bất mãn, cơ hội chính trị ở trong nước bình luận, đánh giá về công tác nhân sự
của Đảng và Nhà nước trong kỳ Đại hội sắp tới. Số khác triệt để lợi dụng sự
phát triển của khoa học công nghệ để tạo ra những bằng chứng giả chứng minh cho
các luận điệu xuyên tạc của mình. Nhưng thực chất, đó chỉ là những hình ảnh
“cắt, dán” thông qua công nghệ photoshop…
Lý do cho việc chúng tăng cường các
hoạt động chống phá ta trước các kỳ đại hội Đảng hòng làm mất ổn định nội bộ
trong hàng ngũ lãnh đạo, gieo giắc hoài nghi, ngờ vực lẫn nhau, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Việc “nhai đi nhai lại, nói tái nói
hồi” những vấn đề chống phá đã cũ, cộng thêm những hình thức biểu đạt thông tin
nham hiểm mới của chúng cũng chỉ nhằm mưu đồ cuối cùng đó là thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình”, tiến hành cuộc “cách mạng màu” nhằm chuyển hóa chế độ
chính trị Việt Nam theo quỹ đạo phương Tây.
Để phục vụ cho những mưu đồ chính trị
thâm hiểm, các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá đất nước
ta. Vậy nên, chủ động nhận diện và đấu tranh làm thất bại mọi thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội XIII của Đảng là một trong
những nhiệm vụ hết sức quan trọng. Chúng ta cần cảnh giác trước những luận điệu
phá hoại kỳ đại hội Đảng sắp tới, đặc biệt là các thông tin tuyên truyền, xuyên
tạc, vu cáo do các thế lực thù địch phát tán trên Internet. Như vậy, sự chống
phá của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng sẽ quyết liệt hơn trong thời gian tới. Do đó, chúng ta cần nâng cao
tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm
độc, nguy hiểm của chúng, góp phần bảo đảm sự thành công Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng.
VD
Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020
Trung ương xem xét công tác nhân sự khóa XIII
Hội nghị Trung ương 13 (khóa XII) diễn ra từ ngày 5 đến 10/10 sẽ tiếp tục hoàn thiện các dự thảo văn kiện và xem xét công tác nhân sự Trung ương khóa mới.
Tại hội nghị này, Trung ương cũng thảo luận tình hình kinh tế - xã hội năm 2020, kế hoạch phát triển năm 2021 và một số vấn đề quan trọng khác.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc hội nghị Trung ương 13, khóa XII, sáng 5/10. Ảnh: TTX
Đề cập tới công tác nhân sự Ban chấp hành Trung ương khóa XIII trong phát biểu khai mạc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho biết, từ cuối tháng 12/2018 đến tháng 9, sau khi Trung ương cho ý kiến, trên cơ sở đề xuất của Tiểu ban Nhân sự, Bộ Chính trị đã 4 lần phê duyệt nhân sự quy hoạch Trung ương khóa XIII với tổng số 227 người.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo mở 5 lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho những người được quy hoạch. Tháng 7/2020, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã gửi thư đến các Uỷ viên Trung ương đương nhiệm, đề nghị từng người đề xuất ý kiến về cá nhân mình và giới thiệu nhân sự đủ tiêu chuẩn, điều kiện để thay thế.
Tính đến ngày 20/8, đã có 116 địa phương, cơ quan, đơn vị giới thiệu 119 Uỷ viên Trung ương đương nhiệm (cả chính thức và dự khuyết) tái cử Trung ương khóa mới; 107 người lần đầu tham gia Uỷ viên chính thức và 44 người tham gia Uỷ viên dự khuyết Trung ương khoá XIII.
Tiểu ban Nhân sự đã chỉ đạo 10 cơ quan chức năng và địa phương liên quan thẩm định, rà soát tiêu chuẩn, điều kiện đối với các nhân sự đã được giới thiệu, bao gồm nhân sự tái cử và nhân sự tham gia lần đầu.
10 cơ quan này gồm: Ban Tổ chức Trung ương, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương, Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương, Ban cán sự đảng Thanh tra Chính phủ, Ban cán sự đảng Kiểm toán Nhà nước, Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội và Ban Thường vụ Thành uỷ TP HCM.
Từ phải qua: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Thành Phong; Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh trao đổi bên lề hội nghị Trung ương 13, khóa XII, sáng 5/10. Ảnh: TTX
Trên cơ sở phương hướng và quy trình công tác nhân sự đã được Trung ương thông qua, Tiểu ban Nhân sự và Bộ Chính trị đã họp nhiều lần, "xem xét một cách khách quan, công tâm, toàn diện, thảo luận kỹ lưỡng dự kiến danh sách giới thiệu ứng cử Uỷ viên Trung ương Đảng khoá XIII".
Tại hội nghị lần này, Bộ Chính trị trình Trung ương kết quả giới thiệu nhân sự của các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương và ý kiến của Bộ Chính trị về các nhân sự được giới thiệu; đồng thời, báo cáo Trung ương về nhân sự tham gia Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá XIII (bao gồm danh sách tái cử và danh sách tham gia lần đầu).
Nhấn mạnh công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương vô cùng hệ trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị các ủy viên Trung ương Đảng khóa XII nêu cao tinh thần trách nhiệm, bám sát phương hướng và quy trình công tác nhân sự, nghiên cứu kỹ danh sách giới thiệu để thảo luận, cân nhắc, lựa chọn kỹ trước khi ghi phiếu biểu quyết.
Về tiếp tục hoàn thiện dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị Trung ươngdành thời gian nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, góp ý cụ thể vào các dự thảo mới và tờ trình, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Về tình hình kinh tế - xã hội năm 2020 – 2021, Trung ươngnghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, dự báo có cơ sở khoa học về tình hình những tháng cuối năm 2020 và các năm 2021, 2022, đặc biệt là xu hướng biến động của dịch bệnh và diễn biến tình hình thế giới và trong nước trên tất cả các lĩnh vực...
Nêu rõ nội dung hội nghị lần này bao gồm những vấn đề rất cơ bản và hệ trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị Trung ương dành thời gian tập trung nghiên cứu, thảo luận, cho ý kiến để tiếp tục hoàn thiện và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Tuần lễ cấp cao Đại hội
đồng Liên hợp quốc (LHQ) khóa 75 đã kết thúc ngày 2/10. Việt Nam tham gia Khóa
họp thứ 75 Đại hội đồng LHQ khi đang đảm nhiệm những trọng trách lớn của khu
vực và thế giới. Với tư cách là ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
(HĐBA) LHQ và Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã có
nhiều đóng góp tích cực trong Tuần lễ cấp cao, bao gồm phiên thảo luận chung
cấp cao với chủ đề “Tương lai chúng ta muốn, LHQ chúng ta cần: Tái khẳng định
cam kết chung đối với chủ nghĩa đa phương - ứng phó với COVID-19 thông qua hành
động đa phương hiệu quả" và các phiên họp cấp cao khác.
Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đều đã
gửi thông điệp tới các hội nghị. Việc lãnh đạo cấp cao Việt Nam có thông điệp
gửi đến các hội nghị nhằm khẳng định vai trò là thành viên có trách nhiệm chủ
động tham gia, đóng góp tích cực, thực chất vào các hoạt động của LHQ và cộng
đồng quốc tế của Việt Nam, đồng thời thể hiện quan tâm của Việt Nam trong việc
xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực.
Đặc biệt, việc Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lần đầu tiên tham gia gửi thông điệp đến Đại
hội đồng LHQ, thể hiện thông điệp ở cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước ta về chủ
trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam, đã cho thấy đường lối nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta đề cao vai trò của LHQ và chủ nghĩa đa phương, thúc đẩy tôn
trọng Hiến chương LHQ, luật pháp quốc tế, quan hệ bình đẳng, hợp tác phát triển
giữa các quốc gia.
Có thể nói các thông điệp của lãnh đạo Việt Nam là lời khẳng
định rõ ràng rằng Việt Nam tiếp tục tin tưởng vai trò không thể thiếu của hợp tác
đa phương và LHQ nói riêng trong giải quyết các thách thức của thời đại, đồng
thời cũng thể hiện Việt Nam sẵn sàng cùng cộng đồng quốc tế gánh vác trách
nhiệm chung.
Đó là nội dung trong
Thông điệp của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh gửi đến
Phiên họp cấp cao kỷ niệm Ngày Quốc tế về xóa bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân.
Thông điệp khẳng định:
Việt Nam ủng hộ tất cả các nỗ lực giải trừ và không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Chúng tôi cũng đã tham gia tất cả các điều ước quốc tế về vấn đề này, bao gồm
Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân, Hiệp ước Cấm thử Hạt nhân Toàn diện (CTBT),
và gần đây nhất là Hiệp ước Cấm vũ khí hạt nhân.
Chúng tôi kêu gọi các
quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đẩy mạnh cam kết giải trừ toàn bộ vũ khí hạt
nhân theo Điều 6 của Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân, khôi phục lòng
tin đối với các thể chế đa phương về giải trừ quân bị, phát huy vai trò của các
cấu trúc khu vực trong thiết lập và duy trì các khu vực không có vũ khí hạt
nhân.
Với vai trò là Chủ tịch
ASEAN năm 2020, Việt Nam cam kết duy trì Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt
nhân và sẽ tiếp tục tham gia cùng tất cả các bên nhằm giải quyết các vấn đề còn
tồn đọng trong quá trình triển khai Hiệp ước về Khu vực Đông Nam Á không có vũ
khí hạt nhân. Đồng thời, quyền của các quốc gia được sử dụng năng lượng hạt
nhân vì các mục đích hòa bình cần phải được tôn trọng.
Quy định mới về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại; mang thai hộ vì mục đích thương mại bị phạt từ 5-10 triệu đồng; giáo viên được nghỉ hè 8 tuần; quy định mới về mức hỗ trợ khám, chữa bệnh nghề nghiệp; quy định mới về chế độ làm việc của giảng viên đại học... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 9/2020.
Ý Đảng và lòng Dân là hai yếu tố cội nguồn, sâu xa trực tiếp là nhân tố then chốt, quan trọng hàng đầu quyết định mọi thành công của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay việc phát huy bài học kinh nghiệm về ý Đảng, lòng Dân đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, phong phú và đa dạng hơn. Đó là việc tiếp tục làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên được nâng lên một tầng cao mới về tư tưởng, đạo đức, trình độ, năng lực để đủ sức lãnh đạo cách mạng, thật sự là những tấm gương sáng, vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân theo tinh thần các Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, XII và Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
LÒNG TỰ TRỌNG CỦA MỘT HỌC SINH RẤT ĐÁNG TRÂN TRỌNG
“Em muốn vào đại học bằng chính năng lực của mình, không dựa vào điều gì khác. Em đã đỗ vào Y đa khoa của Trường ĐH Y Dược Thái Bình bằng năng lực nên em quyết định sẽ theo học ở đây bằng đam mê”.
Nhấn để phóng to ảnh
Suốt 10 năm qua Ngô Minh Hiếu luôn cõng bạn Nguyễn Tất Minh đến trường.
Không có nguyện vọng xin đặc cách
Thông tin Ngô Minh Hiếu, người đã suốt 10 năm qua cõng bạn Nguyễn Tất Minh đến trường không đủ điểm để đỗ Ngành Y đa khoa, ĐH Y Hà Nội khiến nhiều người nuối tiếc vì thiếu có 0,25 điểm.
Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT 2020 vừa qua, Nguyễn Tất Minh đỗ vào trường ĐH Bách Khoa Hà Nội, còn Ngô Minh Hiếu đạt 28,15 điểm, không đủ điểm để đỗ Ngành Y đa khoa, ĐH Y Hà Nội.
Có một số ý kiến đề nghị Trường ĐH Y Hà Nội đặc cách cho Hiếu. Tuy nhiên, Hiếu cho biết, ngành Y đa khoa của Trường ĐH Y Hà Nội là nguyện vọng 1 của em, tuy nhiên, xin để được đặc cách vào đó không phải là nguyện vọng của em. Mơ ước của em đã đạt được khi đỗ ngành Y đa khoa của Trường ĐH Y Dược Thái Bình.
Hiếu bày tỏ sự cảm ơn và trân trọng lòng tốt của những người đang lo và thương cho em, tuy nhiên, ngay từ đầu, Hiếu không muốn xin một suất trúng tuyển đặc biệt hay xin đặc cách.
“Em thiếu 0,25 điểm quá là nhiều so với những bạn chỉ thiếu 0,05 điểm, thậm chí chắc có tới vài trăm bạn ở miền Bắc cũng thiếu 0,25 như em. Nếu em xin đặc cách thì chắc chắn cũng có nhiều bạn đạt những thành tích tốt, hoặc làm những việc tốt, cũng có thể xin được”, Hiếu chia sẻ và coi điều này sẽ gây khó cho nhà trường, cho chính em và những bạn thí sinh khác.
Ngô Minh Hiếu khẳng định: “Em muốn vào đại học bằng chính năng lực của mình, không dựa vào điều gì khác. Em đã đỗ vào Y đa khoa của Trường ĐH Y Dược Thái Bình bằng năng lực nên em quyết định sẽ theo học ở đây bằng đam mê”.
Trước đó, khi điều chỉnh nguyện vọng, Hiếu dự đoán, với phổ điểm cao như năm nay, điểm số 28,15 của em chỉ có khoảng 50% cơ hội đỗ ngành Y đa khoa Trường ĐH Y Hà Nội. Vì vậy, để chắc chắn hơn, Hiếu đã tham khảo ý kiến của thầy cô và quyết định đăng ký nguyện vọng 2 vào ngành Y đa khoa của Trường ĐH Y Dược Thái Bình.
“Y đa khoa của Y Thái Bình chất lượng rất tốt, nên em tin mình sẽ thực hiện được ước mơ khi học tập ở đây”, Hiếu nói.
Hiếu cũng bày tỏ niềm vui khi người bạn thân Nguyễn Tất Minh đã đạt nguyện vọng vào ngành Công nghệ thông tin của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội.
“Em chỉ buồn khi tới đây sẽ học ở xa bạn, không được ở cạnh để giúp đỡ bạn Minh hằng ngày. Một người bạn đã gắn bó với em, không phải 10 năm đâu, mà từ khi chúng em còn rất nhỏ”, Hiếu tâm sự.
Tuy nhiên, qua chia sẻ của Hiếu, được biết, hai em đã luôn nói với nhau về việc sau này sẽ phải tự lập trong cuộc sống.
“Em mong đây sẽ là bước ngoặt để bạn lấy động lực, cố gắng có thể sống và học tập không cần em. Dù sao, chúng em vẫn sẽ luôn giúp đỡ nhau trong khả năng có thể”, Hiếu nhắn nhủ.
Điều mong mỏi nhất của Hiếu là khi học tập ở Trường ĐH Bách khoa Hà Nội và ở bất kỳ đâu, Minh đều sẽ có những người bạn tốt, sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ.
Luôn khẳng định mình là người may mắn, Hiếu nói, có nhiều bạn khó khăn, vất vả hơn em, nhưng vẫn cố gắng học tập, không bao giờ bỏ học.
Mặc dù khá bận, nhưng bố mẹ Hiếu luôn dành sự quan tâm, động viên Hiếu, rằng dù học ở đâu, quan trọng là phải cố gắng, nỗ lực hết sức vì ước mơ của mình.
“Em coi đây là hạnh phúc của mình nên càng tự nhủ phải cố gắng hơn để không phụ lòng tin của bố mẹ, của bạn bè, đặc biệt là bạn Minh và tất cả mọi người. Em mong những bạn thí sinh chưa trúng tuyển trong đợt 1 cũng có được sự quan tâm, chia sẻ như vậy”, Hiếu nói.
Mạng xã hội được các
thế lực thù địch triệt để sử dụng là phương tiện hữu hiệu truyền bá thông tin,
quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta... Trong đó, đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế
lực thù địch đòi “phi chính trị hóa” quân đội, tước bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, đồng nghĩa với việc xóa bỏ
nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội. Do vậy, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn thông tin, an ninh mạng trong
quân đội hiện nay được xác định là một nội dung quan trọng trong điều kiện mới;
không kém phần gay go, quyết liệt trong Chiến lược an ninh mạng quốc gia của
Đảng và Nhà nước ta.
Luật An ninh mạng năm 2018 có nêu rõ: An ninh mạng là sự bảo đảm
hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trong đó, lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt
trong bảo đảm an toàn thông tin và an ninh thông tin.
Đối với quân đội, Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý việc cung cấp
và sử dụng dịch vụ internet theo các quy định pháp luật về lĩnh vực hoạt động
internet. Thực hiện trên các cơ sở đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh phổ cập internet và
phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại; sẵn sàng đối phó với các cuộc chiến tranh thông tin, bảo
đảm bí mật quốc phòng, an ninh quốc gia và an toàn cho các hệ thống thông tin
do quân đội quản lý trên internet.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc bảo đảm an toàn
thông tin, an ninh mạng, quân đội đã sớm xác định nhiệm vụ phải huy động, phát
huy hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ an ninh mạng trong quân đội; đấu tranh
hiệu quả với âm mưu, hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quân
đội và lợi ích hợp pháp của cơ quan, đơn vị, quân nhân. Đồng thời bảo vệ toàn
diện các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Phát triển mạng quân sự, có
nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng tự sản xuất các trang thiết bị, giải
pháp bảo vệ an ninh mạng của quân đội./.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những di sản tư tưởng bao trùm và xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Đồng thời, đây cũng là tư tưởng có ý nghĩa chỉ đạo đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Nông dân xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương báo cáo kết quả sản xuất với Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 31-5-1957)_Nguồn: hochiminh.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh tầm nhìn bao quát, sâu rộng về giá trị phổ quát này, mà còn là tư tưởng để thực hành trong thực tiễn nhằm xây dựng chế độ dân chủ trên một đất nước vừa được giải phóng khỏi sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc cách đây 75 năm. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được phản ánh một cách chắt lọc, cô đọng, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hành, biểu hiện ở ba vấn đề cốt lõi sau:
Thứ nhất, khẳng định vai trò, địa vị của nhân dân trong chế độ chính trị dân chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Nó được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đồng thời, nó phản ánh mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và nhân dân trong chế độ chính trị - xã hội nhất định. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng một Nhà nước Việt Nam kiểu mới, đó là nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Người tuyên bố dứt khoát: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ”(1).
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(2). Theo Người, ở nước ta, mọi quyền hành và lực lượng đều là của nhân dân, từ nhân dân mà ra. Người nhấn mạnh rằng: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(3). Như vậy, nội dung cơ bản và cốt lõi nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là: Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị - xã hội, thể chế chính trị dân chủ phải bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân là người có quyền quyết định vận mệnh của quốc gia - dân tộc; nhân dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng, củng cố và thực hành quyền lực của mình thông qua hệ thống chính trị và thể chế chính trị dân chủ, xây dựng và củng cố bộ máy quản lý nhà nước nhằm hướng tới phục vụ lợi ích của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân... Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà nước: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(5).
Thứ hai, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngay từ năm 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(6). Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng được thành lập, Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đây là điểm khác biệt về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột từng tồn tại trong lịch sử.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là nhà nước mà ở đó tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhân dân là gốc, là chủ của quyền lực nhà nước, bao nhiêu quyền hạn của Nhà nước đều là của nhân dân. Do đó, đội ngũ cán bộ của chính quyền các cấp là đầy tớ trung thành của nhân dân, là công bộc của nhân dân, chứ không phải là cha mẹ dân, cai trị dân như nhà nước của chế độ bóc lột trước đây. Nhân dân là người có quyền quyết định các vấn đề hệ trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc. Ngay trong Điều 32 Hiến pháp năm 1946 đã nêu rõ: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra cho nhân dân phúc quyết”. Thực chất ở đây là trưng cầu ý dân, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra ở nước ta khá sớm. Nhân dân bầu ra Quốc hội và chính quyền các cấp, có quyền kiểm soát nhà nước, giám sát và có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước cho nên nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình, những đại biểu này thay mặt nhân dân tổ chức, điều hành các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương thông qua chế độ tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Đồng thời, Nhà nước do dân cũng là nhà nước mà nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước, ủng hộ, giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện các nghĩa vụ và quyền hạn đối với Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Mặt khác, nhân dân tham gia góp ý xây dựng Nhà nước, kiểm soát và giám sát quyền lực của Nhà nước. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”, nghĩa là Nhà nước không đáp ứng được nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn Chính phủ.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nhà nước không có đặc quyền, đặc lợi, đứng trên nhân dân mà phải thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở: Việc gì có lợi cho dân thì dù nhỏ cũng cố gắng làm. Việc gì có hại cho dân thì dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Nhà nước vì dân là Nhà nước luôn đề cao ý thức trách nhiệm chính trị trước nhân dân. Người cho rằng: Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi.
Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trên tinh thần dân chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân dân cần Nhà nước để lãnh đạo và tổ chức lực lượng xây dựng, phát triển đất nước. Mặt khác, Nhà nước phải dựa vào mọi nguồn lực của nhân dân để phục vụ nhân dân. Trong tư tưởng của Người, nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước phát huy dân chủ đến cao độ mới động viên được tất cả các lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời, phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh việc đề cao dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu rõ vai trò của chuyên chính: Chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là chuyên chính với ai? Dân chủ là của quý báu của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại... Có dân chủ thì cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn dân chủ. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào cả nước và toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định tính hợp pháp của Chính phủ lâm thời. Sau đó, Người tiến hành xây dựng Hiến pháp dân chủ, tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Cũng vào năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng đến việc xây dựng luật pháp, quản lý đất nước bằng luật pháp và làm cho luật pháp có hiệu lực trong thực tế. Theo Người, trong Nhà nước dân chủ nhân dân, dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau, bảo đảm cho chính quyền hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Một nội dung rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là tập trung xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân. Để xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải được đào tạo chính quy, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ quản lý hành chính ở tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 197 thành lập Ban Pháp lý học tại Trường Đại học Việt Nam; năm 1950, ký Sắc lệnh số 76 ban hành “Quy chế công chức” để bảo đảm công bằng trong thi tuyển, bổ nhiệm vào ngạch bậc hành chính. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam.
Bên cạnh việc tập trung xây dựng thể chế quản lý đất nước thông qua pháp luật, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chú ý đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ giác ngộ và chấp hành pháp luật của nhân dân, nhấn mạnh sự nêu gương của đội ngũ thực thi pháp luật. Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc (tháng 1 -1946), Người căn dặn: Các bạn là những người thi hành pháp luật, lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao tấm gương “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư!”.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đến thăm, tặng quà một số gia đình chính sách, hộ nghèo và nói chuyện với cán bộ, nhân dân thôn Thượng Hải, xã Thạch Hải (tỉnh Hà Tĩnh)_Ảnh: Tư liệu
Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong việc củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân ở Việt Nam
Trong gần 35 năm đổi mới, tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được vận dụng sáng tạo để củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Vấn đề thực hành dân chủ, tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được một số kết quả quan trọng.
Thứ nhất, thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bảo đảm sự gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân từng bước được tiến hành một cách đồng bộ, toàn diện.
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”(7). Theo đó, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã chế định hóa đầy đủ về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng thời chế định thêm một số quyền mới như: Quyền sống (Điều 19); các quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ hoạt động đó (Điều 40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Khoản 2, Điều 17). Với tư cách là một bộ phận cấu thành nên bộ máy quyền lực nhà nước, Quốc hội, đại biểu Quốc hội trở thành cầu nối gắn kết chặt chẽ mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Do đó, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước” (Khoản 1, Điều 79)(8). Bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý của Nhà nước không chỉ được khẳng định trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong các luật(9).
Chính phủ với tư cách là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp”, cơ quan hành chính cao nhất và là cơ quan chấp hành của Quốc hội đã chú trọng đề cao tính dân chủ và tính pháp quyền trong điều hành, hướng đến xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Trong gần 35 năm đổi mới, Chính phủ tập trung đổi mới, cải cách thể chế, bộ máy, công chức và tài chính công theo hướng dân chủ, khoa học, hiện đại, chuyên nghiệp. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và giai đoạn 2011 - 2020 đã được tiến hành nhằm xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, văn minh. Theo đó, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành(10); đồng thời, Chính phủ từng bước đổi mới phương thức hoạt động, chuyển từ cơ chế quản lý bằng mệnh lệnh, cơ chế xin - cho sang quản lý bằng pháp luật, đề cao trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Thứ hai, sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị và quản lý nhà nước ngày càng gia tăng.
Trên cơ sở triển khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tổ chức vận động nhân dân tham gia tích cực vào việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, không ngừng đổi mới phương thức, nội dung giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Các luật về tổ chức chính trị - xã hội, như Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... đã cụ thể hóa vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội được quy định trong Hiến pháp đối với công việc quản lý nhà nước, giám sát và phản biện xã hội, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thông qua Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11-5-1998, của Chính phủ “Về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày 08-9-1998, của Chính phủ, về “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan”, Chính phủ đã bổ sung thêm cơ sở pháp lý để phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đi vào cuộc sống. Như vậy, thông qua các thể chế pháp luật và các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân ngày càng tích cực, chủ động tham gia vào công việc của Nhà nước, đóng góp trí tuệ, nhân tài, vật lực để xây dựng Nhà nước vững mạnh, bảo đảm sự gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân dân.
Thứ ba, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có sự phát triển đồng bộ cả về năng lực và phẩm chất, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ năng lực và phẩm chất tham gia vào bộ máy quản lý nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18-6-1997, về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 9 khóa X ban hành Kết luận “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”. Gần đây nhất, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII ban hành Nghị quyết “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức gần đây đã bổ sung, làm rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức và viên chức trong việc thực hành công vụ, đưa ra những quy định tăng cường kỷ luật đối với công chức, viên chức, xóa bỏ quan niệm “hạ cánh an toàn” của cán bộ, công chức về hưu mắc sai lầm, khuyết điểm trước đó, cán bộ, công chức tham nhũng bị buộc thôi việc; xóa bỏ chế độ “biên chế suốt đời” với viên chức; công khai kết quả đánh giá cán bộ, công chức tại nơi làm việc...
Những vấn đề đặt ra:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta có thể nhận thấy một số vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết như:
Một là, nhận thức về vai trò, địa vị của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn chưa đầy đủ và toàn diện. Quyền tiếp cận thông tin của nhân dân được luật hóa; tuy nhiên, trong nhiều lĩnh vực hoạt động cũng như ở một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương, vấn đề minh bạch hóa thông tin, nhất là trong công tác tổ chức cán bộ, thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ, công khai hóa các dự án để đấu thầu, minh bạch hóa tài sản và thu nhập cá nhân, quản lý tài nguyên, môi trường, quản lý tài chính công vẫn còn hạn chế. Trách nhiệm giải trình và xử lý sau giải trình thông qua các kỳ họp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp cho thấy hiệu quả chưa cao, chưa đồng bộ. Vai trò kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và vai trò phản biện, giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Các phương thức thực hiện quyền làm chủ trực tiếp còn hạn chế. Vấn đề “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” còn bất cập. Hơn nữa, vấn đề quan tâm đến việc hưởng thụ các thành quả lao động sáng tạo của nhân dân còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội, lợi ích nhóm gia tăng, nguy cơ nghèo và tái nghèo tiềm ẩn cao.
Hai là, khoảng cách giữa việc ban hành luật pháp và thực hiện luật pháp chưa được rút ngắn. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa qua, độ chênh giữa việc ban hành và thực hiện pháp luật còn có khoảng cách khá rõ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do người dân chưa nhận thức rõ được vai trò của từng văn bản quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành liên quan trực tiếp đến cuộc sống của họ.
Ba là, thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật còn nhiều bất cập. Trên thực tế, tình trạng “vừa thiếu dân chủ”, “vừa thiếu kỷ cương” chậm được khắc phục. Trong hoạt động của cơ quan nhà nước, còn không ít các biểu hiện mất dân chủ hoặc dân chủ cực đoan; việc thực hành dân chủ ở nhiều nơi, nhiều lúc còn mang tính hình thức, thực hiện pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan công quyền chưa được quy định rõ ràng, thực hiện chưa nghiêm. Còn thiếu các chế tài bảo đảm thực thi dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật.
Bộ đội giúp dân chống lũ ở đồng bằng sông Cửu Long_Ảnh: Tư liệu
Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong việc củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong thời gian tới
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là một tài sản có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn cần được học tập, vận dụng và triển khai nghiêm túc trong toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước và xã hội, tạo động lực tinh thần mạnh mẽ để xây dựng, phát triển bền vững đất nước.
Thứ hai, tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ ở cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Quán triệt quan điểm của Đảng trong xử lý các vi phạm pháp luật theo nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Thực hiện nhất quán chủ trương thực hành dân chủ một cách đồng bộ và toàn diện; phát huy tinh thần tích cực, chủ động của nhân dân trong việc tham gia thực hành dân chủ, tham gia xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Tăng cường sự gắn kết của các hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát trong các hoạt động của Chính phủ. Tập trung xây dựng chính quyền điện tử, cắt bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, khắc phục tối đa các khoảng trống dẫn đến tham nhũng, hối lộ. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, hoạt động luật sư và hỗ trợ tư pháp.
Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính, có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức, năng lực, uy tín, tính chuyên nghiệp cao, sức khỏe tốt, tận tụy phục vụ nhân dân. Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, trách nhiệm, phát huy dân chủ gắn liền với siết chặt kỷ cương, kỷ luật, khuyến khích đổi mới, sáng tạo, có khát vọng vì lợi ích chung của nhân dân, của đất nước. Cải thiện môi trường làm việc, chính sách tiền lương, nhà ở, công vụ. Kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.
Hôm thứ Ba 06/10/2020,
gã khổng lồ công nghệ Mỹ Facebook ra thông báo sẽ gỡ bỏ và cấm các tài khoản,
thông tin trên mạng xã hội của các nhóm công khai ủng hộ nhóm Qanon – nhóm hoạt
động theo học thuyết âm mưu phổ biến đã dẫn đến việc lan truyền thông tin sai lệch
trên khắp Hoa Kỳ và các quốc gia khác.
"Bắt đầu
từ hôm nay, chúng tôi sẽ xóa mọi trang Facebook, Nhóm và tài khoản Instagram đại
diện cho QAnon, ngay cả khi chúng không chứa nội dung bạo lực", Facebook
cho biết trong một bài đăng trên blog. Điều này đánh dấu sự khác biệt so với
chính sách trước đó của Facebook, vốn nói rằng các nhóm QAnon sẽ chỉ bị xóa nếu
họ kích động bạo lực.
Theo quy định
mới, Facebook sẽ xem xét một loạt các yếu tố để xác định liệu nhóm có nên bị cấm
hay không. Chúng bao gồm tên của nhóm, tiểu sử của nhóm, "phần giới thiệu",
nội dung được đăng trong nhóm hoặc bởi tài khoản Instagram.
Facebook
cũng sẽ vô hiệu hóa tài khoản cá nhân của quản trị viên các nhóm này.
QAnon là gì?
QAnon là
các nhóm hoạt động trên không gian mạng internet, do những người bí ẩn tạo ra,
chuyên phát tán về các thuyết âm mưu. QAnon phục vụ cho mục đích chính trị, nổi
lên hồi năm 2017, đến nay đã thu hút rất nhiều người tham gia, hoạt động mạnh mẽ
trên các nền tảng truyền thông lớn hơn như Facebook, Twitter…
Lý do khiến QAnon trở nên lan truyền rộng rãi nhờ có những thành
viên dùng lời lẽ, lối lập luận dễ gây lòng tin, đã làm nhiều người nếu như trước
đó còn lung lay trong suy nghĩ, thì sau đã quay ra tin tưởng tuyệt đối vào các
câu chuyện mà họ đưa ra. Các thuyết âm mưu mà nhóm QAnon phát tán có thể kể đến
như: họ cho rằng nước Mỹ đang bị cai trị bởi một “tổ chức tội phạm” bao gồm các
cựu tổng thống Bill Clinton và Barack Obama, tỷ phú George Soros và nhiều ngôi
sao Hollywood khác nhau. Nhiều thông điệp của QAnon mang tính chất bài Do Thái
và cực đoan cánh hữu. Trong số những người ủng hộ và tin theo nhóm QAnon, có khá
nhiều người thuộc cánh hữu ủng hộ Tổng thống Mỹ đương nhiệm Donald Trump. Bởi vậy,
họ đã tin vào những thuyết âm mưu vô căn cứ rằng trong nhiều thập kỷ qua, một
“tổ chức tội phạm” đã thâu tóm và lãnh đạo nước Mỹ. Theo họ, Tổng thống Trump
đang là mục tiêu chống phá của một âm mưu bí mật, song chính ông Trump là người
được giới quân đội Mỹ cử ra làm tổng thống để điều tra, bắt giam và trừng trị
“tổ chức tội phạm” trên. Xuất phát từ thuyết âm mưu này, các thành viên QAnon
đã biến các mạng truyền thông xã hội trở thành "chiến trường" đả phá
các đối thủ chính trị của Tổng thống Trump. Các hành động quá khích của các chủ
tài khoản là thành viên của QAnon hiện không còn dừng ở phạm vi không gian mạng,
mà đã trở thành một vấn nạn gây ảnh hưởng đến đời sống thực tế của nhiều người.
Một dẫn chứng khác về sự
nguy hiểm của việc lan truyền các thuyết âm mưu của nhóm QAnon là về nguồn gốc
virus corona gây bệnh COVID-19 thời gian vừa qua. Những loại thuyết âm mưu và
thông tin giả mạo liên quan đến dịch COVID-19 này đã gây ra những hệ lụy nghiêm
trọng và tồi tệ không kém gì mức độ hủy diệt của con virus gây chết người này.
Kể từ khi dịch bệnh này xuất hiện, QAnon tung tin lan tràn lan các thông tin
sai sự thật về nguồn gốc của virus corona và cách để bảo vệ bản thân khỏi loại
virus này. Những thuyết âm mưu liên quan đến virus corona được lan truyền trên
mạng có thể kể đến như: virus corona thuộc sở hữu của Bill Gates và được phát
tán vì những mục đích đáng ghê tởm; hay khuyên mọi người uống chất tẩy trắng để
diệt virus corona; hay thuốc trị sốt rét hydroxychloroquine là "thuốc chữa"
COVID-19 và khẩu trang hoàn toàn không cần thiết; hoặc cho rằng virus corona là
một vũ khí sinh học…
Facebook thẳng
tay thanh trừng
Đến ngày
19/8, Facebook cho biết mạng xã hội này đã xóa 790 nhóm QAnon,
hạn chế 1/950 nhóm, 440 trang và hơn 10.000 tài khoản liên quan tới các thuyết
cực hữu. Đây là hành động mạnh mẽ nhất của Facebook đối với các nhóm cực đoan
trên mạng.
Tuy nhiên,
có thể thấy, với nền tảng “dễ dãi”, Facebook vô hình chung đã “nuôi dưỡng”
QAnon phát triển một cách nhanh chóng, dẫn đến những hệ lụy nguy hiểm vô cùng
trong thực tế xã hội. Việc Facebook gỡ bỏ và cấm tuyệt đối các nhóm QAnon có thể
nói là hơi muộn màng, nhưng ít ra Facebook cũng đã biết nhận ra tác hại của các
nguồn tin giả, tin thất thiệt trên mạng xã hội gây ra.
Hơn nữa, các nhóm tung tin,
lan truyền tin giả trên mạng xã hội không chỉ có QAnon, đặc biệt hiện nay có rất
nhiều nhóm phản động, cực đoan thường xuyên phát tán thông tin sai lệch nhằm
phá hoạt an ninh chính trị xã hội của các nước, Facebook cần phải có chiến lược
hoạt động mạnh tay hơn nữa, loại bỏ tất cả các nhóm, tài khoản, trang… hoạt động
núp bóng trên nền tảng Facebook kiểu này, để tạo ra một mạng xã hội sạch, góp
phần vào việc duy trì sự ổn định xã hội của toàn thế giới.