Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

 

Đòi đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam - luận điệu sai lầm, lạc lõng - Bài 2: Không có lực lượng nào đủ sức thay thế sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong bối cảnh mới hiện nay, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò duy nhất lãnh đạo, thực hiện đa nguyên, đa đảng, tất yếu đất nước sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, phân tán, mất ổn định do sự đấu đá, tranh giành quyền lực giữa các đảng phái, nhóm lợi ích.

Sự kiểm chứng đúng đắn từ lý luận đến thực tiễn

Xuất phát từ luận điểm khách quan, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của chính đảng vô sản trong tiến trình cách mạng ở các quốc gia. C.Mác và Ph.Ăngghen trong học thuyết cách mạng và khoa học của mình, đã chỉ ra rằng, giai cấp công nhân là giai cấp hiện đại, cách mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội, nhưng giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi thành lập ra được chính đảng đảm đương vai trò lãnh đạo, dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân tiến hành cách mạng thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò duy nhất lãnh đạo nhà nước, xã hội, là người định hướng sự phát triển trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.

Thấm nhuần những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã xác định rằng, cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam muốn thắng lợi trước hết phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.

Thực tế lịch sử ở Việt Nam và trên thế giới đã chứng minh tính tất yếu khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các giai đoạn của tiến trình cách mạng Việt Nam. Không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò này của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi luận điểm nhằm hạ thấp hoặc muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam đều trái với điều kiện thực tế của nước ta.

Sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không phải tự nhiên mà có, nó là tất yếu của lịch sử.

Trong thời kỳ giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước đây, ngoài phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và dẫn dắt, đã có những phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc của một số hội, đoàn thể, đảng phái khác như: Duy Tân hội, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng... Tuy nhiên, những tổ chức, đảng phái này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do đường lối, mục tiêu của các tổ chức, đảng phái đó không phù hợp với xu thế phát triển của dân tộc, thời đại, không quy tụ, tập hợp được quần chúng nhân dân... nên đã không thể lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam và dần tan rã, thất bại.

Đúc rút từ sự sụp đổ của Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu vào những năm cuối của thập niên 1980, 1990 cũng cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ chế độ chính trị ở các nước này là đã từ bỏ, buông lỏng, phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, để cho các lực lượng thù địch, phản động lợi dụng, vô hiệu hóa, cướp chính quyền, đưa đất nước đi theo con đường khác khi có những biến cố về chính trị.

Đòi đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam - luận điệu sai lầm, lạc lõng - Bài 2: Không có lực lượng nào đủ sức thay thế sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
 Ảnh minh họa: TTXVN 

Đảng luôn đặt lợi ích của giai cấp, nhân dân và dân tộc lên trên hết

Bản chất, mục tiêu, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân và dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác

Các quốc gia trên thế giới đều có đảng cầm quyền lãnh đạo và nắm giữ nhà nước để tổ chức và quản lý đất nước, triển khai chủ trương, đường lối chính trị của đảng cầm quyền, thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị. Để đánh giá vai trò, khả năng lãnh đạo đất nước của một chính đảng cầm quyền cần phải dựa vào và xem xét bản chất, mục tiêu, đường lối lãnh đạo của đảng cầm quyền, đó là tiêu chí cốt lõi để đánh giá vai trò, khả năng lãnh đạo đất nước của chính đảng cầm quyền.

Về bản chất, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân và cả dân tộc. Mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam. Đảng một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự dân tộc, được nhân dân, dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình. Mục đích hoạt động, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Đảng hội tụ đủ bản lĩnh, tài năng, uy tín để lãnh đạo đất nước và xã hội

 Trong bối cảnh mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính Đảng duy nhất hội tụ đầy đủ phẩm chất, năng lực, tiêu chí để lãnh đạo đất nước, dân tộc Việt Nam phát triển.

Hiện nay, bên cạnh những cơ hội vẫn tồn tại nhiều thách thức ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam: Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước, nhất là các nước lớn diễn biến ngày càng phức tạp, có nguy cơ gây mất ổn định trên quy mô toàn cầu; chiến tranh sắc tộc, chiến tranh khu vực, xung đột tôn giáo và khủng bố quốc tế vẫn có khả năng bùng phát dưới những hình thức mới; tình hình Biển Đông có thể diễn biến phức tạp; kinh tế thế giới phát triển chậm lại, nguy cơ rơi vào khủng hoảng, suy thoái; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân túy ngày càng nổi lên... Điều đó đòi hỏi chính đảng lãnh đạo quốc gia là đoàn kết, tập hợp được quần chúng nhân dân; có tính tiên phong, cách mạng; có sức mạnh và kỷ luật tập thể; toàn tâm, toàn ý vì lợi ích chung của nhân dân, dân tộc. Ở Việt Nam hiện nay, để có được những điều kiện, nhân tố nêu trên chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ nhất, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo đất nước trong bối cảnh mới.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong giác ngộ, có tổ chức chặt chẽ nhất, Đảng hình thành nên những sức mạnh, phẩm chất nổi trội và nhờ đó lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân ta, đất nước ta vượt qua các khó khăn, thử thách trên con đường phát triển, đó là:

Sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất thành một khối vững chắc cả về chính trị, tư tưởng và hành động trong Đảng, bảo đảm sự tập trung trong lãnh đạo của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở mục đích, lý tưởng của Đảng, trên cơ sở lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, trên cơ sở phát huy dân chủ, tôn trọng ý kiến cá nhân. Sự thống nhất về tổ chức và phương thức hành động tạo ra sức mạnh lớn lao cho Đảng vượt qua được các khó khăn, thử thách.

Có tinh thần triệt để cách mạng, sức chiến đấu mạnh mẽ, được tôi luyện và ý thức kỷ luật cao, được tổ chức và hoạt động chặt chẽ, nghiêm ngặt theo tư tưởng, nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sự sẵn sàng hy sinh, chấp nhận những khó khăn, gian khổ, khả năng vươn lên không ngừng của Đảng vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới gắn bó mật thiết với nhân dân, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tin và đi theo Đảng.

Vai trò lãnh đạo của Đảng chính là trách nhiệm, nhiệm vụ cao cả mà nhân dân Việt Nam tin tưởng giao phó cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, từ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân đối với Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng là để nhân dân thực sự là người chủ đất nước, để toàn bộ quyền lực “đều ở nơi dân”. Đảng luôn có trách nhiệm với dân và tăng cường mối quan hệ máu thịt với dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng được nhân dân tin yêu, giúp đỡ, thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình, là Đảng của chính mình. Nhân dân thấy rằng lợi ích căn bản của mình gắn liền với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; mục đích, lý tưởng của Đảng cũng chính là ước mơ, nguyện vọng lâu đời của nhân dân, của dân tộc.

Đảng luôn cầu thị, không ngừng đổi mới để tự hoàn thiện

Đảng Cộng sản Việt Nam không hề bảo thủ mà luôn đổi mới, cập nhật, nhằm làm cho Đảng mạnh lên, có đường lối đúng đắn, giúp Đảng hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ đặt ra, đưa Việt Nam vượt qua các khó khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong bối cảnh mới hiện nay.

Thực tiễn đất nước và thế giới không ngừng vận động, biến đổi, rất nhiều vấn đề mới, yếu tố mới xuất hiện đòi hỏi phải được giải quyết, Đảng ta luôn tìm tòi, học hỏi, tổng kết thực tiễn để đề ra đường lối, quyết sách đúng đắn, phù hợp, Đảng luôn quan tâm đến đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để Đảng hoàn thành mọi trách nhiệm, nhiệm vụ trong các giai đoạn cách mạng, nhất là những trách nhiệm, nhiệm vụ mới nảy sinh từ thực tiễn hiện nay, để Đảng luôn giữ được bản chất cách mạng, khoa học, vì lợi ích của quần chúng nhân dân, trước sau giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chất lượng, năng lực của đội ngũ đảng viên có tính chất quyết định đối với chất lượng, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, do vậy, Đảng chú trọng kết nạp những người ưu tú vào Đảng và luôn luôn làm trong sạch Đảng, loại bỏ những phần tử biến chất, xét lại, cơ hội chủ nghĩa ra khỏi Đảng.

Đảng luôn siết chặt kỷ luật Đảng để chống suy thoái, tiêu cực và tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Đảng ta ý thức rõ rằng, một đảng duy nhất cầm quyền, bên cạnh mặt thuận lợi là cơ bản cũng chứa đựng không ít nguy cơ, mà một trong số đó là dễ quan liêu, xa rời quần chúng, dễ chủ quan... Để tránh nguy cơ đó, Đảng luôn kiên định mục tiêu đã lựa chọn, thường xuyên tự đổi mới, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức mạnh về mọi mặt, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, phong cách công tác gần gũi với nhân dân.

Như vậy, lịch sử đã chứng minh và khẳng định vai trò, sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc và nhân dân Việt Nam tiếp tục phát triển, bắt kịp xu hướng của thời đại.

Do vậy, những luận điểm sai lầm, suy diễn về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước là quan điểm phản động, sai trái, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, luận điểm này đã dựa trên những phân tích, nhận xét phi khoa học, không logic, không hệ thống và không toàn diện. Về thực tiễn, quan điểm này cũng hết sức phiến diện, quy chụp, phi thực tế khi không thấy rõ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thừa nhận những thành quả phát triển đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt hơn 93 năm qua.

 

iệt Nam không “tự mình cô lập mình” trong thực hiện chính sách quốc phòng

Đến nay, Việt Nam đã 4 lần công bố Sách trắng quốc phòng, trong đó công khai chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, nhằm mục tiêu tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận một cách vô căn cứ.

Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng, bảo vệ chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.

Việt Nam là đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược từ bên ngoài và đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, khát khao được sống trong hòa bình, độc lập; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là mong muốn, thiện chí và quan điểm nhất quán trong chính sách quốc phòng của Việt Nam.

Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực phản động, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, nhóm người tự xưng là “người yêu nước”, “tâm huyết” với vận mệnh quốc gia-dân tộc đã gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị”, viết bài tán phát với những giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Chúng cho rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các quốc gia luôn có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau, trong khi đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và chính sách quốc phòng “4 không” (không liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là “bảo thủ, lỗi thời”, “tự mình cô lập mình”, “tự trói tay, chân mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Việt Nam không “tự mình cô lập mình” trong thực hiện chính sách quốc phòng
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019. Ảnh: Tạp chí Tuyên giáo

Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ vững được chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc.

Có thể thấy mục đích sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch là nhằm dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại. Đồng thời, kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong xã hội vào khả năng bảo vệ đất nước của quốc phòng Việt Nam, tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng; từ đó gây chia rẽ, mâu thuẫn nội bộ, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, đối ngoại; cấp độ cao hơn là từ chối thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hoặc tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Soi rọi vào lý luận và thực tiễn đều cho thấy, những luận điệu trên của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của nước ta:

Về lý luận: Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “dựa vào sức mình là chính”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; kết hợp chặt chẽ sức mạnh nội lực của đất nước với sức mạnh quốc tế để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nội lực, của mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Người nói: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”; “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Đồng thời, Người căn dặn, phải luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp”; phải đặc biệt coi trọng xử lý khéo léo quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và các nước lớn, vì lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc. 

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Đồng thời: Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc.

Chiến lược quốc phòng Việt Nam năm 2018 xác định: Xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra; tham gia tích cực, trách nhiệm, hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (LHQ) và những vấn đề liên quan của cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rõ, cùng với chủ trương “4 không”, Việt Nam: “Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”.

Đồng thời, Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại...". Đồng thời: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”. 

Về thực tiễn: Trong những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra, trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên LHQ); đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực.

Đặc biệt, gần 10 năm qua, Việt Nam đã triển khai hơn 530 cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ tại các phái bộ và trụ sở LHQ ở New York (Hoa Kỳ). Việc tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả vào hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới của Việt Nam đã được LHQ ghi nhận và đánh giá cao, để lại những ấn tượng tốt đẹp với chính quyền, người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế. Hình ảnh chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam, phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới được lan tỏa rộng rãi, ghi dấu ấn tích cực và đậm nét trong lòng nhân dân, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, được bạn bè quốc tế trân trọng, quý mến.

Mặt khác, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt hiện nay, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, Việt Nam kiên định chính sách “4 không”, thêm bạn, bớt thù; tăng đối tác, giảm đối tượng, xử lý hài hòa quan hệ với các nước; thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược là lựa chọn đúng đắn, phù hợp nhất. Trong bất luận hoàn cảnh nào, Việt Nam cũng không chọn bên mà chọn lẽ phải, chính nghĩa.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, rõ ràng là những minh chứng đầy đủ, khách quan, thuyết phục nhất, thể hiện rõ mong muốn, thiện chí: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận. Đồng thời cũng vạch trần âm mưu đen tối của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.

Theo đó, để đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, làm rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam ở cả trong nước và quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; huy động tối đa các nguồn lực để tăng cường sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, phát huy vai trò “tiên phong” trong kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

 Mời các đồng chí và các bạn vào chuyên mục Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng xem các tin, bài liên quan.

Thượng tá, TS BÙI ĐÌNH TIỆP, Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử nghệ thuật Quân sự, Học viện Chí

 

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. 

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

 

Phòng, chống “diễn biến hòa bình”: Lợi dụng dựng chuyện "trống trường"...

Mấy ngày qua, câu chuyện về khai giảng năm học mới vẫn râm ran quanh bàn trà của các bác hưu trí trong xóm. Ấy là bởi, trước đó, ông Bình khẳng định rằng, năm nay cán bộ huyện về dự lễ khai giảng ở trường tiểu học của xã sẽ không dám đánh trống khai trường. Thế nhưng, chuyện lại không phải vậy!

Ông Dương chậm rãi tỏ bày:

- Đó, ông Bình ạ, tôi đã nói với ông ngay từ đầu rồi. Ông cứ xem, nghe người ta đồn thổi trên mạng xã hội, rồi suy diễn cho rằng lãnh đạo các địa phương sợ "dớp" sẽ không dám đánh trống khai trường. Rồi ông còn bảo, người ta nghĩ ra cả rô-bốt để đánh trống... giải xui. Giờ đã "hai năm rõ mười" rồi nhé. Trong lễ khai giảng, từ lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến các địa phương, ngay chủ tịch huyện ta cũng thực hiện nghi thức đánh trống chứ có sợ xui xẻo như ông nói đâu.

Phòng, chống “diễn biến hòa bình”: Lợi dụng dựng chuyện "trống trường"...
 Minh họa: KHOA AN

Ông Bình cười xuề xòa:

- À, thì tôi cũng nghe trên mạng người ta đồn vậy nên lấy câu chuyện làm quà. Còn nói thật, bản thân tôi lúc ấy cũng nghĩ, làm gì có chuyện đánh trống khai trường mà lại xui xẻo, không ai dám đánh trống, phải không các ông?

- Ông nghĩ thế là đúng đấy ông Bình ạ! Thực ra, những kẻ bất mãn chính trị luôn tìm cách nói xấu lãnh đạo, nói xấu chính quyền. Chúng âm mưu làm giảm lòng tin của người dân vào các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cán bộ các cấp hòng làm mất niềm tin của nhân dân vào chế độ, hướng tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Việc tung tin đồn nhảm cán bộ "sợ" đánh trống khai giảng chỉ là một trong nhiều thủ đoạn mà những kẻ xấu thực hiện. Ai tin vào những lời nhảm nhí, xì xào với nhau về việc này thì chính là đã vô tình tiếp tay cho kẻ xấu, vô tình truyền bá mê tín dị đoan đấy.

Ông Huy gật gù:

- Ông Dương nói chí phải, ngay từ đầu, tôi đã thấy ông Bình nói không hợp lý rồi. Tôi cũng có xem trên mạng xã hội, thấy người ta cắt ghép video, đồn thổi rằng "có dớp" đánh trống khai trường nên lãnh đạo năm nay sẽ không đánh trống. Nhưng tôi cứ chờ cho khai giảng diễn ra để thực tế sẽ chứng minh cho ông Bình và những lời đồn trên mạng xã hội là đúng hay sai. Vì thế, lúc đó tôi không tranh luận. Giờ thì đã rõ rồi ông Bình nhé, chiếc trống trường nào có tội gì và các cấp lãnh đạo cũng chẳng bận tâm gì với những thông tin xuyên tạc, nhảm nhí. Từ khi có lễ khai giảng đến nay thì hầu như ở đâu cán bộ chẳng đánh trống khai trường...

Ông Dương đồng tình, tiếp lời:

- Từ việc khai giảng lần này càng thấy, lãnh đạo các cấp vẫn luôn sẵn sàng làm việc cần làm vì nhân dân, vì đất nước chứ không phải vì cá nhân, vì sợ điều này, lo tiếng nọ mà không dám làm; lại càng không tin những luận điệu xuyên tạc, nhảm nhí. Vậy thì cánh già chúng ta phải tuyên truyền những điều tích cực đó và phản bác lại những lời bịa đặt, suy diễn nhằm chống phá đất nước, các ông ạ!

 TRẦN ANH

 

hòng, chống “diễn biến hòa bình”: Lại tuyên truyền "bẩn"!

Sau khi thủ đoạn tung những video clip dàn dựng, cắt ghép, sưu tầm từ nhiều năm trước về cảnh “đi bộ đội bị lính cũ bắt nạt hoặc phải làm việc cực nhọc” bị bạn đọc bóc mẽ, vạch trần, một số trang mạng phản động, trong đó có Việt Tân tiếp tục dùng chiêu trò khác nhằm kêu gọi thanh niên trốn tránh nhập ngũ để thực hiện âm mưu chống phá đất nước ta.

Chúng tung tin rằng: Thanh niên nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ quân sự là lãng phí mất 2 năm tuổi trẻ (!)

Nghe luận điệu tuyên truyền “bẩn” này, thấy ngay sự nham hiểm nhưng lại rất ngô nghê của những kẻ có mưu đồ đen tối. Bởi vì chúng cho rằng 2 năm nhập ngũ là lãng phí thời gian, nhưng tuyệt đại đa số người dân Việt Nam đều hiểu rõ Quân đội như trường học lớn, là môi trường rất tốt để thanh niên học tập, rèn luyện, từ đó trưởng thành hơn.

Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh, tất cả thanh niên Việt Nam sau một thời gian nhập ngũ đều có sự tiến bộ rõ rệt về nhiều mặt. Hầu như ai hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cũng có sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, bản lĩnh, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong... chững chạc hơn, tốt hơn so với trước khi nhập ngũ.

Phòng, chống “diễn biến hòa bình”: Lại tuyên truyền "bẩn"!
Minh họa: HẢI LÂM 

Thực tế là đại đa số các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đều ưu tiên tuyển chọn người đã được học tập, rèn luyện qua môi trường Quân đội, bởi họ thường có phẩm chất, năng lực, uy tín cao hơn.

Thực tế trong các đợt tuyển quân hằng năm thì luôn có hàng vạn thanh niên viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Họ vừa tự giác thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc, vừa muốn được học tập, rèn luyện trong môi trường Quân đội để trưởng thành, có đủ hành trang cần thiết lập thân, lập nghiệp một cách tự tin, bền vững. Như huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang năm nay có 100% thanh niên nhập ngũ viết đơn tình nguyện nhập ngũ; trong tổng số công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự đầu năm 2024 của tỉnh Hà Giang có gần 70% viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Có những gia đình cả hai, ba anh em ruột cùng xung phong nhập ngũ một đợt (như Nguyễn Khắc Tự Hiền Phúc, Nguyễn Khắc Tự Hiền Nhơn, Nguyễn Khắc Tự Hiền Nhân ở phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng).

Chắc chắn, chẳng có người hiểu biết nào lại dại dột tin vào luận điệu tuyên truyền “bẩn”, rằng “Thanh niên nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ quân sự là lãng phí mất 2 năm tuổi trẻ” (!). Nghe theo lời xúi dại ấy, có khi tự đẩy mình vào ăn chơi sa ngã, vi phạm pháp luật, đánh mất tương lai.

 

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Cảnh giác với dụng ý xấu

Hôm nay, ông bà Đậu-Tuyết thịt con gà, làm bữa cơm mừng con gái út vừa hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp THPT. Sau bữa cơm, thấy ông Đậu ngồi bần thần ngoài sân, bà Tuyết đi tới, vừa kéo ghế vừa hỏi:

- Ông lại có chuyện gì à? Lúc nãy nói chuyện với con thì rôm rả, sao giờ lại tâm trạng thế? Hay là đang tương tư bà nào? Tôi là tôi nghi lắm!

- Ơ, cái bà này, toàn nghĩ linh tinh. Tôi đang lo đây này, không hơi đâu mà đùa với chả cợt.

Thấy chồng gắt lên, bà Tuyết biết mình đùa vô duyên, liền rót chén nước chè đưa cho chồng, giọng nhẹ nhàng:

- Tôi đùa một tí thôi mà... Ông uống nước đi rồi nói cho tôi nghe nào...

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Cảnh giác với dụng ý xấu
Thí sinh thi tốt nghiệp THPT. Ảnh minh họa: TTXVN

- Hồi chiều, tôi ra đón con Ngà nhà mình thì gặp anh Tân cũng đợi con ở đấy. Anh Tân mở mạng xã hội đưa cho tôi xem. Tôi ngỡ ngàng khi đọc thấy đề thi ngữ văn trùng với suy đoán trên mạng, rồi có nhiều bình luận, chia sẻ, cho rằng có tiêu cực trong thi cử bà ạ!

Hiểu nỗi lo lắng của chồng, bà Tuyết nói:

- Tôi thấy ông vì lo quá mà mất khôn rồi đấy. Tin ông nói đã đăng trên các báo, đài, ti vi rồi. Hiện nay, công an đang vào cuộc điều tra, đã phát hiện một thanh niên chia sẻ trên TikTok và đang tiếp tục truy tìm nguồn tán phát thông tin này. Cơ quan công an khuyến cáo người dân không chia sẻ những thông tin sai lệch. Ban chỉ đạo cấp quốc gia Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 khẳng định, đề thi môn Ngữ văn được bảo mật an toàn tuyệt đối trước giờ thi. Còn thông tin ông đọc trên mạng gồm bài viết, bình luận, chia sẻ là những kẻ xấu cố tình tán phát làm ảnh hưởng đến tâm lý của thí sinh dự thi, gây hoang mang dư luận; nham hiểm hơn nữa còn là xuyên tạc công tác giáo dục, tổ chức thi cử để xảy ra tiêu cực của cơ quan các cấp đấy ông ạ!

Ở trong bếp, Ngà nghe rõ và hiểu đầu đuôi câu chuyện, liền mang đĩa cam lên mời bố mẹ, giọng vui vẻ:

- Con cảm ơn bố mẹ đã lo lắng cho con. Con trực tiếp tham gia kỳ thi và một số bạn ở các phòng khác đều nói kỳ thi năm nay tổ chức nghiêm túc, đúng quy chế. Còn con qua đối chiếu thấy kết quả làm bài cũng khả quan nên bố mẹ yên tâm ạ!

- Con nó nói đúng đấy ông ạ! Chương trình Thời sự tối nay cũng vừa đưa tin về kỳ thi được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, sâu sát và toàn diện; quá trình tổ chức thi bảo đảm an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế...

- Thì tôi cũng vì lo cho con nhà mình nên khi thấy thông tin, rồi đọc những bình luận đâm ra hoang mang. Tôi không biết đó là âm mưu của kẻ xấu, cố tình dựng chuyện, thổi phồng, xuyên tạc.

Nghe vậy, bà Tuyết nhìn ông Đậu, giọng nhẹ nhàng:

- Đấy ông thấy chưa, từ giờ phải chú ý cảnh giác với thông tin trên “phây”, trên "tích tốc", trên mạng đấy, không phải thấy gì cũng tin được đâu. Mình chỉ nên tin báo chí chính thống, không lại mắc mưu những kẻ có dụng ý xấu đấy ông ạ!