Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam là một trong những nội dung cơ bản, trọng tâm, xuyên suốt hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về xây dựng Đảng nói riêng; thể hiện sự đúng đắn, nhạy bén, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua đó, góp phần tạo nền tảng tư tưởng, cơ sở khoa học để Đảng ta quán triệt, vận dụng trong công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, bảo đảm cho Đảng ta luôn xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, nhân tố có ý nghĩa quyết định để cách mạng thắng lợi.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Sau gần 10 năm bôn ba tìm đường cứu nước (1911-1920), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước đúng đắn - đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, mở đường cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và phát triển mạnh mẽ, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và vận dụng sáng tạo luận điểm chủ nghĩa Mác-Lênin: “Cách mạng vô sản chỉ có thể giành thắng lợi khi có Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo”, ngay từ rất sớm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định vai trò to lớn, có ý nghĩa quyết định bởi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Vấn đề này được Người tiếp tục khẳng định: “Muốn thắng lợi, thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo. Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh; chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên quyết cách mạng; làm cho quần chúng tin chắc cách mạng nhất định thắng lợi. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng. Trên thực tế, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là kết quả tất yếu của quá trình chuẩn bị đầy đủ của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, vừa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất, ngay từ đầu đảm đương sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và có đường lối cách mạng đúng đắn; là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; có khả năng đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng, hợp thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Cũng từ đó, cách mạng Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, vượt qua bao nhiêu sóng gió, ngày càng tỏ rõ là lực lượng lãnh đạo tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Qua thực tế lãnh đạo các phong trào cách mạng, Đảng càng tỏ rõ phẩm chất, năng lực, uy tín cầm quyền. Đó cũng là minh chứng cho luận điểm vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo. Như Người đã nhấn mạnh: “Đảng ta có cơ sở khắp cả nước, Đảng đã thu hút những người cách mạng nhất, ưu tú nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng có chính cương, đường lối đúng. Đảng lãnh đạo toàn dân đoàn kết kháng chiến, tranh được nhiều thắng lợi”.
Dưới ánh sáng của đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, Đảng ta đã vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành các cao trào cách mạng rộng lớn, chuẩn bị thực lực cách mạng, nắm bắt thời cơ, chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Đây là thành quả rực rỡ đầu tiên của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã lật đổ ách thống trị của đế quốc, phát xít cấu kết với giai cấp địa chủ phong kiến, thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(5). Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi vẻ vang của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, qua đó vai trò lãnh đạo của Đảng ta tiếp tục được khẳng định rõ rệt hơn: “Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến suốt chín năm và đã thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.
Đặc biệt, bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh quốc tế phức tạp, tình hình kinh tế, xã hội nước ta còn nhiều khó khăn. Song với sự trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, Nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng, khắc phục được hậu quả chiến tranh để lại, kinh tế - xã hội từng bước phát triển, đời sống Nhân dân từng bước được cải thiện, quan hệ quốc tế không ngừng được mở rộng, quốc phòng, an ninh được tăng cường, sức mạnh tổng hợp của đất nước tiếp tục được giữ vững và phát triển, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó càng khẳng định một cách sinh động và thuyết phục hơn sự đúng đắn trong thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Qua 36 năm tiến hành đổi mới đất nước, chưa bao giờ thế và lực của cách mạng Việt Nam, của đất nước ta lại lớn mạnh như ngày nay. Chưa bao giờ đại đa số Nhân dân Việt Nam lại có được cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc như ngày nay. Những thành tựu đạt được là “rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới… Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó yếu tố hết sức quan trọng là Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường, củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trong thời gian qua “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ cao cấp của Đảng sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… điều này đã và đang đe dọa sự tồn vong của Đảng, làm lung lay vai trò lãnh đạo của Đảng, vô hình chung trở thành cái cớ để các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền tìm mọi cách xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong khi đó, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn, nhất là thủ đoạn dùng chiêu bài đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hòng từng bước hạn chế, đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội... Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc, cụ thể hóa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, trên cơ sở đó xác định rõ những vấn đề đặt ra trong tình hình mới có ý nghĩa rất quan trọng và cấp thiết.
VẬN DỤNG ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Một là, kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao bản lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng lãnh đạo cách mạng, trước hết phải xác lập được đường lối chính trị đúng đắn. Đó là nhân tố quan trọng để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, điều kiện tiên quyết đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo. Muốn lãnh đạo được phải hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin”. Đó là nguyên tắc, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá bản chất giai cấp công nhân của Đảng, là thước đo bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong toàn bộ công tác tư tưởng, lý luận của chúng ta. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nghiên cứu quá trình phát triển của Đảng ta cho thấy, khi bản lĩnh chính trị của Đảng vững vàng, kiên định, năng lực tổ chức thực tiễn giỏi thì cách mạng phát triển thuận lợi và giành thắng lợi, kể cả những thời kỳ lịch sử nhiều khó khăn thử thách như giai đoạn năm 1932-1935, Đảng ta đã nhanh chóng khôi phục và phát triển phong trào; thời kỳ năm 1945-1946, cách mạng nước ta nhanh chóng ra khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, hai cuộc kháng chiến trong tình thế lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, Nhân dân ta vẫn giành được thắng lợi oanh liệt. Những kỳ tích đó là do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, có năng lực tư duy sáng tạo và năng lực tổ chức thực tiễn tài giỏi. Mặt khác, lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng cũng chứng minh, khi nào Đảng ta chậm đổi mới tư duy, giáo điều, rập khuôn máy móc trong vận dụng lý luận hoặc kinh nghiệm nước ngoài, lúc đó cách mạng gặp khó khăn tổn thất. Do đó, “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra”.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ.
Xây dựng Đảng về tư tưởng là xây dựng, bảo vệ nền tảng của Đảng, nâng cao trí tuệ của Đảng. Theo đó, Đảng nhất thiết phải là một tổ chức tiêu biểu về trí tuệ của dân tộc. Đảng phải là lực lượng đủ trí tuệ để giải quyết kịp thời những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, đưa ra những luận cứ khoa học và cách mạng làm đường hướng cho sự phát triển của đất nước, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần “tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Mặt khác, phải biết phát huy trí tuệ của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Trí tuệ của Đảng phải thể hiện ở năng lực cầm quyền, năng lực lãnh đạo sáng suốt, cùng năng lực dự báo các khả năng và triển vọng phát triển của đất nước, của quốc tế.v.v.
Xây dựng Đảng về chính trị được biểu hiện tập trung ở đường lối, chủ trương và hệ thống nghị quyết của Đảng phải mang tính khoa học, tính thực tiễn cao để lãnh đạo đất nước đi lên. Xây dựng Đảng về chính trị còn được biểu hiện ở mục đích và lập trường của một đảng cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn chúng ta không bao giờ được quên rằng, mục đích cuối cùng của Đảng là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Lập trường kiên định của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ là sự thấm nhuần những tư tưởng trên để xây dựng bộ máy Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; là xây dựng văn hóa tự phê bình và phê bình, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; kỷ luật nghiêm minh, tự giác, góp phần tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ; quản lý chặt chẽ đảng viên. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành hình mẫu, nét đẹp của “văn hóa công vụ”, “văn hóa trách nhiệm”, xứng đáng với vị trí vừa là người lãnh đạo xã hội, vừa là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Theo đó, xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ phải coi trọng cả về số lượng và chất lượng; lựa chọn được những người ưu tú nhất từ quần chúng vào Đảng, phải thường xuyên chọn lọc, sàng lọc đảng viên một cách cẩn trọng, khách quan, sa thải những người không còn xứng đáng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII chỉ rõ: “Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu”.
Ba là, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, thực hành văn hóa nêu gương, văn hóa gần dân, văn hóa trọng dân.
Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng “nền gốc” tinh thần vững chắc của Đảng, là xây dựng sức mạnh nội sinh của cách mạng. Trong đó, “gương mẫu là một nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh đạo của Đảng”. Do vậy, sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng chính là xây dựng Đảng về đạo đức. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải luôn làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, mọi việc; nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều để quần chúng noi theo.
Cùng với đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, cho Nhân dân tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng. Vì vậy, phải đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc “văn hóa gần dân, văn hóa trọng dân, văn hóa vì dân” của mỗi cán bộ, đảng viên. Có gần dân mới hiểu dân, tin dân và được dân tin yêu mến phục, cán bộ, đảng viên mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Gần dân còn là để học hỏi dân, để làm tốt chức năng cầu nối giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước; qua đó sẽ trọng dân và phục vụ được Nhân dân tốt hơn.
Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn, bằng giáo dục và thuyết phục chứ không phải bằng áp đặt mệnh lệnh hành chính, quan liêu. Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhưng không chuyên quyền, độc đoán, không rơi vào nguy cơ quyền lực của Đảng bị hình thức hóa. Đảng cầm quyền bằng thực quyền của Đảng, bằng chuẩn tắc dân chủ với xã hội; bằng đạo đức nêu gương vì dân, có sức mạnh tự bảo vệ từ lòng dân. Vì vậy, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Năm là, tích cực đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta phải luôn kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ cương lĩnh, đường lối, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa và Tổ quốc Việt Nam. Kiên quyết phê phán, bác bỏ những quan điểm đi ngược lại những gì thuộc về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, phải trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá đúng đắn tính chất, hiệu quả từng bước đi, từng sách lược xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới./.
ST.



Tất cả cảm xúc:
5

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là đặc biệt quan trọng. Chính quan điểm này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được bắt đầu hình thành từ khi Nguyễn Ái Quốc phát hiện ra đường lối giải phóng dân tộc, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội. Từ đó, trong cuộc đời cách mạng phong phú vừa đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ hơn.
Con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là trong quá trình nhận thức và chuyển biến tư tưởng từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc. Đó là từ: lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc; phương diện đạo đức; và, từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Chính từ các cách tiếp cận này đã tạo nên bản sắc đặc thù về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có các điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất về bản chất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, nhưng được Việt Nam hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; Thứ hai, tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội lại rất phong phú và đa dạng; Thứ ba, chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tới đó là chủ nghĩa xã hội thực tế, gần gũi với đời sống, vì con người, do con người và cho con người; Thứ tư, chủ nghĩa xã hội theo Người là dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, thấm nhuần truyền thống văn hóa dân tộc và kết tinh những giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại.
Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người cũng có một quá trình hình thành và phát triển hoàn thiện. Thật vậy, chẳng hạn về những quan niệm cụ thể như: chủ nghĩa xã hội là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội ra sao? Chỉ từ năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chủ nghĩa xã hội đã trở thành mục tiêu trực tiếp, Hồ Chí Minh mới có điều kiện đi sâu nghiên cứu.
Với câu hỏi, chủ nghĩa xã hội là gì, Người đã giải thích một cách vắn tắt như sau: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”; “Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do.”; "Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom"; "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội là trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, được học hành"; "Chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng"; "Chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ" …
Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo cách của riêng mình đã chỉ rõ "Chủ nghĩa xã hội là gì?". Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Người, đó là xã hội do nhân dân lao động làm chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, là xã hội dân giàu, nước mạnh; một xã hội luôn chăm lo đến lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi người; nơi kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội; nơi giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ; nơi mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người; hạt nhân lãnh đạo của xã hội ấy là Đảng cộng sản - Đảng của giai cấp công nhân, theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội ngày càng được thể hiện rõ cả về lý luận và thực tiễn. Những điểm chung đó là: chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ xã hội dân chủ, do nhân dân làm chủ; là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ; là xã hội dân giàu, nước mạnh, nền kinh tế phát triển cao với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; là một xã hội phát triển cao về văn hóa và đạo đức con người; là một xã hội được xây dựng theo nguyên tắc công bằng, hợp lý; là do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên và dưới sự lãnh đạo của Đảng; là các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tự bản chủ nghĩa (thời kỳ 1920-1945)
Trong tác phẩm Con đường dẫn tôi đến với chủ nghĩa Lênin (1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Trước đó, vào các năm 1923 - 1924, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Vậy là, sau khi đọc Luận cương của Lênin, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành nên quan điểm: cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “… tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư bản dân quyền C.M và thổ địa C.M để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, theo Người, mục tiêu cao nhất của con đường cách mạng vô sản là “đi tới xã hội cộng sản”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam (thời kỳ 1945-1954)
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thành quả lớn nhất của cuộc cách mạng Tháng Tám là tuyên bố sự ra đời của chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân: “Cách mạng là tiêu diệt những cái gì xấu, xây dựng những cái gì tốt. Chúng ta làm cách mạng để tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến, để xây dựng dân chủ mới”.
Tuy nhiên, khi khẳng định Cách mạng Tháng Tám khai sinh chế độ dân chủ nhân dân thì một vấn đề nảy sinh: mục tiêu tổng quát của cuộc cách mạng mà toàn thể nhân dân Việt Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một cách rõ ràng là “chế độ cộng sản”, là “xã hội cộng sản”, vậy tại sao sau khi cách mạng thành công lại không bắt tay thực hiện ngay mục tiêu ấy mà lại phải trải qua xây dựng chế độ dân chủ nhân dân? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ nhân dân không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa, song đó là chế độ xã hội hướng tới xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ ra đời từ chế độ dân chủ nhân dân.
Năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tức là bắt tay “xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội”, song đây là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng chế độ dân chủ nhân dân. Từ 1945, Người luôn khẳng định chế độ ta là chế độ dân chủ nhân dân, đặc biệt là về phương diện chế độ chính trị. Trong những năm 1954-1955, Hồ Chí Minh nhiều lần nói rõ: “chế độ của ta là chế độ dân chủ”, hay “nước ta là nước dân chủ”. Đến những năm 1964 - 1965, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục khẳng định “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chế độ dân chủ nhân dân được tuyên bố ra đời và tồn tại hiện thực. Với chế độ dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
Thứ nhất, mục tiêu “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” là mục tiêu nhất quán của cách mạng Việt Nam, song ở trình độ phát triển của xã hội Việt Nam, chế độ xã hội có thể thực hiện được mục tiêu ấy trước hết phải là chế độ dân chủ nhân dân. Thứ hai, ở Việt Nam, những mầm mống của chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa sẽ nảy sinh và phát triển trong lòng chế độ dân chủ nhân dân.
Theo Người, bước chuyển từ chế độ dân chủ nhân dân lên chế độ xã hội chủ nghĩa là bước chuyển về chất, và chuyển dần dần, “không thể một sớm một chiều”...
Như vậy, quan hệ của chế độ dân chủ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan hệ giữa hai giai đoạn trong quá trình vận động của xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa là giai đoạn phát triển cao hơn chế độ dân chủ nhân dân. Đây là sự vận động, phát triển đặc thù của xã hội Việt Nam, vừa phù hợp, vừa không hoàn toàn trùng khớp với lôgic vận động chung của lịch sử toàn nhân loại.
Khi nói về con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Tiến thẳng hiểu theo nghĩa là không phải “kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, song để tiến tới chủ nghĩa xã hội, chúng ta nhất định phải “kinh qua” một thời kỳ phát triển, đó là chế độ dân chủ nhân dân. Xây dựng chế độ dân chủ nhân dân không chỉ là quá trình từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, mà còn là quá trình từng bước các mầm mống của chủ nghĩa xã hội phát triển. Rõ ràng, đối với Hồ Chí Minh, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân là một tất yếu lịch sử trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (thời kỳ 1954-1969)
Sau năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Từ khi kháng chiến thắng lợi và hòa bình lập lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng dưới chế độ dân chủ nhân dân, đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là thời kỳ Người trực tiếp bàn nhiều về vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Tính tất yếu của việc lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh luận giải trên mấy phương diện sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là tương lai của xã hội loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”;
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tích cực, là nhân sinh quan của chủ thể hành động - những người cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chế độ cộng sản là ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang. Trừ những bọn phản động quá sá, thì chắc ai cũng tán thành chế độ cộng sản”;
Thứ ba, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành xu thế phát triển của lịch sử không thể đảo ngược. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Những thắng lợi bước đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phép chúng tôi tin tưởng chắc chắn ở sự cần thiết và khả năng của một nước như nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách thắng lợi không phải qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Trên cơ sở nhận thức quy luật chung của lịch sử nhân loại và đặc điểm riêng của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta”.
Về thời kỳ quá độ, Người nói: “Một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng”.
Trên đây, là một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên thực tế, các luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về vấn đề này rất phong phú, đa dạng và còn những nội dung chưa được khái quát ở đây.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa được Người trình bày một cách khái quát nhất trong Diễn văn khái mạc lớp học lý luận khoá I trường Nguyễn Ái Quốc. Thay lời kết, xin trích ý kiến của Người: “Ở miền Bắc, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải dần dần tập thể hóa nông nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc. Chúng ta lại phải tiến hành những nhiệm vụ đó trong những điều kiện đặc biệt của nước ta, nghĩa là trên cơ sở của một xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu và trong hoàn cảnh nước ta đang bị chia cắt làm hai miền. Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta. Như thế là phải học tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết là của cán bộ cốt cán của Đảng”./.
ST.


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN

Thuật ngữ "nhà nước kiến tạo phát triển" chưa được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến lúc sinh thời, tuy nhiên, vấn đề kiến tạo (kiến thiết) phát triển đất nước (quốc gia) đã được Người đề cập nhiều với các khía cạnh khác nhau trong các tác phẩm, bài viết và bài nói của mình.

Điều này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển nhằm thực hiện mục tiêu "dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đó chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm thực hiện trong suốt cuộc đời cách mạng của mình.
Nói đến nhà nước kiến tạo phát triển là nói đến vai trò trung tâm của Nhà nước trong việc kiến tạo các đường lối, chủ trương, chính sách, tạo môi trường, điều kiện để mọi cá nhân, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có thể phát huy năng lực, sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và cho cả dân tộc. Trong hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua một quá trình tìm tòi, khảo nghiệm sâu sắc nhiều cuộc cách mạng để xác định một thể chế nhà nước thích hợp. Đó là nhà nước kiểu mới có sự thay đổi hoàn toàn về chất so với tất cả các kiểu nhà nước từng có trong lịch sử nước nhà, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân. Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng hoàn toàn chủ động trong việc thiết kế chiến lược phát triển đất nước với đường lối "kiến quốc" trên tất cả các lĩnh vực. Người đã xác lập các cơ sở, nền móng pháp lý tổ chức, hoạt động của một nhà nước liêm khiết, kiến tạo và hành động vì nhân dân. Các cơ sở pháp lý đó là nền tảng tư tưởng để tổ chức, xây dựng, hoàn thiện nhà nước qua các giai đoạn cách mạng của dân tộc.
Nhà nước kiến tạo phải đảm bảo dân là chủ của nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh "Dân là gốc của nước", "nước lấy dân làm gốc" là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức, xây dựng nhà nước. Do vậy, sau khi lãnh đạo toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám "long trời, lở đất", Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay ngay vào xây dựng một nhà nước theo tinh thần dân chủ, tiến bộ "Nhà nước dân chủ, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Quan trọng nhất là nhà nước đó phải do nhân dân bầu ra bằng cuộc bầu cử dân chủ. Với quyết tâm đó, ngay trong những năm tháng đầu tiên của chính quyền nhân dân, dù biết bao công việc đặt ra đối với chính quyền non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên định chủ trương Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu trong cả nước, để cho nhân dân được thực hiện quyền lợi thiêng liêng của mình. Đây là lần đầu tiên, sau hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và gần một trăm năm dưới ách thống trị thực dân, người dân Việt Nam được tự do lựa chọn những người có đủ tài, đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong điều kiện "thù trong, giặc ngoài" đe dọa, nhưng nhân dân ta đã tiến hành Tổng tuyển cử thành công, bầu ra Quốc hội; Quốc hội đã cử ra Chính phủ - một Chính phủ thực sự của nhân dân.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển là ở chỗ Chính phủ, các cơ quan công quyền là công bộc của dân, các cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng". Đã là một nước dân chủ, thì mọi lợi ích đều là của dân, mọi phấn đấu của Chính phủ, của cán bộ đều vì dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Do đó, "quyền hành và lực lượng" của nhà nước đều ở nơi dân.
Mặt khác, Chính phủ do dân bầu ra, dân có quyền bãi miễn Chính phủ, nếu Chính phủ không làm tròn phận sự, không xứng đáng với niềm tin của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ", "Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa".
Nhà nước kiến tạo còn có một nội dung quan trọng là nhân dân có quyền tham gia công việc quản lý nhà nước; sao cho các quyết định của cơ quan nhà nước đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân; phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Mọi nguồn lực mà nhà nước có để hoạt động đều được huy động từ dân. Theo Người, nhà nước của dân, do dân làm chủ phải là nhà nước luôn luôn đặt dưới sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân. Sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước không có nghĩa là bó buộc nhà nước, là nhân dân không tin vào nhà nước; trái lại là để nhà nước ngày càng trưởng thành và lớn mạnh hơn, luôn giữ vững được bản chất cách mạng của mình. Có thể coi đây là tư tưởng độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải là nhà nước "phục vụ quyền lợi nhân dân"
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước lấy sự tự do và hạnh phúc của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của mình. Nhà nước không có mục đích tự thân nào, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, theo phương châm: việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra yêu cầu: Chính phủ là công bộc của dân; các công việc của Chính phủ làm phải nhằm mục đích duy nhất là đem lại tự do, hạnh phúc cho con người; Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi của nhân dân trên hết thảy. Do vậy, ngay sau khi giành được độc lập, đứng trước muôn vàn khó khăn, nhất là nạn đói đang hoành hành, đe dọa trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân, nhưng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách để cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý và bất công của chế độ cũ; đồng thời, phát động phong trào tăng gia sản xuất, khôi phục sản xuất, kinh doanh các ngành kinh tế, giao thông vận tải, v.v. Những thay đổi trong chính sách kinh tế đó thực sự là vì lợi ích dân tộc, bước đầu góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tạo thêm niềm tin tưởng của toàn dân đối với Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ.
Đi đôi với việc giải quyết nạn đói, xây dựng nền kinh tế độc lập, phục vụ lợi ích nhân dân, Chính phủ cũng đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục, trước hết là chống "giặc dốt". Theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, sắc lệnh để xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam mới, theo nguyên tắc: "Đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân tộc".
Bên cạnh xây dựng nền giáo dục mới, Chính phủ nước Việt Nam còn xây dựng các thiết chế văn hóa mới, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phục vụ để đem lại đời sống tinh thần phong phú cho nhân dân, đảm bảo được quyền hưởng thụ văn hóa của nhân dân... Có thể nói, những chính sách lớn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi giành được chính quyền đã mang đầy đủ ý nghĩa xây dựng một xã hội mới. Một xã hội trong đó người dân không chỉ có cơm ăn áo mặc mà còn được hưởng các quyền tự do dân chủ, các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Một xã hội không chỉ quan tâm đến mức sống mà còn quan tâm tới chất lượng cuộc sống. Một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ, đạt tới mục tiêu tự do hạnh phúc cho con người.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải tạo ra được cơ chế, chính sách khuyến khích để các nguồn lực của xã hội được đầu tư cho mục tiêu phát triển.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng một nhà nước kiến tạo cần phải lấy sự ấm no, hạnh phúc của người dân, sự thành công của các doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước làm phương châm hành động của mình. Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 13/3 đến ngày 21/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay... Tất cả phục vụ sản xuất. Tất cả chúng ta, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào, đều phải góp sức làm cho sản xuất phát triển... Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình".
Những năm 70 của thế kỷ XX đã chứng kiến làn sóng cải cách, chuyển đổi từ chính phủ quản lý truyền thống sang "chính phủ kiến tạo phát triển" hoặc "chính phủ doanh nghiệp" phù hợp với xu thế toàn cầu hóa được các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Ca-na-đa... đề xướng và thực hiện. Nhưng trước đó hơn 20 năm, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 01/01/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất triết lý chính phủ doanh nghiệp: "Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, hay bỏ, món gì đáng tiêu, người nào đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận". Triết lý này có vai trò định hướng trong hoạch định chính sách kinh tế và điều hành hoạt động của chính quyền các cấp trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh.
Theo triết lý đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương Chính phủ cần tạo môi trường cho doanh nghiệp và người dân khởi nghiệp để công tư đều lợi, kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Trong cuốn "Thường thức chính trị" xuất bản năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế, thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đường, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho giới công thương và các giới khác. Người cho rằng, quyền tư hữu tài sản của công dân được bảo đảm và Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của những người lao động riêng lẻ. Trong Thư gửi các giới Công Thương Việt Nam, Người khẳng định Chính phủ tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh và người dân làm ăn thuận lợi trong công cuộc ích nước, lợi dân: "Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công - Thương nỗ lực và khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập vào "Công - Thương cứu quốc đoàn" cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân". Điều này đã tác động tích cực đến việc huy động các nguồn lực và tiềm năng to lớn của Nhân dân trong xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước, đồng thời thể hiện tầm chiến lược sâu sắc, cách nhìn biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của nhà nước.
Nhà nước kiến tạo phát triển phải là nhà nước pháp quyền
Để thực sự nhà nước là kiến tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ là phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước hợp pháp và hợp hiến, được nhân dân tổ chức nên thông qua tuyển cử, được xây dựng và hoạt động theo các nguyên tắc của Hiến pháp. Nó không phải là vũ khí của giai cấp công nhân thống trị xã hội, dùng để trừng trị các giai cấp khác, nó cũng không phục vụ lợi ích cho riêng một tầng lớp người nào, mà nó phục vụ lợi ích của toàn dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý quan trọng nhất là bằng Hiến pháp và pháp luật. Muốn vậy, trước hết, cần làm tốt công tác lập pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện đại. Ở cương vị nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai lần tham gia Ủy ban soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước và pháp luật cũng như nhiều văn bản dưới luật khác. Trong bối cảnh đất nước vừa kháng chiến vừa kiến quốc, sự ra đời của hệ thống luật pháp thể hiện rất rõ nỗ lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác lập pháp.
Cùng với công tác lập pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, rất quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng đến vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng một Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người hướng tới điều thiện làm căn bản. Cho nên, ngay khi thành lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ngay lập tức tuyên bố xóa bỏ mọi luật pháp hà khắc của chính quyền thực dân phản động. Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở quan điểm xử lý các hành vi phạm pháp. Nguyên tắc "có lý, có tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của Người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp và tình huống cụ thể mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải nghiêm túc, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai nhằm ngăn cái xấu, cái ác, phát huy cái tốt, cái thiện chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Người căn dặn: "Không xử phạt là không đúng. Song chút gì cũng trừng phạt cũng là không đúng". Chủ tịch Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng, bao dung nhưng không bao che, khoan hồng nhưng nghiêm khắc, luôn đấu tranh một cách chân thành, thẳng thắn với những khuyết điểm, sai lầm, với những hành vi phạm pháp. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo đức thấm sâu vào trong mọi quy định của pháp luật. Đó là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa "đức trị" và "pháp trị"; trong "đức" có "pháp", và ngược lại. Hành cho tốt đức cũng là hành pháp đúng đắn; hành pháp đúng cũng tức là thực thi đức tốt.
Trong bộ máy nhà nước kiến tạo phát triển, Chính phủ phải liêm khiết, hành động có hiệu quả
Muốn xây dựng được nhà nước kiến tạo, phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng một Chính phủ liêm khiết, có năng lực quản lý, điều hành đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi một Chính phủ có năng lực làm việc thì sẽ giải quyết được nhiều nhiệm vụ của nước nhà, đem lại lợi ích cho quốc gia - dân tộc, cho nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của đất nước, để đủ sức bảo vệ được chính quyền. Ngược lại, nếu Chính phủ yếu kém về năng lực thì sẽ không làm được gì cho dân, thậm chí còn làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc, khó có thể đứng vững trước khó khăn, thử thách. Mặt khác, một Chính phủ kém năng lực lại không liêm khiết thì tất yếu sẽ bị dân bãi miễn trước khi bị kẻ thù phá hoại. Cho nên, muốn bảo vệ được chính quyền thì trước hết phải chăm lo xây dựng chính quyền đó vững mạnh, một chính quyền hợp pháp, do dân cử ra, thực sự vì dân, trong sạch, liêm khiết và có năng lực thực thi công việc.
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH". Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đây là một trong sáu vấn đề khẩn cấp mà Chính phủ lâm thời phải giải quyết sau khi giành được độc lập. Được Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới, tại phiên họp ngày 31/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội: "Tuy trong quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết. Theo lời quyết nghị của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà".
Để xây dựng một Chính phủ liêm chính, hành động có hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng công tác tuyển chọn, giáo dục cán bộ có đủ tài đức, trong đó đạo đức là gốc, cán bộ nhà nước phải là những người công tâm, trung thành, có năng lực làm việc và có uy tín, chứ không chấp nhận việc tuyển dụng, đề bạt cán bộ vì tiền tài, lợi ích nhóm hay vì những lý do không chính đáng khác. Người khẳng định: "Các ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương, phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các ủy ban đó".
Muốn có một chính quyền như vậy, phải có chính sách để thu hút nhân tài tham gia vào bộ máy của Chính phủ. Ngay sau khi thành lập Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi hiền tài tham gia Chính phủ, giúp nước, giúp dân. Người cho rằng, hiền tài của đất nước không thiếu, đang tiềm tàng trong dân, chưa có điều kiện bộc lộ. Muốn thu hút được nhiều hiền tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở rộng cửa Chính phủ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính, tuổi tác. Người viết: "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức". Vấn đề là phải "khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều".
Để xây dựng được một chính quyền mạnh, có đủ khả năng để quản lý, điều hành đất nước và đủ sức mạnh để tự bảo vệ cần phải huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy sức mạnh của chính quyền không những ở sức mạnh của tổ chức bộ máy luôn được kiện toàn, mà còn chủ yếu là ở sức mạnh được huy động từ khối đại đoàn kết toàn dân. Một chính quyền biết quy tụ được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ bảo đảm cho chính quyền đó luôn được xây dựng vững mạnh và bảo vệ vững chắc, không có thế lực nào có thể đánh ngã được.
Dù chỉ duy nhất một lần tuyên bố trước Quốc hội về một Chính phủ liêm khiết, nhưng trong một phần tư thế kỷ (1945-1969), Chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng Chính phủ kiến tạo ở các giai đoạn sau. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Người đã nêu một tấm gương sáng về phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Trải qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta đã không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất. Để xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải khắc phục tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, thiếu dân chủ, ý thức pháp luật kém… của một số cán bộ nhà nước và công dân, nhằm giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Nhà nước ta phải tiếp tục cải cách nền hành chính, cải cách tư pháp, kiên quyết trừng trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi Nhà nước ta phải vận dụng, kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, sâu sắc và toàn diện hơn nữa trên các lĩnh vực, trước hết là cải cách hành chính, hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, đưa đất nước phát triển với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay. Đây có thể được coi là cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng và Nhà nước xác định đúng đắn các mục tiêu, đề ra các giải pháp thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiến tạo sự phát triển quốc gia, thực hiện điều mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"./.
ST.

HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI: QUÂN Y Ở VÙNG CAO

Trên địa bàn biên giới tỉnh Hà Giang, đội ngũ quân y ở các Đồn biên phòng gắn bó với không chỉ cán bộ, chiến sĩ, mà cả người dân địa phương. Thiếu tá QNCN Phạm Văn Vinh, quân y Đồn Biên phòng Bạch Đích, là người có gần 30 năm gắn bó với dải đất biên cương. Đồn thuộc huyện Yên Minh. Anh Vinh cho biết theo quy định thì quân y của Đồn thường khám cấp thuốc cho bà con theo lịch. Song với trường hợp bị ốm kéo dài, nhất là khi thời tiết thay đổi thường xảy ra nhiều bệnh ở người già… thì việc thăm khám, cấp thuốc cho bà con được đơn vị chỉ đạo thực hiện ngay. Chẳng thế mà đi đến đâu, người dân cũng coi anh Vinh như là người thân vậy.

Đường vào bản Muồng 5, xã Bạch Đích khá quanh co, có nhiều đoạn đường đất. Nắng ráo thì còn đỡ vất vả, còn mưa xuống, phải lội bộ mới đến được với bà con. Khi nhiệt độ xuống thấp, ông Lùng Sí Sán thường bị tăng huyết áp, đau ngực kéo dài. Được quân y của Đồn Biên phòng thăm khám, cấp phát thuốc, sức khỏe của ông Sán có tiến triển tốt. Ông kể, đồn Biên phòng rất gần gũi với bà con. Khi ốm đau, ai cũng gọi điện báo cho các anh. Bộ đội Vinh lúc nào cũng nhiệt tình, chu đáo, dân bản rất yên tâm khi được bộ đội thăm khám.
Những lúc ở Đồn, anh Vinh đảm nhiệm chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cán bộ, chiến sĩ. Anh thực hiện đầy đủ các quy định, hướng dẫn của cơ quan chức năng về chế độ, tiêu chuẩn của bộ đội. Xây dựng chương trình cụ thể, gắn với chức trách được giao, anh chủ động tham mưu giúp lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hướng dẫn việc phòng, chống dịch bệnh, không để ngộ độc thức ăn xảy ra trong đơn vị, nhất là ở những thời điểm giao mùa, đảm bảo sức khỏe cho đồng đội ngày đêm bảo vệ đường biên, cột mốc của Tổ quốc.
Ngày còn ở nhà, anh được người thân bày cách chữa bệnh bằng thuốc Nam. Giờ đây ngoài kiến thức y học, anh Vinh còn nghiên cứu các vị thuốc dân gian để chữa bệnh thông thường cho cán bộ, chiến sĩ và bà con dân bản. Anh trồng vườn cây thuốc Nam để khi cần là có để dùng ngay.
Quãng thời gian gắn bó với biên cương ngần ấy năm, anh Vinh sống xa gia đình. Chị Phạm Thị Thu Hương, vợ anh công tác tại trạm Y tế thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Quê ngoại ở xa, bố mẹ chồng đều đã khuất núi, nên mọi công việc chị đều phải chủ động sắp xếp. Cùng làm ngành y, nên anh chị đều thấu hiểu công việc và hỗ trợ nhau những khi cần. “Lương y như từ mẫu”, lời dạy đó của Bác Hồ đã giúp vợ chồng Vinh - Hương dồn sức cho nhiệm vụ mà quên đi bao vất vả, nhọc nhằn và xa cách.
Xa chồng, nhưng chị Hương luôn biết thu vén công việc gia đình, chăm sóc con cái, động viên anh yên tâm công tác. Bao năm xa cách nhưng anh chị vẫn giữ được hạnh phúc gia đình, các con chăm ngoan, học giỏi. Phần lớn công việc gia đình, nuôi dạy các con là họ trao đổi với nhau qua những cuộc gọi video call nhưng có lẽ, sự xa cách lại là động lực cho hai người phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, vun đắp gia đình ngày càng hạnh phúc./.
ST.



NHẬN THỨC SÂU SẮC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CŨNG LÀ MỘT CÁCH PHÒNG NGỪA SỰ SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ!

     Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp hiện hữu của lịch sử khi đã “trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống” và thời gian càng lùi xa, sức sống và giá trị trong tư tưởng của Người càng tỏa sáng!
Việc luận giải sức sống bất hủ của tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn, vững tin hơn vào nền tảng tư tưởng của Đảng mà tự thân những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người là sự phủ nhận hữu hiệu đối với các ý kiến lệch lạc, xuyên tạc Hồ Chí Minh của các phần tử cơ hội chính trị. Mặt khác, việc khẳng định những giá trị trường tồn trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách giúp cán bộ, đảng viên phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị và những biểu hiện lười nhác, xem nhẹ việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thế kỷ 20 đầy bão tố đã khép lại cùng với sự đóng góp của nhiều vĩ nhân, trong đó có Hồ Chí Minh. Điều làm nên sức mạnh và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là những đặc tính tiêu biểu toát lên từ tư tưởng của Người.
1. Nội dung căn cốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Khát vọng tự do là đặc tính của con người nên khi chủ nghĩa thực dân đẩy vô số dân tộc vào vòng nô lệ, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là xu thế tất yếu của thời đại. Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh trở thành đại diện của các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho quyền được làm người, quyền được sống trong bình đẳng và tự do.

Được trang bị phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin và bằng trải nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đưa ra những phát kiến ở tầm thời đại về con đường cứu nước và phương hướng dựng nước của dân tộc Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Hồ Chí Minh có hệ thống quan điểm hết sức sáng tạo về phương thức giải phóng, đó là cách mạng thuộc địa phải tiến hành một cách chủ động, sáng tạo, không thụ động trông chờ vào cách mạng chính quốc và sẽ thành công trước cách mạng chính quốc. Thực hiện tư tưởng của Người, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập, tự do mà thắng lợi của nhân dân Việt Nam còn góp phần làm tan vỡ hệ thống thuộc địa trên quy mô toàn thế giới. Vì thế, Hồ Chí Minh được mệnh danh là người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ. Nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen đã viết: “Sự nghiệp vô tư và quên mình của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nền độc lập và thống nhất của Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ nay đã làm cho Người trở thành không những là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà còn là kiến trúc sư nổi tiếng của thế giới đã thoát khỏi chủ nghĩa thực dân”.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh kết tinh những giá trị vĩnh hằng của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là Nhà văn hóa hòa bình bởi Người luôn nỗ lực giải quyết xung đột với dân tộc khác bằng con đường đối thoại văn hóa, khi buộc phải tự vệ thì Người chủ động hạn chế không gian chiến tranh ở Việt Nam để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới. Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình nhưng đó phải là hòa bình thực sự-hòa bình trong độc lập, tự do bởi đúng như Người đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là giá trị đạo đức. Một con người yêu nước, một dân tộc có lòng tự tôn sẽ không cam tâm sống cuộc đời nô lệ. Khi thế giới còn đầy rẫy sự bất công, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý lớn của thời đại.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng đoàn kết và hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”. Có thể coi đây là khởi phát của chiến lược đoàn kết quốc tế của Người. Cần nhấn mạnh rằng, chiến lược ấy ra đời không chỉ vì mục tiêu chính trị mà còn xuất phát từ tình cảm đồng loại: “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Vì trong bốn biển đều là anh em”. Tình cảm ấy ở người cộng sản Nguyễn Ái Quốc hết sức sâu đậm nên từ năm 1923, nhà thơ Xô viết Ôxip Manđenxtam đã cảm nhận: “Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy được ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”.

Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Người không ngừng giáo dục nhân dân về tình hữu nghị, về đạo lý “giúp bạn là tự giúp mình”. “Chiến tranh lạnh” đẩy các quốc gia vào thế “đối đầu” nhưng Hồ Chí Minh vẫn kiên trì khẳng định: “Các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh là người luôn tìm cách quy tụ thay cho loại trừ, luôn nỗ lực tìm ra “mẫu số chung” chứ không “khoét sâu” sự khác biệt. Với tinh thần “tìm sự thống nhất trong đa dạng”, Hồ Chí Minh không chỉ là người có tư duy quốc tế hiện đại, tinh thần khoan dung văn hóa mà còn là đại sứ của Việt Nam trên toàn cầu.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần đổi mới và hội nhập-xu thế lớn của thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh là người đặc biệt nhạy bén với cái mới. Người định nghĩa cách mạng cũng từ góc độ này: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Trung thành với Chủ nghĩa Mác nhưng Người vẫn đặt câu hỏi: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng mà còn phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng một loạt luận điểm mới, phù hợp với cách mạng Việt Nam. Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người căn dặn cán bộ tuyệt đối không được giáo điều, bảo thủ. Trong "Di chúc" để lại, mặc dù không trực tiếp sử dụng khái niệm “đổi mới” nhưng Người đã phác thảo một chiến lược đổi mới trên nét lớn và căn dặn: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Sự nghiệp đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề xướng đã trở lại đúng tinh thần đó và thành tựu do đổi mới mang lại thực sự vĩ đại. Đó là minh chứng cho khả năng dự báo chiến lược của Hồ Chí Minh. Khi thế giới đang phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có như hiện nay, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh càng trở nên ý nghĩa.

Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng cho chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ngay khi nhà nước cách mạng mới ra đời và chưa được quốc gia nào công nhận, chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư đã được Người khẳng định trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” (tháng 12-1946). Trong thương mại quốc tế, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”. Ngày nay, hội nhập quốc tế toàn diện đã trở thành xu thế tất yếu nhưng vào thập niên 1940, chủ trương của Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế với các nước có sự khác biệt về ý thức hệ và thể chế chính trị, thực sự là tư duy hết sức mới mẻ, tiến bộ.

5. Tư tưởng văn hóa-đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc mà còn để lại hình mẫu về văn hóa làm người.
Với Hồ Chí Minh, văn hóa không phải là cái gì quá cao siêu mà phải trở thành “văn hóa đời sống”, tức là văn hóa phải góp phần loại bỏ những gì lạc hậu, dốt nát, phù hoa, xa xỉ trong tập tục và nâng cao dân trí để mỗi người giải phóng hết “năng lực người” của mình.

Hồ Chí Minh rất sâu sắc khi cho rằng, việc tiếp thu văn hóa nhân loại phải song hành với việc quảng bá văn hóa dân tộc vì ngoài vấn đề lợi ích thì đó còn là sự dâng hiến theo tinh thần “mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng”. Hàm chứa những quan điểm hết sức sâu sắc, cho nên, UNESCO đánh giá: Tư tưởng Hồ Chí Minh “là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

Hồ Chí Minh còn là nhà tư tưởng đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Nói về tầm quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đạo đức là cái gốc của con người, là sức mạnh của người cách mạng và Đảng cách mạng, là điều kiện để con người vươn tới tài năng, là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của học thuyết cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cao nhất chính là suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và nhân loại.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giàu sức thuyết phục không chỉ bởi đặc tính khoa học, nhân văn mà còn vì cuộc đời “trong như ánh sáng” và sự hiến dâng trọn vẹn cho dân, cho nước của Người. Không chỉ nhân dân Việt Nam, các trí tuệ lớn của thời đại cũng đã thừa nhận: "Nói tới một con người mà cả cuộc đời mình đã để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Hồ Chí Minh". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh-mẫu mực điển hình về sự trong sáng, cao thượng, luôn hòa quyện trong nhau và có ý nghĩa thời sự rất lớn đối với một thế giới nhiều nghịch lý hiện nay.

Thế giới ngày càng giàu có và hiện đại nhưng do sự phát tác thái quá của chủ nghĩa cá nhân, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các tầng lớp và dân tộc, không ít người đã rơi vào khủng hoảng lẽ sống, niềm tin. Điều đó dẫn đến sự gia tăng bạo lực và lối sống lệch lạc của một bộ phận dân chúng. Đến mức, có người dùng cụm từ “dã man trong văn minh” để nói về thế giới hiện đại. Sinh thời, Thủ tướng Ấn Độ Nêru đã kết luận rất đúng rằng: “Thế giới ngày nay đang trải qua một cuộc khủng hoảng... Cái cần bây giờ là tiếp cận hòa bình, hữu nghị và tình bạn. Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự tiếp cận đó”. Tư tưởng nhân văn-đạo đức Hồ Chí Minh với triết lý nhân sinh “chính tâm và thân dân” sẽ đánh thức phần “thiện” trong mỗi con người, giúp họ tìm ra lẽ sống đúng đắn và cách hành xử hợp đạo lý để có được hạnh phúc đích thực.

Năm tháng trôi qua nhưng Hồ Chí Minh “không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người diệu kỳ cho tất cả mọi thời đại”. Đó là sự đánh giá xác đáng mà nhân loại đã dành cho Bác Hồ của chúng ta./.
Yêu nước ST.